Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót

Teddy là một chàng trai trẻ yêu thiên nhiên và thích làm thơ. Anh luôn mong muốn được sống một cuộc đời trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Bỗng một ngày, Chiến tranh Thế giới thứ Hai nổ ra. Cuộc sống của anh hoàn toàn bị đảo lộn. Sự tàn khốc của chiến tranh đã làm thế giới quan và nhân sinh quan của anh thay đổi. Mỗi ngày với anh đều giống như ngày tận thế. Anh không tin mình còn có một tương lai. Thế rồi chiến tranh đột ngột kết thúc. Teddy bị mất phương hướng. Anh chưa chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống của một người bình thường. Sống sót sau chiến tranh không hẳn là điều may mắn mà đã trở thành một gánh nặng với anh. Liệu anh có thể đối mặt với những khó khăn, sóng gió liên tiếp ập tới cuộc đời mình? Và anh phải làm thế nào để xoay xở được trong cái tương lai mà anh chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ có? --------- Đôi nét về tác giả Kate Atkinson: Kate Atkinson, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1951, là nhà văn người Anh có các tác phẩm đạt khá nhiều giải thưởng. Bà là tác giả lập kỷ lục ba lần thắng giải Costa Book, với cuốn tiểu thuyết đầu tiên có tựa đề Behind the Scenes at Museum (năm 1995), Life after Life (Chuỗi đời bất tận - năm 2013) và A God in Ruins (Những chú chim chưa bao giờ được hót - năm 2015). Ngoài ra, bà còn viết bộ bốn cuốn tiểu thuyết bestselling về cựu thám tử Jackson Brodie được chuyển thể thành phim truyền hình ăn khách trên đài BBC. *** Review sách Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót Nguyễn Linh đã review NHỮNG CHÚ CHIM CHƯA BAO GIỜ ĐƯỢC HÓT #review Các bạn đã nghe chim chiền chiện hót bao giờ chưa? Có bao giờ nghe tiếng hót con chim chiền chiện mà cảm thấy yêu cuộc sống này biết mấy chưa?  Có bao giờ nhìn thấy một chim chiền chiện bị bắt rồi không bao giờ hót được nữa và thấy luyến tiếc tiếng hót tuyệt diệu của nó không? Đọc xong "Những chú chim chưa bao giờ được hót" sẽ có cảm giác buồn và tiếc như thế đấy. Mình cực kỳ thích bộ sách trước "Chuỗi đời bất tận" của Kate Atkinson, nên khi bộ "Những chú chim chưa bao giờ được hót" mới ra là mình đã đặt mua ngay.  Cuốn sách xoay quanh chàng trai Teddy, em trai của Ursula Todd trong Chuỗi đời bất tận, một chàng trai yêu thơ ca, yêu thiên nhiên như yêu tiếng hót của chim chiền chiện vậy. Nhưng khi chiến tranh ập đến, anh nộp đơn gia nhập lực lượng không quân hoàng gia Anh, và trở thành một chú chim bay lượn trên bầu trời.  Anh không thể nhớ được bao nhiêu chuyến bay mình đã lái, bao nhiêu quả bom đã thả xuống, bao nhiêu người đồng đội đã hy sinh trên những chuyến bay cùng anh. Nhưng anh nhớ rất rõ về chuyến bay cuối cùng, khi tất cả mọi người, kể cả anh đã nghĩ mình sẽ chết, nhưng hóa ra lại sống, lại có tương lai, một tương lai không chuẩn bị trước.  Teddy trở về, kết hôn với cô bạn thời nhỏ Nancy, hai người có một đứa con - cô con gái bướng bỉnh và khó bảo Viola. Teddy thậm chí còn có hai đứa cháu ngoại Sun và Moon Bertie. Nhưng sống sót sau chiến tranh không hẳn là một điều may mắn, những ký ức đau thương trên bầu trời, cả dưới mặt đất lũ lượt ùa về xen lẫn với những sóng gió và khó khăn của thời bình khiến tương lai của Teddy cũng mờ mịt như chính màn khói của chiếc máy bay cháy rụi trong trận chiến cuối cùng của anh. Với những ai chưa đọc "Chuỗi đời bất tận", hoặc không thích cách kể chuyện của Kate Atkinson sẽ thấy cuốn sách kể dài dòng thừa thãi về cuộc đời của Teddy. Nhưng nên nhớ đây đâu phải là tiểu thuyết trinh thám, bạn đâu đi tìm hung thủ của vụ án hay động cơ gây án của hắn, khi bạn đọc tiểu thuyết, ấy là bạn đang đọc chuyện đời của một nhân vật, vui cùng niềm vui, buồn cùng nỗi buồn của anh ấy. Và chính vì đọc sách với một tâm thế không mong chờ cái kết sẽ diễn ra như thế nào, bạn sẽ vỡ òa ra khi đọc đến trang cuối cùng của cuốn sách.  Có một chi tiết có lẽ rất phù hợp với thời tiết này. Khi nghe tiếng chim chiền chiện hót, tức là hôm đó là một ngày nắng đẹp trời, còn những ngày âm u mưa gió sẽ không thể nghe thấy được tiếng chim. Bức ảnh chụp từ mùa mưa lần trước mà giờ mới được đem ra dùng. *** 15 tháng 9 năm 2001 Đã bốn ngày từ khi tòa tháp đôi sụp đổ, tôi tỉnh dậy vào buổi sáng và thấy một gã khổng lồ đứng đó, ngay cuối giường. Tôi gần như hét lên theo một cách ẻo lả nhất, nhưng tất cả những gì thoát khỏi lồng ngực là sự im lặng. Không có tiếng thét nào cả. Tốt. Bởi nếu có thì sẽ làm cho tên khổng lồ kia sợ hãi và trốn tịt xuống gầm giường. Chỉ mất một hai giây để tôi nhận ra đó là ai. Và tồi tệ hơn, là tôi đang ở đâu. Rồi tôi thực hiện thói quen mới được hình thành của mình từ sau sự kiện 11/9, thường là sau một giấc ngủ ngắn vạ vật trong xe của ai đó: liệt kê lại những việc đã xảy ra trong đầu. Những điều đã mất, những điều đã thay đổi. Chẳng còn New York, chẳng còn nghề ngỗng, chẳng còn người mẹ nào nữa, chẳng còn bạn bè nào khi mà tất cả bọn họ đều ra đi cùng hai tòa tháp, tất cả mọi thứ tôi làm để mãi mãi rời bỏ Kansas, cuối cùng đều là vô nghĩa. Tôi quay về nơi khỉ ho cò gáy này, nơi mà tôi đã thề sẽ không bao giờ trở lại. Và mắc kẹt ở nơi đây. Những cơn ác mộng cứ tiếp diễn nhau một cách “trơn tru”. Mọi thứ tốt đẹp đều biến mất. Tôi lại ngước nhìn gã khổng lồ gầy gò, là anh tôi, Ben. Tôi cũng đoán trước mình sẽ chạm mặt anh, có điều… Tối qua khi tôi về tới nhà thì đã muộn - tất nhiên, muộn theo tiêu chuẩn của Ben - và lúc đó anh đã đi ngủ rồi. Anh vẫn không nhìn thẳng vào mắt người khác. Nhưng cũng không giả vờ bằng cách nhìn vào điểm giữa hai chân mày như dân kinh doanh vẫn làm. Mọi hành động của Ben đều không được bình thường cho lắm. Anh quay hẳn đầu đi và nhìn xuống đất theo một góc bốn mươi độ, mắt dán vào sàn nhà. Đấy. Một điều chẳng hề thay đổi. “Chào anh,” tôi nói. “Em phải đưa anh đi làm. Dậy đi.” Đó là những lời đầu tiên chúng tôi nói với nhau sau sáu năm. Tôi ngồi dậy, vẫn mặc chiếc quần đùi ngắn, chớp mắt. Tôi không được ngủ đủ giấc. Hoàn toàn không. Mắt giống như đang có bụi vậy, và dạ dày tôi thì gầm gào. “Em có xe không?” Ben hỏi. Tôi biết anh đang lo lắng. “Em không.” “Thế làm sao em chở anh đi làm được?” “Cô Jespers nói rằng em có thể dùng xe của mẹ.” “À.” “Nhưng cô ấy không biết mẹ để khóa ở đâu. Anh có biết không?” “Có,” Ben đáp. “Anh biết.” “Thế chỉ cho em đi?” “Ừ.” “Luôn đi. Luôn và ngay chứ?” “Mẹ để chìa khóa ở cái móc chỗ cửa trước ấy.” “Tốt.” Tôi nói, Có tiến bộ. Câu này thì tôi không nói ra. “Thế… ờm… anh có nhận ra em là ai không?” “Có,” Ben đáp. “Anh nhớ được em à?” “Ừ.” “Em là ai?” “Em của anh.” “Đúng rồi. Tốt. Anh nhớ tên em chứ?” “Ừ.” “Thế sao anh không nói tên em ra?” “Vì em không bảo anh phải nói. Chỉ hỏi xem anh có nhớ không thôi mà.” “Thực ra, ý em là, sao anh không nói. Anh thử nói xem nào?” “Rusty*.” Cái biệt danh cũ, lâu rồi, cứa vào lòng tôi như một thanh sắt lởm chởm. Lởm chởm, và tất nhiên là… gỉ sét. “Giờ em được gọi là Russell.” “Vì sao?” “Vì em lớn rồi.” “Anh phải đi làm. Anh phải ở chỗ làm lúc 7 giờ kém 15 phút. Không thể muộn được. Ông McCaskill sẽ không thích anh đi muộn.” “Hẳn rồi. Được thôi. Thì đi làm. Thế anh ăn chưa?” “Rồi.” “Ăn gì?” “Ngũ cốc.” “Anh dậy lúc nào thế?” “Từ lúc năm giờ.” “Em có nghe thấy chuông báo thức đâu.” “Anh không đặt. Cũng không cần. Sáng nào anh cũng dậy lúc năm giờ.” “Sao anh chưa vào xe?” Tôi hỏi, lên giọng một chút để anh nghe thấy, nhưng cũng cố gắng ghìm xuống một chút, tránh làm phiền hàng xóm. Chiếc Buick cũ của mẹ tôi bắt đầu khởi động. Tôi có thể cảm thấy thứ rung động đặc thù dưới mông. Không nhẹ nhàng lắm. Tôi mở cửa phía lái xe, trườn người ra ngoài và nói với Ben, đang đứng cạnh cửa ga-ra, nhất quyết không vào xe. “Đây không phải loại cửa tự đóng được,” Ben nói, giọng rất to, không quan tâm đến việc hàng xóm có đang ngủ hay không. Giọng anh có vẻ mất kiên nhẫn. Như thể tôi phải biết rõ việc đó. Như thể tất cả mọi người đều phải hiểu chuyện theo cái cách mà Ben nghĩ vậy. “Anh đợi ở cửa ga-ra cho đến khi mẹ lái xe ra. Rồi anh đóng cửa. Sau đó anh mới vào xe.” Tôi thở dài, cẩn thận lùi xe ra khỏi ga-ra. Tôi không lái xe nhiều năm rồi. Và thực ra là bằng lái của tôi còn hết hạn từ lâu. Nhưng bây giờ không phải lúc để nói đến những việc như thế. Ben ngồi vào ghế bên cạnh, vắt dây an toàn qua vai. Tôi lùi chiếc Buick của mẹ lần nữa. “Em không được ra đường lớn,” anh nói. Và trước khi tôi kịp hỏi là vì sao, thì đã được nghe câu trả lời, “Em không được ra đường lớn cho đến khi thắt dây an toàn.” Tôi gật lia lịa, rồi thắt dây an toàn vào. Đó là cách nhanh chóng nhất, đỡ căng thẳng nhất để giải quyết vấn đề. Tôi vừa lái vừa ghé mắt nhìn Ben. Cố gắng quan sát xem sau sáu năm, anh đã thay đổi bao nhiêu. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, thứ tôi có thể thấy chỉ là anh trông già hơn thôi. Anh cao gần hai mét, tất nhiên tôi không trông đợi sẽ có thay đổi gì về điều này. Vẫn lêu nghêu, vẫn gầy gò, vẫn dài ngoằng, vẫn các cử động vụng về, tựa như một thứ ví dụ kỳ lạ nhất trên thế giới về một chú ngựa non; mặc dù bản thân Ben trông không còn trẻ nữa. Mái tóc nâu của anh cũng dài hơn và bù xù. Có thể chỉ đơn giản là anh chẳng chăm chút, nhưng mái tóc đó trông như một phong cách có chủ ý. Một kiểu tóc để tạo vẻ bất cần, lạnh lùng. Các cô gái trẻ tuổi thường sẽ thấy Ben thật cuốn hút. Đặc biệt là khi anh không nói gì và chỉ đứng yên một chỗ. Họ nghĩ rằng anh là kiểu bí ẩn, kín đáo một cách hấp dẫn, cho đến khi anh mở miệng. Họ sẽ ngay lập tức nhanh nhanh chóng chóng tránh xa anh, để quay lại với những việc quan trọng của mình. “Rẽ ở đây,” Ben nói. “Anh có quên gì không thế?” “Không.” “Em nghĩ anh có quên đấy.” “Là gì vậy?” “Anh quên nói với em là rẽ bên nào.” “Bên này,” anh nói, chỉ về bên phải. Mỗi con đường, mỗi tòa nhà mà chúng tôi đi qua, đều gợi lại những cảnh tượng thường xuất hiện trong cơn ác mộng tồi tệ nhất của tôi: đột nhiên tỉnh dậy và thấy mình lại ở cái thị trấn nhỏ bé đến mức đáng sợ này, nơi mà tôi bị cầm tù trong mười tám năm đầu đời. Tôi cố gắng nghĩ theo hướng đó. Đây là một giấc mơ tồi tệ. Sẽ dễ dàng và đỡ khó chịu hơn là chấp nhận việc trước mắt chính là thực tại. Giọng của Ben làm tôi giật mình. “Em muốn biết… à?” “Hả?” “Em muốn biết… điều gì đó đúng không?” “Ồ. Anh muốn nói gì hả. OK*. Nói đi.” “Có một thành phố lớn này. Có những tòa nhà rất to. Và ai đó đã lái máy bay. Đâm thẳng vào mấy cái tòa nhà đó. Ý anh là, hai cái máy bay. Và thế là chúng cháy. Chúng ở đây là mấy tòa nhà, không phải máy bay. Mà thực ra là cả hai.” “Em biết, anh ạ. Em đã ở đấy mà.” “Thế á? Nhưng em có bị cháy đâu.” “Em đứng đủ gần để thấy thôi, chứ không gần đến mức để bị cháy.” “Ồ,” Ben nói. “Em muốn biết… gì khác nữa không?” “Có.” Tôi nói, mặc dù không thực sự nghĩ vậy. “Em đã đi đâu thế?” Tôi hít một hơi, dài và sâu, rồi chầm chậm thở ra. Tôi biết sớm muộn gì anh cũng sẽ hỏi. Nhưng tôi đã nghĩ câu hỏi đầu tiên sẽ là về Mẹ. “Em đi học đại học. Anh biết mà.” “Ồ. Thế là em đã… gì ấy nhỉ? Khi mà hoàn thành ấy? Ở trường ấy.” “Tốt nghiệp.” “Ừ. Thế em đã tốt nghiệp chưa?” “Rồi.” “Khi nào thế?” “Cách đây hai năm.” “À.” Im lặng, có chút gượng gạo, chúng tôi đi qua hai khu nhà nữa. “Rồi sau đó em đến New York.” “New York! Đó là tên của cái thành phố lớn với những ngôi nhà cao tầng…” “Đúng rồi, anh ạ. Em biết mà.” “Em có muốn biết một thứ khác nữa không?” Anh không quan tâm đến việc tôi trả lời là muốn hay không. “Anh biết rất nhiều về việc đóng gói tạp hóa đấy nhé. Không dễ như người ta nghĩ đâu. Có rất nhiều thứ em phải biết. Như là em không nên để quá nhiều chai lọ thủy tinh cùng nhau bởi vì chúng có thể đụng vào nhau và vỡ. Và không để trứng ở đáy túi. Bánh mì cũng không để ở đáy. Hoa quả ở đáy thì có thể được, nếu là hoa quả cứng như dừa, chứ không phải loại mềm như là đào. Và mọi thứ phải cân bằng, nếu không người ta sẽ khó xách đi được. Đồ đạc cũng không thể quá nặng, không là đáy túi sẽ bị thủng. Anh cá là em không biết rằng việc đó cần nhiều kiến thức như thế.” “Chắc vậy.” Tôi nói, đột nhiên thấy thèm thuốc quá thể. Tôi đã không hút thuốc trong hơn bốn năm. Mà thậm chí lúc chứng kiến hai tòa tháp đôi đổ xuống tôi cũng không cảm thấy thèm thuốc như bây giờ. “Anh cá là anh biết nhiều hơn em.” Tôi thậm chí không hiểu là anh đang giận dỗi hay tự hào nữa. Hoặc là cả hai. “Chắc chắn rồi.” “Anh cá em không nghĩ rằng có bất kỳ thứ gì anh lại biết nhiều hơn em.” “Trước đây việc gì anh cũng biết rõ hơn em.” “Thế à? Anh không nhớ.” “Anh đã từng như vậy.” “Nhưng anh không nhớ. Kia rồi. Ngay kia. Siêu thị Gerson. Ngay góc kia rồi.” Mời các bạn đón đọc Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót của tác giả Kate Atkinson & Khánh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chỉ Còn Lại Tình Yêu - George Sand
Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George sand, cùng thời Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George Sand, cũng đồng thời là một trong những cuốn truyện hay nhất của văn học Pháp George Sand trước hết là một con người nổi loạn. Xuất thân quý tộc, học trường dòng, lấy chồng cũng thuộc tầng lớp quý tộc. Nhưng bà đã dứt khoát chối bỏ cái thế giới nhỏ hẹp, tù đọng của mình để dấn thân vào dòng đời ào ạt của tình yêu và sáng tạo. Bà đẹp. Một sắc đẹp "chết người". Đó cũng là một trong những lý do dẫn đến việc bà có rất nhiều người yêu. Năm 1822, cô gái Amantine - Aurore - Lucile Dupin - tên thật của George Sand, kết hôn với bá tước Casimir Dudevent, một địa chủ quý tộc vùng Nohant. Năm đó bà 18 tuổi. Năm sau sinh con đầu lòng. Và năm sau nữa, "cô gái một con" đã làm xiêu lòng viên quan tòa trẻ tuổi hòa hoa phong nhã Aurélien de Sèze trong một chuyến đi chơi vùng núi Pyrénées. Từ đó cho đến năm 1866, bà lên Paris, sống ly thân với chồng, và trải qua hơn hai chục mối tình khác. Người tình của bà, hầu hết là những nhân vật lừng danh trong giới tri thức: Prosper Mérimée, Alfred de Musset, cả hai đều là nhà văn lớn của nước Pháp; Dranz Lisze, nhà soạn nhạc nổi tiếng Hungary; Frédérich Chopin, nhạc sĩ thiên tài người Pháp gốc Ba Lan v.v... Theo nhiều nhà nghiên cứu, không phải tình yêu, tình bạn và sự giúp đỡ hào hiệp của bà không có một ảnh hưởng nhất định đối với tài năng sáng tạo của những người đó. Và ngược lại, họ cũng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp của bà. Bà viết nhiều, từ năm 1827 đến 1876 là năm bà mất, tính ra đã có tới 54 tác phẩm ra đời. Không giống với phần lớn các tác giả đương thời, văn chương của bà giản dị, trong sáng, đầy vẻ đẹp thuần phác của con người hòa quyện trong vẻ đẹp thiên nhiên. Với những tác phẩm như Ao ma, Cô bé Fadette bà có thể được xếp vào những người đi đầu của nền văn học hiện thực mang tính chất xã hội sâu sắc của Pháp. Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George Sand, cũng đồng thời là một trong những cuốn truyện hay nhất của văn học Pháp. Bà viết cuốn này năm 1832, lúc mới 28 tuổi, đang yêu say đắm Jules Sandeau, chủ nhiệm một tờ tạp chí lớn ở Paris. Bút hiệu George Sand chính thức ra đời từ cuốn này và là một kỷ niệm của mối tình với Jules Sandeau. Một chuyện tình. Hay nói cho thật đúng là cuốn truyện viết về chung thủy, trung hậu và sự lừa lọc, phản bội trong tình yêu. Indiana, nhận vật chính là một cô gái xinh đẹp, ngây thơ trong trắng như đóa hoa huệ mới nở buổi sớm mai. Nàng khao khát tình yêu và đã rơi vào bàn tay một tên sở khanh độc ác. Nếu cuối cùng nàng thoát khỏi sự sa đọa và lấy lại được niềm vui sống là nhờ có tình yêu chân chính của một chàng trai vốn đã yêu nàng, sẵn sàng vì nàng mà hy sinh hạnh phúc của mình. Từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, hơn một thế kỷ đã trôi qua. Tuy vậy, ta vẫn gặp trong Chỉ còn lại tình yêu những nhân vật, những tình huống, những trạng thái tâm lý hết sức gần gũi. Điều đó chứng tỏ sức sống bền chắc trong tư tưởng, tình cảm, và bút pháp của George Sand. Nhưng đồng thời cũng cho ta thấy rằng tình yêu, vẫn là cái gì muôn thưở, không bao giờ cũ đối với con người. NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ *** George Sand, tên thật là Amantine Aurore Lucile Dupin, sinh ngày 1/7/1804, mất ngày 8/6/1876. Bà là tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp. Trong hơn bảy mươi năm cuộc đời mình, nữ văn sĩ thiên tài đã sống một cuộc sống mãnh liệt, hết sức phóng túng nhưng cũng đầy sáng tạo. Bà là một ngoại lệ của văn học Pháp thế kỉ 19, một cá tính hấp dẫn khiến ngưới ta khó lòng cưỡng nổi. Cha của George Sand, Maurice Dupin là một người thuộc dòng dõi quý tộc, còn mẹ của bà, Sophie-Victoire Delaborde xuất thân từ tầng lớp bình dân. Cha mất sớm, George Sand sống với bà, rồi sau đó vào tu viện. Năm 1821, ở tuổi 17, bà kết hôn với Nam tước Casimir Dudevant và có hai con là Maurice (1823–1889) và Solange (1828–1899). Năm 1835, cuộc hôn nhân này tan vỡ và George Sand có nhiều mối tình khác với không ít các nhân vật nổi tiếng, trong đó có Alfred de Musset, nhà thơ lớn của Pháp và Frédéric Chopin, nhạc sĩ thiên tài Ba Lan. Bà cũng là bạn thân của nhà văn Gustave Flaubert. Tác giả của Bà Bovary từng nhận xét: "Phải quen nàng như ta đã từng quen mới biết được hết thảy những gì là nữ tính trong trái tim con người vĩ đại này." George Sand mất tại Nohant ngày 8 tháng 6 năm 1876. Tưởng nhớ đến bà, Victor Hugo viết: Ta khóc thương một người phụ nữ mất đi, ta suy tôn một nữ thánh bất tử. *** Gửi J. Nero Tháng Giêng năm ngoái, vào một ngày ấm áp và nắng đẹp, tôi đi Saint Paul để lang thang trong những khu rừng hoang vắng trên đảo Bourbon và mơ mộng. Ở đây, tôi nghĩ đến bạn, bạn của tôi ạ. Những khu rừng nguyên thủy ấy vẫn giữ cho tôi kỷ niệm về những chuyến đi và những công trình nghiên cứu của bạn; đất vẫn lưu giữ dấu chân bạn. Tôi lại tìm thấy ở khắp nơi những kỳ quan mà tôi đã đọc trong những chuyện kể thần diệu của bạn và xưa kia đã làm tôi say mê, và để cùng nhau chiêm ngưỡng những kỳ quan đó, tôi lại kêu gọi bạn ở châu Âu già lão, nơi bạn sống mai danh ẩn tích một cách nhũn nhặn và êm đềm. Một con người hạnh phúc, không một người bạn quỷ quyệt nào sẽ phơi bày trước thế giới trí tuệ và tài năng củ bạn. Tôi đến một chỗ hoang vắng ở khu vực cao nhất đảo, được gọi là Mũi Khét của Saint Paul. ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Còn Lại Tình Yêu của tác giả George Sand.
Mang Xuống Tuyền Đài - John Grisham
Nguyên tác: The Chamber Tác giả: John Grisham Dịch giả: Hoàng Hải Thủy Làng Văn, Canada, xuất bản 1998 Truyện The Chamber – Mang Xuống Tuyền Ðài – làm tôi cảm động. Truyện tả tình gia đình, tình ông cháu, tình cô cháu. Truyện xẩy ra trong một tỉnh miền Nam Hoa Kỳ, nơi trước năm 1960 có nạn kỳ thị Ðen Trắng rất nặng. Ông già Cayhall bị giam trong tù, bị xử án tử hình vì tội đặt bom làm chết người, án tử sắp được thi hành. Adam, một luật sư trẻ tuổi vừa ra trường, cháu nội của ông già Cayhall, về tỉnh này để cứu ông nội khỏi bị người ta giết. Ông bố của Adam tự tử chết, bà mẹ của Adam đi lấy chồng khác, Adam có bà cô ruột là cô Lee ở thành phố có nhà tù giam ông già Cayhall. Cô Lee Cayhall sống ly thân với ông chồng chủ ngân hàng, vợ chồng cô có anh con trai nhưng anh này là dân Gay, tiếng Sài Gòn xưa gọi là Pê Ðê, anh sang Hà-lan làm bồi nhà hàng và sống như vợ chồng với một gã đàn ông. John Grisham không tả rõ, tôi đọc và dịch The Chamber, tôi thấy và tôi cảm động vì mối tình của Cô Cháu Lee- Adam. Cô Lee muốn có anh con đàng hoàng như Luật sư Adam, Adam cô đơn ao ước có bà mẹ đẹp, hiền như cô Lee. Mời quí vị đọc đoạn truyện tả khi Adam còn nhỏ, ông bố Adam tự tử, cô Lee đến dự tang lễ và thăm chị dâu và hai cháu: Adam cháu trai, Carmen cháu gái. *** Sau hai mươi ba năm, Adam Hall trở lại nơi ra đời. Chàng không thấy xúc động mà cũng chẳng cảm thấy được hân hoan chào đón hay bị xua đuổi. Tuy không có gì để ngán sợ nhưng Adam vẫn lái xe với tốc độ hết sức khiêm tốn, để cho tất cả những xe chạy sau qua mặt. Con đường chàng đi dài như vô tận giữa những cánh đồng mênh mông của vùng đồng bằng sông Mississippi. Trên một quãng đường dài 5 cây số, xe chàng chạy cùng chiều với một con dê lướt mình trên đồng cỏ mượt, qua ấp Walls, thị trấn thứ nhất đáng gọi là thị trấn trên xa lộ 61. Qua nghiên cứu, chàng biết con đường này là một trong những trục lộ chính mà hàng trăm ngàn người da đen nghèo khổ đã đi từ miền Nam lên miền Bắc, đến những thành phố Memphis, St. Louis, Chicago, Detroit…, những nơi họ có thể tìm được việc làm và nơi cư ngụ. Chính ở những dãy nhà tồi tàn, lụp xụp, những tiệm rượu đầy màu sắc dọc theo xa lộ này mà nhạc Blues đã ra đời và phát triển lên miền Bắc. Tại đây nó hoà đồng với nhạc Thánh ca và nhạc Đồng quê để rồi cả ba kết hợp và sản sinh ra nhạc Rock and Roll. Vừa lái xe, Adam vừa nghe băng nhạc của ban nhạc Muddy Waters khi xe chàng chạy ngang quận Tunica, một quận lị có tiếng nghèo nhất nước. Âm nhạc không làm chàng dễ chịu hơn được bao nhiêu. Sáng nay ở nhà cô Lee, chàng không ăn sáng, nói rằng không đói nhưng thực ra gan ruột chàng như thắt lại, không thể ăn được. Càng đến gần nhà tù Parchman, gan ruột chàng càng thắt chặt hơn. Rồi cuối cùng Adam cũng đến nơi phải đến. Trông bên ngoài không có vẻ gì là nhà tù. Không thấy có những bức tường cao, những hàng rào thép gai, vọng gác, lính canh, không có những đám tù nhân hung ác hộc lên, hú lên khi có người lạ đi ngoài hàng rào. Chỉ có hàng chữ xi-măng đắp trên vòm cổng: “Khám đường bang Mississippi”. ... Mời các bạn đón đọc Mang Xuống Tuyền Đài của tác giả John Grisham.
Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không - Nhụy Nguyên
Cõi nhân gian âu là sự phóng chiếu của tâm thức nghiệp báo, song cũng là sự hiện tướng trong màn hình chân như. Khoa học hiện đại thật sự ngạc nhiên khi nhìn thấy lỗ hổng thời gian và đang dần hoài nghi về không gian, như chính thời-không từng xuất hiện và biến mất trong giấc mơ qua sự thể nghiệm ở mỗi chúng ta. Trần ai huyễn mộng - chân lý này phải bậc triệt ngộ mới thể nhập thông qua thiền-tuệ, ngoài ra không cách gì chứng biết dẫu khoa học có phát triển đến ngưỡng như những nền văn minhtrước trái đất từng hoại diệt chăng nữa. Con người sinh ra hữu ý hay vô tình đều đã nương vào ánh sáng mặt trời mà lớn lên như chính niềm ân sủng vô biên của Phật pháp. Đức Phật là bậc thấu triệt quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh và thuyết lại y nguyên không chút sáng tạo. Mà trước hết Kinh điển luôn dạy những căn cốt của triết lý nhân sinh. Ấy là nhân quả báo ứng tơ hào không sai, luân hồi lục đạo xoay vần theo nghiệp báo; ai nỗ lực hành pháp đúng theo lộ trình Giới - Định - Tuệ, dẫu họ ở địa vị thấp hèn nhất vẫn đồng cơ hội chạm đến chiếc chìa khóa mở Kho tàng Phước-Trí vốn sẵn nơi Tâm; xem như bảo vệ thành công Luận án kiếp người. Trong nỗ lực bước đầu chập chững hành theo Kinh điển, vẫn biết những gì chia sẻ ra trong cuốn sách nhỏ này, xét riêng về bản thân là tự chướng ngại và đang tiếp tục làm tổn thương người khác. Với lòng chân thành hết mực, cúi mong quý bạn đọc thứ tha cho những dấu vết tự ngã sâu nặng của tác giả ẩn hiện trong từng dòng chữ lẽ ra im lặng vẫn hơn. *** Nhà văn Nhụy Nguyên tên thật là Trần Nguyên Sỹ Quê quán: Phù Lưu - Lộc Hà - Hà Tĩnh Hiện công tác tại Tạp chí Sông Hương Tác giả từng viết đều ở các thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, tiểu luận. *** Thời mạt quá trọng nghi lễ, khiến cho việc hành chuyên môn giảm xuống. Không ai muốn phủ nhận việc thi hành một số lễ trước lúc người quá cố về chín suối. Người có đạo lực, họ có thể hướng dẫn linh hồn vững tin bước vào con đường sáng ở kiếp sau. Việc tụng kinh sẽ động viên hương linh thêm phần chính niệm. Đến là bậc chứng Thành nếu siêu độ thì người được nhận cũng chỉ sinh lên cõi trời Đao Lợi là cùng. Như tôi chưa hề soi thấu kiếp mình, việc tụng kinh sám hối giùm ai với tâm vọng động ngã chấp không chừng lại khiến linh hồn thêm phần hoang mang lầm lạc. Suốt đời tâm hiểm, lúc chết đâu dễ “nhờ ai” có thể giải nghiệp! Có chăng ở phút hấp hối, nếu họ nhận diện lỗi lầm, hướng nương theo Hương bát nhã, tịnh tâm niệm Phật và được nhiều người cùng hộ niệm may ra Phật lực hút khỏi Ta bà. Ở Tây Tạng hiện vẫn tồn tại tục điểu táng, có khi họ chặt khúc người chết cho chim ăn; ở sông Hằng có tục thủy táng (để người tu thấy được sự vô thường của xác thân). Ngay trong nước, cùng sự chết song ở một số nơi thuộc miền Bắc thường đưa đám trong vòng ba ngày kể cả ngày mất, còn ở phía Nam có nơi người chết để vài tuần, thối rữa… trên mặt đất! Phật giáo khai thị chí lý điều này: chỉ cần thật yên tĩnh trước, trong và sau lúc mất ít nhất 8 tiếng, sau đó mới đụng chạm đến người quá cố; tốt hơn thì trước lúc mất khuyên họ đừng tơ vương cõi trần quyến thuộc mà trụ tâm niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc. Làm trọn điều này còn lo chi đến ngày giờ tốt xấu. Sao khổ chủ đợi cho kỳ được ngày giờ tốt nhất mới táng người quá cố thân yêu, trong lúc người dương hoàn toàn có thể giúp bằng cách làm thật nhiều việc thiện hồi hướng cho người âm. Đó là điều có ích nhất mà họ sẽ nhận được từ chúng ta. Trong xã hội phong kiến Ấn Độ, nguyên thủy Phật không đề xướng đi cúng mà chỉ đến giảng pháp, thụ trai tại gia nếu được mời. Phát sinh việc này cũng chưa hẳn sai.  ... Mời các bạn đón đọc Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không của tác giả Nhụy Nguyên.
Trư Cuồng - Nguyễn Xuân Khánh
"Chỉ riêng những trang tả thực cảnh sống thảm thương của một gia đình nhà văn - nhà báo nháo nhác xoay quanh cái chuồng lợn, khi sức khỏe và sự tăng trọng từng ngày của lợn là mục tiêu sống của cả nhà, lũ lợn “nhai gau gáu” hết xương ông Tchekhov đến sọ ông Dos, “nỗi lợn” làm người chồng thành bất lực trên giường… đã đủ sức đánh gục người đọc bởi sự chân thực đầy cảm xúc những trải nghiệm sống của cây bút già dặn." - Trích lời Hoàng Hưng Tác phẩm đề cập trực diện đến những vấn đề bức xúc đương thời với những nhân vật điển hình rất người đương thời. Tôi coi đây là một bán tự truyện của tác giả vì nhân vật chính có rất nhiều điểm giống ông: làm báo, bị treo bút, bị giám sát, bị túng thiếu và nuôi lợn...  (Trần Thu Trang ) *** Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 tại làng Cổ Nhuế, Hà Nội. Ông đỗ tú tài Toán, học Đại học Y khoa Hà Nội cho đến hết năm 1952 thì ra vùng tự do tham gia bộ đội. Trong khoảng mười năm, ông ở một đơn vị pháo binh, rồi dạy văn hoá tại Trường Sĩ quan Lục quân trước khi chuyển về làm việc tại tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ 1966, ông là phóng viên báo Thiếu niên Tiền phong trước khi về hưu non vào năm 1973. Hiện ông sống ở Hà Nội.  Nguyễn Xuân Khánh (sinh năm 1933) là tác giả của nhiều tiểu thuyết như Mẫu thượng ngàn (NXB Phụ Nữ - đạt Giải Thưởng Tiểu Thuyết Hội Nhà Văn Hà Nội 2006), Đội gạo lên chùa, Lửa đắng, Hồ Quý Ly (ra năm 2000, nối bản và tái bản 15 lần), Chuyện ngõ nghèo,... trong đó ông đã có một bộ 3 tiểu thuyết lớn đi sâu kiến giải về văn hóa dân tộc gồm "Hồ Quý Ly" (năm 2000), "Mẫu Thượng Ngàn" (2005), "Đội gạo lên chùa" (2011). Đấy đều là "trường thiên", số lượng tới con số vạn chưa kể bị in lậu, viết tay hoàn toàn và do NXB Phụ nữ làm. Ở tuổi xấp xỉ bát thập, ông đã "lội" vào những lịch sử, văn hóa, phong tục, triết học... để "chế" thành tiểu thuyết, sức lao động như thế thật đáng kinh ngạc, cảm phục. Tiểu thuyết của ông không 'phản ánh lịch sử' mà bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lịch sử và văn hóa, trong đó văn hóa là cốt lõi, để làm bật lên cái hằng số duy nhất là con người. Mẫu Thượng Ngàn Đội Gạo Lên Chùa Hồ Quý Ly 'Chuyện ngõ nghèo Trư Cuồng Lửa Đắng Miền Hoang Tưởng ... *** Nhật ký này là của ông Nguyễn Hoàng; ông Nguyễn Hoàng làm nghề viết báo , kiêm nghề nuôi lợn . Có lẽ , khi làm nghề cầm bút , ông đã phạm một cái cái ”húy” gì đó nên bị thất sủng, phải về nghỉ hưu. tuy chưa đến tuổi. Ông là ngươì lớn tuổi, lại mắc bệnh nghề nghiệp nên thích ghi chép. Ông đã ghi lại khá tường tận, thú vị công việc chăn nuôi của mình. Xét thấy nhật ký này có điều hay hay, nên cố sưu góp lại để các bạn cùng đọc . Ngày… Tháng… Nhà tôi đã có ba chú lợn ỉn khoảng 10 cân mỗi con rồi, hôm nay tôi lại mua thêm một chú lợn rất đặc biệt : Chú Lợn Bò Chú lợn này chỉ nhỉnh hơn cái phích lít rưỡi một chút . Lông nó mầu hung vàng, có một chút óng ánh, giống như mầu cỏ tranh vàng ... Mời các bạn đón đọc Trư Cuồng của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.