Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn - Trần Dần

Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là Những ngã tư và những cột đèn của nhà văn Trần Dần. Chuyện rằng: vào giữa những năm 1960, nhà văn Trần Dần, khi đang trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo của bản thân đã được một vài cán bộ công an hảo tâm tìm cách cho đi thâm nhập một số trại giam do Bộ Công an quản lý đang giam giữ những ngụy quân thời Pháp sau ngày tiếp quản Thủ đô. Kiểu đi như thế gọi là “đi thực tế” để khi về viết văn trên những cứ liệu của thực tế chuyến đi đó. Công thức ở đây là: cơ sở cung cấp tài liệu về một vấn đề cụ thể, nhà văn đi cho thấy, tiếp xúc cho biết, và cái viết ra thường chỉ là một báo cáo, một sơ đồ, dù có được vẽ vời thêm cho có vị văn chương. Vậy, với Trần Dần, bài toán đặt ra là: viết về hoàn cảnh của những người ngụy quân Pháp ở Hà Nội khi chiến tranh kết thúc, phần thắng thuộc về đội quân cách mạng, với định hướng viết đã rõ ràng là họ phải quy phục chế độ mới. Đề bài này không khó đối với ngòi bút Trần Dần. Nếu an phận, viết theo lối trả bài (trả cả ơn nghĩa nữa, nếu có), ông dễ phóng bút viết được nhanh, được trơn tru, nộp quyển, và quên đi nhanh chóng cái viết ra đó. Nhưng ông đã không làm thế, vì nhân cách là văn cách của ông không cho phép làm thế. Trần Dần, nhà văn luôn táo bạo quyết liệt trong từng câu chữ, hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong từng cái viết. Viết, với ông, bao giờ cũng là phải mới, phải khác, phải cách tân. Vì vậy, kết quả chuyến thực tế ấy, dưới tay ông đã thành tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn (NNTVNCĐ). Trần Dần đã giải được bài toán văn chương một cách xuất sắc. Câu chuyện của anh ngụy binh Dưỡng và mấy người bạn cùng cảnh ngộ trong những ngày đầu tiếp quản Thủ đô nếu kể ở ngôi thứ ba khéo lắm cũng chỉ được một truyện kể. Trần Dần đã chuyển nó thành ngôi thứ nhất thông qua hình thức cuốn nhật ký của Dưỡng, xen kẽ là lời kể của một vài nhân vật khác có tham dự vào đường dây hoạt động của nhân vật được kể ở ngôi thứ ba. Bằng hình thức này, Dưỡng đã được phát tiết tất cả những suy tư lời lẽ, hành vi của một thanh niên Hà Nội tạm chiếm, của một người lính lái tàu bò, và được bộc bạch tự nhiên nhất toàn bộ trạng thái tâm lý của mình vào một thời điểm hệ trọng của thời cuộc và số phận. Nhưng cái chính ở đây không phải chỉ ở nội dung cuốn nhật ký, mà ở cái cách ghi nhật ký của Dưỡng. Cái cách ghi ấy mới là một nội dung chính của cuốn tiểu thuyết của Trần Dần, nó thể hiện rõ trạng huống của một thành phố từ chiến tranh sang hòa bình và trạng thái của những con người bị mắc kẹt trong trạng huống ấy.  Còn có thể nói được rất nhiều về và từ cuốn tiểu thuyết NNTVNCĐ của Trần Dần. Trên đây tôi chỉ nói nhanh nói sơ về giải pháp nghệ thuật mà nhà văn đã đưa ra để thực hiện sáng tạo văn chương của mình. Đấy chính là cách viết nội dung chứ không phải kể nội dung, như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã từng chuyển dẫn từ lý thuyết văn học của Nga về. Cho nên không phải câu chuyện kể làm nên nội dung, mà là cách kể câu chuyện, hay hình thức đó cũng chính là nội dung. Điều đáng kinh ngạc là 45 năm trước, trong hoàn cảnh bị vây bủa của bản thân và sự bít bùng của một xã hội thời chiến, Trần Dần đã độc hành mở cho mình một con đường tiểu thuyết mà bây giờ ngoái lại sau lưng ông vẫn hầu như chưa có ai tiếp bước. May mắn bản thảo được giữ lại để bây giờ in ra. Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là NNTVNCĐ. Đó là Trần Dần từ 45 năm trước, khi cuốn sách mới được viết ra.  Đó là Trần Dần ở 45 năm sau, khi cuốn sách đã được in ra, trở thành một hiện tượng của văn học nước nhà năm 2011.  Kinh ngạc vì sức sáng tạo đột khởi và đột biến của một gương mặt văn chương quyết liệt nhất Việt Nam, nhưng cũng chính vì thế lại thấy buồn cho văn học Việt Nam sau nửa thế kỷ vẫn thấy là cũ mòn so với tác phẩm này. Do vậy, Trần Dần, bằng thơ và văn của ông để lại, vẫn mãi còn thách thức các nhà văn, nhà thơ Việt Nam.  *** Trần Dần Được đánh giá là người cách tân trong thơ cả về hình thức (với lối thơ bậc thang) lẫn tư tưởng (đa diện, triết lý...) và về thơ Trần Dần có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Ngay sau Phong trào Thơ mới, Trần Dần đã chủ trương làm thơ theo trường phái tượng trưng cùng với nhóm Dạ đài. Theo nhà thơ Dương Tường: "Thơ Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng chính ông ấy cũng nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị chân thiện mỹ đều là khó hiểu”. Mặc dù suốt 30 năm thơ ông không được xuất bản nhưng ông vẫn miệt mài sáng tác theo con đường nghệ thuật mà mình suốt đời theo đuổi. *** Tác giả và tác phẩm có bao giờ chia nhau cùng số phận? Có bao giờ đi bên nhau suốt hành trình cuộc đời? Trần Dần và Những ngã tư và những cột đèn của ông có lẽ là những ngoại lệ, có xa cách, có hội ngộ, và mỗi bên theo đuổi một số phận khác thường. Trần Dần viết Những ngã tư và những cột đèn sau một thời gian tiếp xúc với nhiều ngụy binh cũ thời Pháp thuộc. Sở Công an Hà Nội đã cấp giấy phép ra vào trại giam, để sau đó bản thảo được gửi lên Sở Công an, khi đã hoàn thành. Đây là bản viết tay duy nhất, đề năm 1966. Cuộc chia tay của tác giả và tác phẩm kéo dài 22 năm. Một ngày năm 1988 Sở Công an Hà Nội mang bản thảo trả lại Trần Dần, tại nhà riêng, cùng tập thơ chép tay Cổng tỉnh. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng toàn bộ các nhà xuất bản đều từ chối ông, cùng Những ngã tư và những cột đèn, mặc dù trên danh nghĩa, Trần Dần và các bạn của ông thời Nhân văn-Giai phẩm đã được Hội Nhà văn chính thức ra quyết định phục hồi năm 1987. Những ngã tư và những cột đèn, cùng mọi tác phẩm khác, lại bị trả vào ngăn kéo. Phải chờ thêm bốn năm sau ngày nhận lại hội tịch, tác phẩm đẩu tiên của Trần Dần mới được xuất bản, năm 1990, là cuốn Bài thơ Việt Bắc. Trước khi Trần Dần mất hẳn khả năng làm việc, vì bệnh tật, ông đã quay trở lại với Những ngã tư và những cột đèn một lần nữa, lần cuối cùng. Ông chép lại, và sửa chữa chủ yếu về văn phong. Trong nhật ký 1989, ông nhắc nhiều lần về tiểu thuyết này, ông còn muốn viết một tiểu thuyết nữa. Thế rồi một Những ngã tư và những cột đèn khác ra đời, nhưng cũng là lúc ông khép lại nhật ký đời ông, khép lại những Sổ bụi, cùng toàn bộ sáng tác. Đấy là những ngày giao thừa giữa năm 1989 và 1990. Lần xuất bản thứ nhất này, của Những ngã tư và những cột đèn, sẽ đánh dấu 21 năm nữa, từ ngày bản thảo được sửa chữa. Và 44 năm, sau ngày tiểu thuyết được hoàn thành.   Những ngã tư và những cột đèn có thể là một tiểu thuyết về chiến tranh, như lời thông báo của anh nhà văn không tên, ở trang đầu cuốn sách? Những tình bạn, những tình yêu, đã đi qua chiến tranh, đi qua hòa bình, rồi lại rơi vào chiến tranh, có còn nguyên vẹn? Và những tính cách, thói quen con người, có thể nào không thay đổi cùng hoàn cảnh? Không một cảnh chiến tranh, nhưng hai chữ chiến tranh đi vào tiểu thuyết ngay từ trang một và trôi theo nhật ký, như một ám ảnh, cho đến trang cuối cùng. Chiến tranh do vậy, tồn tại như một bè đệm. Để “con người TOÀN PHẦN và CỤ THỂ vẫn tiếp tục trong chiến tranh. Và mạnh hơn chtến tranh”, Trần Dần kể như vậy, về Những ngã tư và những cột đèn, trong nhật ký 1989. Nhưng bản thảo lần thứ hai còn mang thêm một bè đệm khác, cả anh ngụy binh cũ tên Dưỡng, cả anh nhà văn không tên, đều chia nhau cùng một suy tư, về hiện tại, về quá khứ. Họ xử sự với thời gian cùng một cách. Dưỡng tính thời gian theo lối của riêng anh: để gọi tên mùa thu là mùa đông, để ngày tiếp quản tháng Mười trở thành mồng một Tết. Anh nhà văn đi tìm những định nghĩa về thời gian, luôn luôn nhầm lẫn giữa tuần lễ bảy ngày và Chủ nhật. Thời gian của toàn bộ tiểu thuyết di chuyển liên tục, từ 11 năm trước, đến 11 năm sau, rồi lại về 11 năm trước, vậy thì đâu sẽ là hiện tại thực? Dường như những nghi vấn của họ với thời gian, thực chất để đòi những câu hỏi khác về trách nhiệm của người đang sống, đối với hiện tại, và quá khứ. Trong một trang nhật ký 1989 Trần Dần viết: “Người ta nói nhiều, đến bố cục, chủ đề, í đồ không rõ… Xong người ta bàng hoàng và bảo: in cái này hơn Người người lớp lớp. Vâng, đúng là xa lạ. Tôi tuyên ngôn: tào lao - xông xênh - bàng hoàng. Vô hình, nhưng rõ rệt. Hiện hữu vô hình ấy, là một thực thể. Bàng hoàng ở đó. Bàng hoàng ở những ngã tư. Ai chẳng luôn gặp, những ngã tư. Để rẽ đường nào?” Rồi ở một trang khác, ông lại quay về Những ngã tư và những cột đèn: “Đời lắm ngã tư? Rẽ một ngã tư là trách nhiệm sinh tử, phải cẩn thận, kẻo hối bất kịp. Nhưng cẩn thận, không có nghĩa tính toán, chi li, chi hoe, mà trực cảm mang hết mình, ngửi ngửi ngã tư cẩn trọng rồi hãy rẽ”. 45 năm, kể từ ngày nhà văn bắt đầu chép lại cũng bằng mực tím “250 trang nhật kí, lem nhem mực tím” của anh ngụy binh Dưỡng, cho đến hôm nay, những ngã tư của tiểu thuyết vẫn đóng kín. Đây là “những ngã tư đời láo nháo nốt chân. Láo nháo cột đèn láo nháo đèn” của thế kỷ đã qua. Hôm nay, một ngày năm 2010, chúng mở cửa nằm chờ những bước chân độc giả, để gặp gỡ một thế hệ mới. Vũ Văn Kha Mời các bạn đón đọc Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn của tác giả Trần Dần.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Dâu của Lionheart - Michelle Willingham
Thị nữ của công chúa Berengaria, Adriana, nhận nhiệm vụ của cô ấy với nữ hoàng tương lai của nước anh một cách nghiêm túc – cô sẽ bảo vệ cô ấy cho đến chết! Khi chuyến du hành trên biển của họ đến vùng đất Holy kết thúc bởi vụ đắm tàu và bị bắt giữ, Adriana biết rằng hy vọng duy nhất của cô là người đàn ông Ai len bí ẩn, Lian MacEgan. Liam trốn sang phía vua Richard của Lionheart và cùng họ lập kế hoạch giải cứu. Không gì có thể ngăn cản sự thành công của những chiến binh này – những cô dâu tương lai của họ đang bị bắt giữ ở Cyprus và họ sẽ kéo cả địa ngục xuống để giải cứu họ. *** 0BxJKo4pJUQugWFRVOUlDVmJHaUU là tác giả đạt giải RITA năm 2010 (Giải thưởng danh giá dành cho các nhà văn lãng mạn xuất sắc nhất nước Mỹ). Michelle đã xuất bản hơn hai mươi cuốn sách và tiểu thuyết ngắn. Hiện nay, bà đang sống cùng gia đình ở Virginia. Ghé thăm trang web của bà tại www.michellewillingham.com.  Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam: - Chàng công tước bí ẩn (XB 2015) - Bí mật tội lỗi (XB 2014) *** Pamplano, Vương quốc của Navarre, năm 1187 “Ta không biết là nàng sẽ đến,” Richard nói, với lấy tay nàng. Chàng đã cởi bỏ chiếc áo giáp chàng đã mặc lúc sớm và mặc vào một chiếc áo dài bằng lụa màu xanh dương có đính lông. Cái áo choàng màu tối của chàng đặt trên vai, và thậm chí trong ánh sáng trăng, Berengaria vẫn có thể quan sát thấy đôi mắt xám lạnh và tia sáng màu hung đỏ của mái tóc chàng. “Tôi làm gì có sự lựa chọn nào khác?” nàng buộc tội. “Chàng đã đánh cắp chiếc nhẫn của tôi tại cuộc đấu trên ngựa khi chàng hôn tay tôi. ’ Nắm lấy lòng bàn tay mình, nàng gửi cho chàng một cái nhìn cảnh báo. ‘Tôi muốn lấy lại chiếc nhẫn của tôi. ’ ‘Ta muốn có cớ để gặp lại nàng. ’ Chàng gửi cho nàng một nụ cười chậm rãi mà nhanh chóng làm tăng nhịp đập của nàng. Chàng mở lòng bàn tay mình ra, và một chiếc nhẫn bằng vàng có đính ngọc lục bảo xuất hiện. ‘Đây là cái nàng muốn à? ’ Khi nàng cố gắng chộp lấy nó, chàng nắm bàn tay lại. ‘Hãy đến gần hơn, và nàng sẽ có nó. ’ ‘Đừng làm trò nữa, vì Chúa. Tôi không quan tâm đến điều đó. ’ ‘Nếu đó là sự thực, nàng sẽ không đến. Nàng sẽ gửi một người hầu đến lấy chiếc nhẫn. ’ ‘Và chàng đã từ chối trả lại nó. ’ Chàng tiến đến gần hơn và ấn chiếc nhẫn vào tay nàng. ‘Nàng nghĩ ta giống một kẻ hung ác à? ’ ‘Tôi không biết chàng là ai. ’ Mặc dù bàn tay nàng đã đeo găng nhưng nàng vẫn có thể cảm nhận được sức nóng của làn da chàng. Một điều gì đó về người đàn ông này kích thích trí tò mò của nàng, trượt qua sự phòng thủ của nàng giống như người chiến binh là chàng. Đừng ở lại, Berengaria cảnh báo chính mình. Hãy rời khỏi ngay bây giờ. Cha nàng, vua Sancho sẽ rất tức giận nếu biết nàng đang đứng trong vườn với Công tước của Aquitaine, con trai của vua Henry Plantagenet của nước Anh. ‘Ta muốn biết nàng, ’ Richard nói chậm rãi. ‘Không một người phụ nữ nào từng đủ can đảm nói với ta theo cách mà nàng đã làm. ’ ‘Không, ’ nàng thì thầm. ‘Chàng không phải là người hứa hôn của tôi và sẽ không bao giờ là. ’ ‘Nàng đúng. ’ Bàn tay chàng di chuyển lên má nàng, và khi nàng cố gắng tránh thì chàng giam giữ nàng tại nơi đó. ‘Berengaria, nàng nhắc ta nhớ đến Eva. Nàng đã cám dỗ ta với miệng lưỡi chua chát của nàng. Ánh sáng lóe lên trong đôi mắt tối màu của nàng. ’ Nàng rùng mình nhè nhẹ, và trí óc nàng lại cảnh báo nàng đi khỏi đây. Nhưng giọng chàng như bắt giữ nàng, trong khi ngón tay cái của chàng lần theo xương gò má nàng. ‘Ta ngưỡng mộ tâm hồn của nàng. ’ Richard xoay nhẹ mặt nàng để nhìn vào chàng. Sau đó chàng dựa vào gần hơn, đặt trán chàng trên trán nàng. ‘Nàng nên biết rằng đây là cơ hội cuối cùng của nàng để thoát khỏi sự đụng chạm. Nếu nàng ở lại, ta định sẽ hôn nàng. ’ Chàng thả nàng ra và đứng bất động, chờ đợi quyết định của nàng. Tâm trí nàng gào thét bảo nàng bỏ chạy, nhưng chân nàng vẫn đứng nguyên tại chỗ. ... Mời các bạn đón đọc Cô Dâu của Lionheart của tác giả Michelle Willingham.
Trận Chiến Cuối Cùng - Cornelius Ryan
Khi nói về chiến tranh, tôi không mạo hiểm nói lên những thông tin ngẫu nhiên, cũng không nói lên quan điểm của riêng mình; tôi chỉ mô tả lại những gì chính mắt tôi nhìn thấy, hoặc biết được từ những người tôi đã hỏi kỹ càng. Đây là một nhiệm vụ vất vả, vì các nhân chứng của cùng một sự kiện thường kể lại khác nhau khi nhớ lại, hoặc chỉ quan tâm đến hành động của phe này hoặc phe kia. Và rất có khả năng là tính tuân thủ lịch sử nghiêm túc của bản tường thuật của tôi sẽ làm bạn chán chẳng buồn nghe. Nhưng nếu ai muốn thấy một bức tranh chân thực về những sự kiện đã diễn ra nhận thấy rằng những gì tôi viết là hữu ích, thì tôi sẽ rất thỏa mãn. — THUCYDIDES (Peloponesian War, tập 1, năm 400 TCN) Cuốn sách này dành để tưởng nhớ ký ức của một cậu bé sinh ra ở Berlin trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Tên người đó là Peter Fechter. Năm 1962, Peter đã bị chính người dân mình bắn chết khi cậu ta tròn 17 tuổi. Thi hài Peter nằm bên biểu tượng bi kịch nhất dành cho chiến thắng của quân Đồng Minh. — BỨC TƯỜNG BERLIN *** Cố tác giả Cornelius Ryan là một trong những phóng viên chiến trường xuất sắc vào thời của ông. C. Ryan đã bay 14 phi vụ ném bom với Tập đoàn Không quân 8 và 9 Mỹ, theo dõi cuộc đổ bộ D-Day và bước tiến của Tập đoàn quân 3 dưới quyền tướng Patton vào Pháp và Đức. Ngoài “The Longest Day”, ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách, bài báo và nhiều vở kịch, kịch bản phim, chương trình TV và phát thanh. Ryan sinh ra và học tập ở Dublin, Ireland. Tác phẩm: - Ngày dài nhất - The Longest Day, 1959. - Trận đánh cuối cùng - The Last Battle, 1966. - Một cây cầu quá xa - A Bridge Too Far, 1974. *** A-Day, thứ Hai ngày 16 tháng 4 năm 1945. Cuộc chiến giành Berlin, cuộc tấn công cuối cùng chống lại Đệ tam Quốc xã của Hitler, bắt đầu đúng 4 giờ sáng thứ Hai ngày 16 tháng 4 năm 1945 – hay quân Đồng minh phương Tây còn gọi là A-Day. Vào lúc đó, cách thủ đô không đầy 38 dặm, lửa đỏ bừng cháy trên bầu trời đêm trên sông Oder đang dâng cao, khai hỏa một cuộc pháo kích mạnh mẽ và là mở đầu cho cuộc tiến công vào thành phố của quân Liên Xô. Cùng lúc đó, các thành phần trong Tập đoàn quân 9 của Mỹ đang quay trở lui khỏi Berlin – hướng về phía tây để đánh chiếm các vị trí mới dọc sông Elbe, nằm giữa Tangermunde và Barby. Ngày 14 tháng 4, tướng Eisenhower đã quyết định dừng cuộc tiến quân của liên quân Anh-Mỹ vào nước Đức. Ông nói, ―Berlin không còn là một mục tiêu quân sự nữa. Khi các nhánh quân Mỹ nhận được tin này, một số đoàn quân chỉ cách Berlin có 45 dặm. Khi cuộc tấn công bắt đầu, những người dân Berlin chờ đợi trong thành phố bị đánh bom đổ nát, tê liệt và hoảng sợ, bám víu vào niềm tin duy nhất còn lại – niềm tin sống sót. Cái ăn trở nên quan trọng hơn tình yêu, đào bới còn đáng giá hơn chiến đấu, chịu đựng còn có ý nghĩa quân sự hơn chiến thắng. Những gì xảy ra sau đó là câu chuyện về cuộc chiến cuối cùng – cuộc tấn công và chiếm đóng Berlin. Dù cuốn sách này có nhiều phần kể lại cuộc chiến, nhưng đây không phải là một bản báo cáo quân sự. Đúng hơn thì nó là câu chuyện của những người bình thường, cả binh lính và người dân, những người bị mắc kẹt trong nỗi tuyệt vọng, sụp đổ, kinh hoàng và sự cưỡng đoạt trong thất bại và chiến thắng. ... Mời các bạn đón đọc Trận Chiến Cuối Cùng - Cornelius Ryan.
Tất Cả Các Dòng Sông Đều Chảy - Nancy Cato
Nancy Cato còn là một cái tên rất lạ đối với độc giả Việt Nam. Nhưng khán giả của màn ảnh nhỏ của Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh lại rất nhớ cuốn phim truyền hình nhiều tập ''Tất cả các dòng sông đều chảy", được dàn dựng dựa trên quyển tiểu thuyết cùng tên của bà. Trong người xem còn đậm nét hình ảnh kiều diễm của Philadelphia Gordon với đôi mắt đăm đắm nhìn như thấu suốt lòng người, và những tình tiết hấp đẫn xoay chung quanh cuộc đời của nữ họa sĩ nhiều cá tính độc đáo này. Cùng với Colleen Mc Cullough, Nancy Cato đang khiến thế giới thay đổi sư đánh giá đối với nền văn học Úc, xưa nay, vốn mờ nhạt và thiếu bản sắc. Nếu "Những con chim ẩn mình chờ chết" của Colleen Mc Collough làm say mê độc giả bốn phương với câu chuyện đầy kịch tính dưới một nghệ thuật mô tả tài hoa, sống động thì ''Tất cả các dòng sông đều chảy'' với ngôn ngữ chuẩn xác, tính cách nhân vật xây dựng chặt chẽ, lồng trong bối cảnh nước Úc phong phú, cũng đáng mặt kỳ phùng (báo Publishers Weekly). "Tất cả các dòng sông đều chảy'' viết về đời của nữ họa sĩ Philadelphia diễn ra trên dòng sông Murray và Darling, miền Nam nước Úc. Từ thuở hoa niên sống với dì dượng bên bờ sông, những ngày làm nữ thuyền trưởng duy nhất dọc ngang vùng Victoria, rồi đến lúc tuổi già bóng xế, đời cô gắn liền với nhịp đập của sông nước. Nhưng "Tất cả các dòng sông đều chảy" không đơn thuần chỉ là chuyện kể về đời riêng của một con người. Ở đó chứa đựng những suy nghĩ rộng hơn, bao quát hơn và mang chất triết lý. Đời người như đời sông, như cuộc sống hòa tan với thời gian: luôn luôn trôi đi nhưng không ngừng đổi mới, mãi mãi biến chuyển nhưng muôn đời vẫn thực. Tất cả sông rồi sẽ đi về biển, từ biển bao la sẽ rót vào những lòng sông mênh mông tràn đầy, mạch luân lưu không ngơi nghỉ ấy là cuộc sống. Sẽ không bao giờ có cái chết vì nơi tận cùng cũng là khởi thủy cho những mầm sống mới. Mượn dòng sông và đời họa sĩ Philadelphia để thể hiện những suy nghĩ của mìnhnhư cuộc sống, Nancy Cato trong ''Tất cả các dòng sông đều chảy'' còn viết những trang rất chân thực về nước Úc đầu thế kỷ XX. Nước Úc và thời định cư của người da trắng cũng là đề tài cho các tiểu thuyết sau này của bà: ''Tổ tiên", "Đường nâu"," Tây Bắc hướng Nam''.. *** Một dòng nước nhỏ vừa phát sinh trên cao, trong vùng núi Alp ở Úc, di chuyển dưới tuyết mà không ai trông thấy hoặc có thể thoáng thấy xuyên quan một cái hố che bóng xanh lơ giữa những chiếc cầu tuyết đang tan chảy. Càng lúc càng rộng và càng sâu hơn, dòng nước cuồn cuộn quanh những tầng đá mòn, ngầu bọt xuyên qua những ghềnh và nhảy chồm lên những thác nước, rồi cuối cùng chảy lên các cánh đồng như một dòng sông rộng và nguy nga. Giờ đây, chính nó được các nhánh sống từ phía nam, phía đông và phía bắc đổ vào. Người ta bảo rằng có những mẫu chất khoáng và hữu cơ trên thế giới có thể được tìm thấy trong các dòng nước sông Murray. Vàng, đất sét, than đá, đá vôi, người chết, cá chết, cây đổ, thuyền mục; tất cả hoặc bị tan hoặc bị vỡ ra rồi bị cuốn trôi trong dòng sông trầm lặng đó. Nó giống như cuộc sống bị tan trong thời gian: lúc nào cũng trôi qua. ấy thế mà lúc nào cũng như cũ. Càng chảy xa nó càng trở nên phức tạp hơn, dòng sông càng trở thành già cỗi và lờ đờ vào lúc nó đến gần biển cả. Dòng sông quanh co xuyên qua các biển hồ rộng hầu như không chảy và những con kênh đầy cát về phía sóng lớn vỗ bờ của vịnh Goolwa, những đợt sóng cuồn cuộn dài hàng dặm của Đại dương phía Nam. Thị trấn nhỏ Goolwa mọc lên trên khúc quanh cuối cùng của con sông lớn, chậm và mệt mỏi này. Những tòa nhà cũ kỹ, làm bằng đá vôi ở địa phương, đã phai màu gióng như màu của những ngọn đòi tháp rợp nắng phía sau. Trước mặt, dòng sông trải dài trên cầu tàu gấp khúc và hoang vắng. Một số chiếc thuyền chèo cũ kỹ bị cột lại như những nhà thuyền (House boats), hoặc nằm nghỉ trên bùn. Các bạn có thể đến thăm thị trấn Goolwa hằng chục lần mà không biết rằng gần đấy là biển, cũng không biết rằng cửa sông Murray mất hút trong những đồi cát hỗn độn. Rồi vào một ngày có gió nam, hoặc vào một đêm tĩnh mịch giữa mùa hè, các bạn sẽ nghe thấy một tiếng sấm nhỏ. Đó là tiếng nói của biển cả. Con sông có thể trầm lặng và trong vắt, phản chiếu sao Thập Tự sáng chói trong dòng nước tối om, nhưng lúc nào tiếng gầm của sóng cồn vỗ bờ kia cũng nhấn mạnh sự êm đềm, bàng bạc vẻ tĩnh mịch với âm thanh không bao giờ tắt của nó. Giờ đây, tất cả biến thành một, dòng nước nhỏ dưới lớp tuyết, ngọn thác, con suối trong vùng núi và dòng nước tuôn chảy, và trong âm thanh lúc cuối cùng nó tan chảy, con sông tựa hồ như bảo rằng: “Không có cái chết: lúc kết thúc cũng là lúc khởi đầu”. ... Mời các bạn đón đọc Tất Cả Các Dòng Sông Đều Chảy của tác giả Nancy Cato.
Điên Cuồng Bất Đắc Dĩ - Azit Nexin
Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 — 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Thường được gọi với cái tên "Aziz Nesin", đây nguyên là tên cha ông, được Nesin sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün. Tuyển tập này giới thiệu những truyện cười đặc sắc sau của Azit Nêxin: Điên cuồng bất đắc dĩ Giải sầu chủ nhật Đức vua không nhận ra mình Khi chờ kiệt tác Loại vi trùng quý hiếm Thương thay giống lừa chúng tôi Bà chủ Phụ tùng thời đại văn minh Tình yêu cuồng nhiệt Mảnh sắt gỉ trong kho báu Mời các bạn đón đọc Tuyển tập truyện cười đặc sắc: Điên Cuồng Bất Đắc Dĩ của tác giả Azit Nexin.