Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đinh Trang Mộng

VÙNG ĐẤT Hà Nam nghèo khó ở Trung Quốc là nền tảng cho nhiều cuốn tiểu thuyết của Diêm Liên Khoa, trong đó có Đinh Trang Mộng. Quan chức địa phương thì tham nhũng, các doanh nhân thì vô đạo đức, còn nông dân chân lấm tay phèn sẵn sàng bất chấp mọi thứ để đạt tới khát vọng làm giàu nhanh chóng. Đạo đức xuống cấp, lòng tự trọng trở nên hao mòn, nhân cách băng hoại, tình người được cân đo đong đếm tỉ mẩn... Rồi một ngày người ta cay đắng nhận ra, khi con người đã không còn phẩm giá, vùng đất chỉ còn lại sự tuyệt vọng và chỉ có sự tuyệt vọng ngự trị mà thôi… Giới thiệu tác giả: Diêm Liên Khoa, sinh năm 1958, người làng Dao Câu, trấn Điền Hồ, huyện Tung, thành Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ông được mệnh danh là đại sư của chủ nghĩa hiện thực hoang đường, một nhà văn đầy lương tâm, trách nhiệm khi dùng văn học để đối diện với những mặt trái của xã hội, mặt tối của lòng người. Tác phẩm của Diêm Liên Khoa thường gây tranh luận, mỗi lần ông viết một tác phẩm mới là một lần dấy lên dư luận, chấn động văn đàn. Diêm Liên Khoa thường viết về bóng tối, cái chết và sự băng hoại của nhân phẩm nhưng lại hướng con người đến ánh sáng, sự sống và nhân tính. Sách của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, được các nhà phê bình và độc giả trên thế giới đánh giá rất cao. Diêm Liên Khoa luôn ý thức mỗi tác phẩm mới của mình phải là một sự cách tân trong phương thức sáng tạo văn bản. Cũng như nhiều tác phẩm nặng kí khác của ông, Đinh Trang mộng đem đến cho bạn đọc nhiều thể nghiệm mới về nghệ thuật tự sự. Mộng vừa là nội dung, vừa là phương thức kiến tạo nên kết cấu đặc thù của tác phẩm. Hai dòng mạch thực và mộng đan xen tạo nên một thế giới trùng phức đa tầng. Ngòi bút của tác giả không chỉ bóc tách bề mặt ý thức tâm lý phức tạp của con người mà còn khoan sâu vào tầng sâu tâm thức... *** Đinh Trang mộng là tác phẩm mà nhà văn Diêm Liên Khoa (Trung Quốc) phải xin lỗi người đọc vì đã trao cho họ một câu chuyện quá đỗi buồn thảm, một nỗi đau đớn thắt lòng. Người kể chuyện của Đinh Trang mộng là linh hồn cậu bé Tiểu Cường mười hai tuổi. Đinh Thủy Dương, ông nội Tiểu Cường, đã thành công trong việc vận động dân Đinh Trang bán máu để thoát nghèo. Khốn thay, ông vừa khiến họ đổi đời vừa khiến họ mất mạng. Ông vừa làm tái sinh Đinh Trang, vừa hủy diệt Đinh Trang. Kiếm tiền quá dễ, người dân Đinh Trang lao vào bán máu như điên. Trạm thu mua máu lưu động mọc lên khắp nơi. Người ta có thể vừa ăn cơm vừa giơ cánh tay lên để lấy máu; đang làm đồng có thể nhảy lên bờ bán máu. Kim tiêm và bông băng dùng chung, rất nhanh và rất tiện. Máu trong cơ thể như nước trong giếng, càng múc càng đầy. Nhà cửa khang trang, tiện nghi đủ đầy, cuộc sống như mơ. Người phất lên nhanh nhất trong cơ cuộc này chính là Đinh Huy - con cả của Đinh Thủy Dương. Đinh Huy trở thành nậu máu, vua máu của một vùng. Hậu quả của bán máu là đại dịch AIDS lan tràn, trở thành thảm họa. Và câu chuyện không dừng lại ở đó... Đinh Trang mộng đậm chất thời sự khi viết về đại dịch AIDS. Tuy nhiên, xét đến cùng, đây là câu chuyện ngụ ngôn về sự tàn lụi của con người. Diêm Liên Khoa đã đặt các nhân vật vào cửa tử để họ bộc lộ đến tận cùng bản chất của mình. Lòng tham, tiền bạc và danh vọng đã làm biến dạng con người, hay điều đó mới chính là nhân dạng của họ?... Đan xen giữa tỉnh và mộng, thực và ảo, phồn vinh và đổ nát, chết chóc và hoan lạc... Đinh Trang mộng là nỗi tuyệt vọng và khúc bi ca lớn lao về nông thôn Trung Quốc và dân tính Trung Hoa. Đối với người Trung Quốc xưa nay, đạo đức và đạo đức nông thôn là những nguyên tắc cơ bản để duy trì nền tảng xã hội. Nông dân đồng nghĩa với nhân hậu, chất phác và hiền lành; nông thôn là quê hương tinh thần, là chốn nương náu tâm hồn của mỗi một con người, đặc biệt là con người thời hiện đại. Vậy mà trong Đinh Trang mộng, nông thôn là chốn tham lam, lọc lừa, tàn độc đến kinh hoàng. Sự sụp đổ đạo đức nông thôn không phải do áp lực chính trị hay điều kiện sinh tồn, mà do chính trong bản chất người. Muôn mặt của "người Trung Quốc xấu xí" lại một lần nữa được Diêm Liên Khoa dũng cảm phơi bày. Nguyên nhân của sự hủy diệt bạo tàn trong Đinh Trang mộng không phải do bệnh AIDS, mà chính do vực thẳm nhân tính. Cũng giống như Lỗ Tấn của thế kỷ 20 từng cô độc như dũng sĩ múa kích một mình trên sa mạc khi đặt những nhược điểm của quốc dân tính Trung Hoa lên đầu bút, viết xong Đinh Trang mộng, Diêm Liên Khoa có cảm giác cô đơn và bất lực "như bị bỏ rơi giữa đại dương mênh mông không một bóng người". Ông khóc và "không nói được rõ ràng vì sao lại đau khổ, vì ai mà rơi lệ". Tuy nhiên, đọc xong tác phẩm, ta sẽ lý giải được vì sao. Không phải là bệnh AIDS trên thân thể, mà là bệnh AIDS trong tinh thần và tính cách dân tộc Trung Hoa đã khiến ông khổ đau mà rơi lệ. Thành công của nhà văn có được khi viết về nỗi ô nhục của dân tộc mình thì xót xa biết nhường nào! *** Có một giòng thông suốt và dữ dội chảy qua truyền thống thuyết thoại Trung Hoa: những tự sự về mộng. Khởi thủy là giấc mơ hóa bướm của Trang Chu thời Xuân Thu. Tiếp nối sau đó mấy trăm năm là những truyền kỳ đời Đường, từ Chẩm trung ký của Thẩm Ký Tế kể chuyện chàng Lư sinh nằm trên chiếc gối của một đạo sĩ mà mơ giấc hoàng lương, cho đến Nam Kha thái thú truyện của Lý Công Tá nói về chàng Thuần Vu Phần mộng giấc Nam Kha, thức dậy mới biết mình đang nằm dưới gốc hòe, say rượu ngủ quên không biết. Đến khi các loại hình sân khấu Trung Quốc như tạp kịch, hí khúc,… ra đời, mộng bắt đầu đi vào Hồ điệp mộng của Quan Hán Khanh (đời Nguyên) hay Mẫu đơn đình của Thang Hiển Tổ (đời Minh) để rồi vươn đến đỉnh cao chói lọi ở tiểu thuyết chương hồi đời Thanh, mà đại diện tiêu biểu nhất phải kể đến là Tào Tuyết Cần với kiệt tác Hồng lâu mộng.  Đinh Trang mộng – quyển tiểu thuyết đầy tâm huyết xuất bản năm 2005 của Diêm Liên Khoa – rõ ràng là một sự tiếp nối cái truyền thống đặc trưng đã có lịch sử hàng ngàn năm ấy của văn chương Trung Quốc. Sự tiếp nối hiển lộ ngay từ đầu, trong tựa đề tác phẩm, nhưng sức ám ảnh của nó còn lan rộng sang chính cấu trúc của quyển tiểu thuyết này: thực tại được kể trong Đinh Trang mộng trở nên mờ nhòa, chìm đắm, đan xen, lún ngập trong những giấc mơ và những ảnh tượng đi ra từ sự mơ. Diêm Liên Khoa giao vai kể cho hồn ma của Tiểu Cường, một cậu bé 12 tuổi đã chết, bị đầu độc bằng một quả cà chua tẩm thuốc vì những ân oán mà cha cậu gây nên với người dân ở Đinh Trang. Cách chọn vai kể là một hồn ma như thế đặt toàn bộ tự sự của tiểu thuyết này ở một điểm nhìn toàn tri – một điểm nhìn khá hợp lý, tuy cổ điển, để vừa dễ dàng kể lại những giấc mơ đầy máu và nước mắt của ông giáo già Đinh Thủy Dương (nhân vật chính của tiểu thuyết), vừa thuận lợi cho việc thâm nhập vào những cõi sâu kín nhất trong mộng mị, tâm hồn, cảm xúc, suy nghĩ của hàng loạt những nhân vật, những số phận được nhắc đến trong xuyên suốt tác phẩm này. Nhưng cũng chính từ đây, thế giới ngập tràn sự mơ ấy của Đinh Trang mộng không còn cái đẹp đẽ huy hoàng của mộng như người ta thường nghĩ, mà đã trở thành lớp áo khoác hàm ngụ bên trong một thứ hiện thực sâu thẳm, thứ hiện thực đen tối, cay đắng đến run rẩy của lòng người, của bản tính người và những mối quan hệ người. Trong Đinh Trang mộng, từ những quan sát về tình cảnh cùng khốn của người dân Trung Quốc khi đối diện với nạn bán máu tràn lan và sự bùng phát của đại dịch AIDS những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI[1], Diêm Liên Khoa đưa ra một hư cấu đầy ám ảnh về thôn Đinh Trang – nơi một thời từng giàu có, thịnh đạt nhờ vào việc bán máu, nhưng rồi vì lấy máu không đúng quy trình, thiếu vệ sinh, hàng loạt những người trong thôn bắt đầu nhiễm “bệnh nhiệt”, một cách gọi nôm na của AIDS. Nhân vật chính của tiểu thuyết là ông giáo già Đinh Thủy Dương, suốt đời gắn bó với ngôi trường nhỏ của thôn Đinh Trang, hiền từ, nhân hậu, được mọi người trong thôn yêu kính. Ông có hai người con trai. Con cả tên Đinh Huy, con thứ là Đinh Lượng. Trong những ngày Đinh Trang ồn ào, sôi nổi, say sưa bán máu, Đinh Huy khôn ngoan, lọc lõi, thậm chí xảo quyệt, đã quyết tâm trở thành một đầu nậu máu, kiếm lãi từ chính những giọt máu của người Đinh Trang. Người em trai của anh, Đinh Lượng, cũng tham gia bán máu, để rồi giống như nhiều người khác cùng thôn, anh nhiễm bệnh nhiệt rồi chết. Nhưng Đinh Huy tham lam kia không nhìn thấy thảm cảnh như thế mà dừng lại. Anh tận dụng tình cảnh chết chóc ấy để bán quan tài, phối âm hôn cho người chết,… vì sự tham lam dữ dội trước tiền tài địa vị. Thậm chí, để thăng tiến cao hơn, Đinh Huy chấp nhận phối hôn đứa con trai Tiểu Cường của mình với âm hồn cô bé thiên kim nhà Huyện trưởng, dù cô lớn hơn Tiểu Cường sáu tuổi, bị động kinh và dị tật ở chân. Nhưng sự tha hóa của bản tính người không chỉ xuất hiện ở Đinh Huy, mà như một đại dịch, nó tràn qua Đinh Trang tựa một cơn hồng thủy. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy cái tham lam, tư lợi của bà vợ cựu trưởng thôn Lý Tam Nhân khi đốc thúc, khích khí chồng mình bán máu để có tiền sửa sang nhà cửa cho bằng những gia đình khác trong thôn. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy và sợ hãi trước cái bóng đen tàn úa tỏa ra từ lòng ti tiện nhỏ nhen của người đời qua trường đoạn mô tả cảnh những người bệnh nhiệt ở Đinh Trang quần tụ lại ở trường học sống tập thể, rồi mất đồ, rồi đổ lỗi, rồi tra khảo, rồi sỉ nhục. Đọc Đinh Trang mộng, người ta thấy cái thảm cảnh mà lòng sân hận thù hằn đổ lên kiếp người, mà một trong những cảnh tượng đau thương nhất chính là đoạn hai cái huyệt mộ chạm khắc kỳ công của Đinh Lượng và Linh Linh bị phá nát tan, chưa kể cả hai chiếc quan tài cũng bay biến đi đâu mất… Tất cả những gì người nhất trong Đinh Trang mộng, rất nhanh chóng, bị sự tham tàn và vô minh cuốn đi, giết đi, vùi đi. Tất cả. Từ nỗi sợ đau vì bị kim tiêm, từ nỗi nhục nhằn suy tư về thân phận cho đến mối hòa kết gia đình, sự từ ái, lòng nhân hay những phẩm hạnh bản thể nhất của con người. Nhưng cao hơn hết, Đinh Trang mộng bày ra trước mắt ta một tình thế bi ai của sự làm người. Chính ở đây, với sự phát lộ của nét nghĩa này, cái cấu trúc mộng mị đặc thù của quyển tiểu thuyết này trở lại một cách dữ dội. Và nó nói với ta một sự thật lầm than, rằng đời người có ai mà không phải trải qua một giấc mộng Đinh Trang, như luôn phải trải qua những giấc mộng hoàng lương, giấc mộng Nam Kha, giấc mộng lầu hồng,.... Người ta bán máu xây nhà cửa, tiền tài đầy túi, khoa trương hò hét, làm ông nọ bà kia. Nhưng rồi cũng giống như Thuần Vu Phần thức dậy dưới gốc hòe, người ta sẽ nhận ra bao nhiêu mất mát, chết chóc, sợ hãi, bóng tối. Nhà cửa xây lên từ tiền bán máu nhưng rồi bị bỏ hoang, hôi hám, ẩm thấp, ảm đạm vì người lần lượt chết dần. Có người bán máu nuôi vợ con với những khao khát viển vông để rồi nhiễm bệnh, qua đời, gia đình ly tán. Hay như Đinh Huy, người tưởng chừng như có trong tay tất cả, từ tiền tài, nhà cửa, đất đai cho đến uy danh, chức tước, nhưng rồi trong một phút ngắn ngủi bất thần ngã gục sau cú đánh trời giáng của chính cha mình.   Mộng mị trong truyền thống thuyết thoại Trung Hoa là như thế. Chúng thường bao quát những thực tại khổng lồ, đẹp, huy hoàng, rực rỡ. Nhưng đau đớn và độc ác. Cái ác dường như đã trở thành căn cốt của những tự sự về mộng của người Trung Quốc. Nó quăng quật người ta đến những chỗ tận cùng. Nó nâng người ta lên, cho người ta bay bổng rồi kéo tuột người ta xuống, thậm chí vùi người ta xuống đất cát bùn lầy. Nó bày ra trước mắt người ta những yến tiệc tưng bừng, những hội hè say đắm. Nhưng rồi nó đuổi cổ người ta đi, nó lưu đày người ta đến những chốn tuyệt vọng và đau thương cùng cực. Tiếp nối và thừa hưởng từ truyền thống xem cái tàn ác như một phạm trù thẩm mỹ như thế, nhưng Diêm Liên Khoa không phải không có những sáng tạo nhất định của riêng ông. Viết Đinh Trang mộng, rõ ràng Diêm Liên Khoa đã nỗ lực tạo dựng một thế giới mà ở đó sự triển hoạt theo chiều âm, chiều diệt vong của những tự sự về mộng mị Trung Hoa xưa bị thay thế bởi một gia tốc khác: một lực đẩy về phía cái sống. Nếu trong Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần xây dựng một bức tranh mơ màng phù thế đầy chất sống, để rồi đánh thức tất cả, quăng quật tất cả vào cõi gió bụi ở cuối truyện, thì trong tiểu thuyết của mình, Diêm Liên Khoa làm ngược lại. Ông ngả hẳn về phía của sự tỉnh mộng, của máu và nước mắt, ngay từ đầu. Nhưng cũng chính từ sự ngả theo một chiều hướng khác như thế, Diêm Liên Khoa đã quan sát được những dòng nhựa sống cuộn lên, tươi mới, tân kỳ. Ông thấy trong hai con người mang bệnh nhiệt trầm trọng Đinh Lượng và Linh Linh cái khát khao được yêu, được sống, được làm tình. Ống thấy trong Đinh Thủy Dương cái áy náy, giằng xé, đớn đau của một con người bị phân thành nhiều mảnh, một bên là lòng thương con, một bên là lòng nhân, lòng bác ái, một bên khác lại là chính nghĩa, sự phụng sự đạo đức và chân lý,… Điều này cũng lý giải vì sao Diêm Liên Khoa lại dẫn ra, ngay từ trang đầu tiên, huyền thoại về bảy con bò xấu xí nuốt bảy con bò xinh đẹp mập mạp và bảy bông mạch ốm yếu nuốt lấy bảy bông mạch tròn căng trong Sáng thế ký, Kinh Cựu Ước; hay vì sao ở những dòng cuối cùng, ở cơn chiêm bao cuối tác phẩm của ông lão Đinh Thủy Dương, hình ảnh một người đàn bà với nhành dương liễu và những người bùn xuất hiện. Tôi cho Diêm Liên Khoa, khi viết về những điều như thế, đã ý thức và hiểu rất rõ rằng, sự khai sinh của loài người đi ra từ chính trong những tuyệt vọng đau đớn nhất của người. Cơn sốt đầy máu và bệnh nhiệt ở Đinh Trang trong tiểu thuyết của ông, vì thế, cũng giống như một cơn hồng thủy quét qua. Nhưng không phải để tuyệt diệt. Mà là để tái sinh. Tái sinh con người. Và tái sinh những điều giúp con người trở lại làm người.   Nguyễn Đình Minh Khuê Mời các bạn mượn đọc sách Đinh Trang Mộng của tác giả Diêm Liên Khoa & Minh Thương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hình Hài Yêu Dấu - Alice Sebold
"Hình Hài Yêu Dấu" là cuốn tiểu thuyết nối tiếp đề tài phản ánh và mổ xẻ các vấn đề bạo lực trong xã hội hiện đại của Alice Sebold. Câu chuyện kể về một bé gái mười bốn tuổi, sau khi bị cưỡng hiếp và giết hại thảm khốc bởi một kẻ giết người hàng loạt, linh hồn cô trên thiên đường vẫn tiếp tục dõi theo mọi biến chuyển trong cuộc sống của những người thân yêu, cách họ vượt qua nỗi đau mất mát, từng bước trưởng thành của họ trên con đường đến hạnh phúc... Cuốn tiểu thuyết nhanh chóng nhận được sự đồng cảm của nhiều tầng lớp độc giả và trở thành một hiện tượng trong thế giới xuất bản. Khi Susie cất tiếng kể chuyện, cô đã ở trên thiên đường. Từ chốn lạ lùng mới mẻ cao vời đó, cô kể cho ta nghe, bằng giọng nói tươi trẻ và sinh động của một cô bé mười bốn tuổi, một câu chuyện ám ảnh và tràn đầy hy vọng... Phải, từ trên cao, Susie nhìn thấy cuộc sống vẫn tiếp tục mà không có cô - bạn bè ở trường truyền tai nhau về sự biến mất của cô, gia đình vẫn hy vọng tìm thấy cô, kẻ giết cô đang cố gắng xoá mọi dấu vết, quan hệ của bố mẹ cô trở nên khó khăn, em gái lớn của cô cố gắng trở nên mạnh mẽ, và em trai nhỏ của cô tìm cách níu giữ lại ý nghĩa của thế giới đã mất... Hình Hài Yêu Dấu là cuốn tiểu thuyết toả sáng, khiến người đọc kinh ngạc, và nỗi đau đớn dựng xây nên câu chuyện đem lại niềm hy vọng lớn lao hơn tất thảy. Trong bàn tay của một người chỉ vừa mới cầm bút nhưng rất mực tài hoa, câu chuyện về bi kịch khủng khiếp nhất mà một gia đình có thể phải đối mặt đã được chuyển hoá thành một cuốn tiểu thuyết hồi hộp, thậm chí ngộ nghĩnh, về tình yêu, ký ức, niềm vui, thiên đường và vết thương lành lại. *** "Trong quả cầu tuyết đặt trên bàn làm việc của bố tôi có một con chim cánh cụt, cổ quàng khăn sọc trắng đỏ. Ngày tôi còn bé bố hay bế tôi ngồi trong lòng ôm rồi với tay lấy quả cầu. Ông lật ngược quả cầu để các bông tuyết tụ ở đỉnh cầu, xong thoắt cái lật lại như cũ. Hai bố con cùng ngắm nhì bông tuyết lãng đãng rơi quanh chú chim. Tôi nghĩ con chim ở trong đó thật lẻ loi, nên lấy làm lo cho nó. Nghe tôi thổ lộ, bố mới bảo: Susie ơi, con đừng lo. Đời nó sung sướng lắm. Nó bị giam hãm, nhưng trong một thế giới hoàn mỹ đấy, con ạ...". *** Alice Sobold sinh ngày mồng 6, tháng Chín, năm 1963, tại thành phố Madison, tiểu bang Wisconsin, là tác gia Mỹ nổi tiếng nhờ hai tác phẩm Lucky (May Mắn) và The Lovely Bones (Hình hài yêu dấu). Thời còn đang theo học tại đại học California, thành phố Irvine, bà viết May mắn, cuốn tự truyện kể sự việc bà từng bị cưỡng hiếp và may mắn thoát chết ở tuổi vị thành niên. Sau khi May mắn được xuất bản vào năm 1999, Sebold tiếp tục sự nghiệp viết văn. Bà cho ra đời cuốn tiểu thuyết Hình hài yêu dấu vào năm 2002, và đón nhận thành công vang dội. Với tác phẩm này, năm 2004 Alice Sebold đã giành giải sách đọc hay nhất trong năm. Richard and Juky Best Read Away, do British Book Awards trao tặng, năm 2003 nhận giải thưởng Sách trong năm của thể loại Văn học người lớn, do hiệp hội các nhà sách Mỹ trao tặng, và năm 2002 là giải Bram Stoker cho Tiểu thuyết đầu tay.    Mời các bạn đón đọc Hình Hài Yêu Dấu của tác giả Alice Sebold.
Độc Chiếm Hoa Khôi - Tam Ngôn Nhị Phách
"Tam ngôn", "Nhị phách" có nét mộc mạc của loại văn học thông tục song đọc rất hấp dẫn. Các tác phẩm ưu tú đều có cốt truyện hoàn chỉnh, tình tiết khúc chiết, chi tiết phong phú, khắc họa cá tính nhân vật rất rõ. Về thủ pháp nghệ thuật, hai bộ sách này rõ ràng là tinh tế hơn loại thoại bản nhiều, có thể thấy sự gọt giũa kỹ lưỡng khi miêu tả hoàn cảnh, động tác, đối thoại, chi tiết, đặc biệt là có chú ý miêu tả tâm lý. Nhiều chỗ miêu tả hoạt động tâm lý rất sinh động. Như chàng Tần Trọng trong "Độc chiếm hoa khôi", gặp người đẹp thấy mê mẩn tâm thần, thấy nàng thân ái, bụng cũng tự tin, song nghĩ thân phận mình lại thấy tự ti rất muốn cầu thân lại lo cầu chẳng được, cứ băn khoăn khắc khoải mãi, bao rối rắm phức tạp trong tận đáy lòng được khắc họa tường tận vừa hợp lý vừa hợp tình... Nghệ thuật miêu tả tâm lý là một bước tiến triển rất quan trọng, vì trước kia, các loại truyền kỳ, chí quái, các loại sử truyện, thoại bản thường chỉ chú trọng miêu tả ngôn hình bên ngoài, ít tả hoạt động tâm lý của các nhân vật. "Tam ngôn", "Nhị phách" đã mở ra một hướng khai thác mới cho nghệ thuật tiểu thuyết phát triển sau này. *** TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC Tinh hoa văn học của nhân loại nào cũng cần được khám phá và tái khám phá. Mỗi tác phẩm lớn là một xứ sở kỳ diệu và mỗi lần ta tìm đến là thực hiện một cuộc phiêu lưu hoan lạc. Dịch thuật, giới thiệu và biên khảo về những tác phẩm tinh hoa sẽ mở ra các lối cổng dẫn vào những cảnh tượng văn chương khác nhau, qua những không gian và thời gian vừa hiện thực vừa kỳ ảo. Khát vọng hiểu biết và vui thú trong đời là bản tính của con người ở mọi nơi và mọi thời. Các tác phẩm văn chương thật sự vĩ đại đều mang lại hai điều đó: vui thú và hiểu biết. Nhưng hiểu biết là niềm vui hiếm khi tự đến một cách dễ dãi. Cần đón đợi và hồi đáp. Mọi tác phẩm tinh hoa cần được đón đợi và hồi đáp trong niềm hân hoan có tên là “ĐỌC”. ĐỌC. Cầm sách lên và đọc. Trong sách có bạn hiền, có người đẹp, có mọi thứ. Do vậy, chúng tôi chủ trương TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC, xem đó như cửa ngõ của hiểu biết và niềm vui. CÓ NĂM CỬA: • Kiệt Tác: Mỗi Kiệt tác sẽ được dịch trọn vẹn và giới thiệu cả tác giả lẫn tác phẩm trong phối cảnh văn hóa những đặc điểm thiết yếu. • Tuyển: Tuyển chọn những tác phẩm ngắn của một tác giả, một nền văn học hay một chủ đề mang tính điển mẫu (thuộc vòng đời hay vòng mùa) • Kiến Thức: Những kiến thức mà người đọc hiện đại cần có: trào lưu văn học, các nền văn học, thể loại... được trình bày gọn nhẹ, dễ tiếp nhận. • Nghiên Cứu: Các công trình chuyên sâu về một vấn đề văn học, một tác giả thiên tài, lý luận phê bình... • Mới: Về các hiện tượng văn học mới xuất hiện của nước ngoài đang gây chú ý hoặc đoạt các giải thưởng lớn... Mong ước chúng tôi là TỦ SÁCH TINH HOA VĂN HỌC sẽ tiến bước bền vững và được đón nhận thân tình. Tủ sách được biên soạn và dịch thuật từ những nhà giáo, dịch giả và nhà nghiên cứu có uy tín và tâm huyết với văn chương. Mời các bạn đón đọc Độc Chiếm Hoa Khôi của tác giả Tam Ngôn Nhị Phách.
Ngự Lâm Pháo Thủ Toàn Tập - Alexandre Dumas
Ba chàng lính ngự lâm (tiếng Pháp: Les trois mousquetaires) là một tiểu thuyết của nhà văn người Pháp Alexandre Dumas cha, là cuốn đầu tiên của bộ ba tập truyện gồm: Ba Chàng Lính Ngự Lâm Hai Mươi Năm Sau Cái Chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm eBook Ngự Lâm Pháo Thủ Toàn Tập này gồm trọn bộ ba cuốn trên. Bộ tiểu thuyết kể về những cuộc phiêu lưu của chàng lính ngự lâm d'Artagnan, từ lúc anh còn trẻ cho đến lúc già. "Ba người lính ngự lâm" là cuốn nổi tiếng nhất và cũng là hay nhất trong bộ ba, đã được dựng thành phim nhiều lần, cũng như phim truyền hình, phim hoạt hình Pháp, và hoạt hình Nhật Bản. *** Lời người làm ebook:   Hiện tại ebook và đọc online của bộ ba tác phẩm này trên tất cả các trang web đều sai nhiều (đều cop bản đánh máy bên Vnthuquan). Bản ebook này đã được sửa lại các sai sót dựa theo sách in, và điều khác sách in là các từ phiên âm đã được trả về theo nguyên tác. P/s: Trước đây tôi đã sửa cho 2 cuốn đầu, nhưng khi làm cuốn 3 tôi đã sửa thêm lỗi. Nếu ai đọc phát hiện sai sót, hãy thông báo, tôi sẽ sửa tiếp. - A Còng Văn Càng. • Đã sửa: - Thay thế toàn bộ từ phiên âm - Bổ sung các đoạn thiếu và gõ sai câu văn - Sửa lỗi chính tả - Sắp xếp lại các lời thoại lộn xộn - Chỉnh danh từ, địa danh, tước vị sai • Nguồn text: Vnthuquan • Ebook: @inno14  • Bìa: @inno14 & @Ngọc Sơn • Thay từ phiên âm: @V/C & @chichi.myluckycharm • Soát sửa & Biên tập: @V/C *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Dumas nức tiếng là người thay nhân tình như thay áo. Quả thật, ông cưới vợ chỉ một lần, gia đình này tan vỡ rất nhanh. Ông dan díu với 25 người đàn bà, có nhiều con hoang, mỗi con của một mẹ. Chỉ 3 con được công khai, trong đó con trai, cũng tên Alexandre Dumas, thường được gọi Alexandre Dumas con, trở nên một nhà văn lừng danh. Con gái thứ hai thì cuộc đời lỡ làng, con gái út - mà mẹ cô trẻ hơn Dumas đến gần 40 tuổi - thì chết cô đơn năm 1936 ở một làng quê trong nghèo khổ và không được ai biết đến là con gái cưng của một trong những vĩ nhân của nước Pháp. Mãi gần đây, người ta mới vỡ lẽ rằng Dumas đến với nhiều phụ nữ là do thương họ. Ông đồng thời chu cấp tiền nong đầy đủ cho vài người. Alexandre Dumas Dumas là người hết sức quý trọng tình bạn. Trừ Balzac và Musset, các nhà văn cùng thời đều chơi với ông, thân nhất là Victor Hugo, người đã đánh giá chính xác vai trò của ông ngay khi ông qua đời. Hugo viết: “Trong thế kỷ này, không ai được dân chúng yêu mến sâu rộng và thắm thiết bằng Alexandre Dumas. Các thành công của ông đều tầm cỡ hơn thành công nói chung nhiều. Đó là những đại thắng lợi. Đó là những ngọn đèn pha”. Ông cũng là người đại lượng, năm 1831, do ghen tức với thành công của vở Antony của ông, Hugo cho người viết báo chê bai. Hai người giận nhau. Song năm 1834, ông chủ động giảng hòa. Để hoàn toàn chủ động trong hoạt động sân khấu, ông bỏ ra một món tiền lớn để xây dựng Nhà Hát Kịch Lịch Sử của riêng ông. Khán giả rất nồng nhiệt, song không bù đắp nổi chi phí bỏ ra, nên cuối cùng nhà hát đóng cửa. Từ năm 1848, ông đã ra tờ báo đầu tiên. Sau đó, ông còn ra nhiều tờ báo nữa. Nhưng do quản lý kém, bị kiểm duyệt gây khó dễ, các tờ báo ấy tồn tại không bền, và ngốn của ông rất nhiều công sức và tiền bạc. Ông cũng hai lần ứng cử vào Nghị Viện đều thất bại, ứng cử vào Hội Quốc Ước thì chỉ được 261 phiếu, trong khi các đối thủ được 220.000, rồi phải sang Bỉ lưu vong năm 1851, sau cuộc đảo chính của Napoléon III. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) Mời các bạn đón đọc Ngự Lâm Pháo Thủ Toàn Tập của tác giả Alexandre Dumas.
Dạ Khúc: Năm Câu Chuyện Về Âm Nhạc Và Đêm Buông - Kazuo Ishiguro
Dạ khúc là một chuỗi năm truyện ngắn không liên quan về tình tiết, nhưng hợp lại thành tổng thể quanh một chủ đề chung: “âm nhạc và đêm buông”. Xuất hiện trong Dạ khúc là một dàn nhân vật toàn cầu với những câu chuyện đặt trong những bối cảnh khác nhau. Một nhạc công ghi ta quê Đông Âu chật vật tìm chỗ đứng ở quảng trường Venice. Một nhóm bạn bè đại học gặp lại nhau ở London khi tuổi trẻ đã gần cạn, nhớ lại thời sinh viên xa xôi giữa tình yêu âm nhạc và những say mê lý tưởng. Một nhạc sĩ trẻ trốn nền công nghiệp âm nhạc London về khu đồi Malvern của tuổi thơ mình, tình cờ gặp gỡ cặp vợ chồng nhạc công Thụy Sĩ. Một tay kèn saxo Mỹ tài cao nhưng phận thấp, đụng độ giới giao tế trong khách sạn ở Beverly Hills. Một nghệ sĩ cello Hungary ôm mộng thiên tài giữa lúc dùng tiếng đàn kiếm miếng ăn. Những con người thuộc những giai tầng xã hội rất khác, được kết nối với nhau, và với người đọc, bằng âm nhạc - thứ ngôn ngữ quốc tế chung cho mọi tâm hồn. Nhưng đó không phải thứ âm nhạc công cộng hoành tráng hay âm nhạc thính phòng sang trọng, mà là âm nhạc vào thời khắc lặng lẽ, chiêm nghiệm riêng tư. Trong mỗi câu chuyện có sự đụng chạm rất khẽ giữa hai thế giới: thế giới cá nhân nhỏ bé nhưng chân thực, nơi các ước vọng hoài bão còn ấp ủ, và thế giới của thành công, hào nhoáng, nơi các ước vọng đã thành hiện thực, nhưng cũng có quá nhiều điều có thể mất đi. Nỗi lưu luyến của mỗi nhân vật với thế giới thứ nhất, và khao khát nhưng e dè trước thế giới thứ hai, khiến ta nhớ lại bài hát của cô bé trong Mãi đừng xa tôi, và khiến mỗi câu chuyện đều nhuốm một vẻ buồn rầu dịu ngọt. Ishiguro từng theo đuổi âm nhạc thời trẻ, chơi nhạc đường phố trong ga điện ngầm ở Paris và gửi băng thu thử cho các hãng đĩa, khi đã thành nhà văn nổi tiếng, ông còn tham gia sáng tác cho một album nhạc jazz. Trong các tiểu thuyết của ông, âm nhạc vẫn thường xuất hiện làm bối cảnh phụ, hoặc một chi tiết quan trọng trong cốt truyện. Nay với Dạ khúc, Ishiguro được dịp khám phá trọn vẹn nỗi đam mê ngày trước, và ý nghĩa của nó trong đời sống của những con người hàng ngày mà mỗi độc giả đều có thể thấy mình trong đó. Về tác giả Kazuo Ishiguro Kazuo Ishiguro là một trong những nhà văn hàng đầu trong nền văn chương Anh đương đại. Sinh 8/11/1954 tại Nagasaki, gia đình ông chuyển tới Anh sống năm 1960, nơi ông lấy bằng cử nhân rồi thạc sĩ về sáng tác văn học. Năm 1982, Ishiguro chính thức nhập tịch Anh, cho ra đời tiểu thuyết đầu tay A Pale View of Hills, trở thành một cây bút trẻ sáng giá “ngang với Martin Amis, Salman Rushdie và Ian McEwan” (The Guardian). Hai cuốn sách đầu tiên của ông đều lấy bối cảnh ở Nhật, cuốn thứ hai, An Artist of the Floating World (1986), bắt đầu chuỗi giải thưởng dồn dập đổ xuống ông. Bốn trên sáu tiểu thuyết của Ishiguro đã được đề cử Booker, gần nhất là Never Let Me Go (2005, Nhã Nam ấn hành 2008 dưới tên Mãi đừng xa tôi) chỉ đứng sau cuốn Biển của John Banville. Cuốn sách được giải thực sự là The Remains of the Day (1989), được dựng thành phim năm 1993 có Anthony Hopkins và Emma Thompson đóng với 8 đề cử Oscar. Kazuo Ishiguro có viết truyện ngắn rải rác trên các báo, nhưng Dạ khúc là tập truyện ngắn đầu tiên của ông. Đây cũng là cuốn sách mới nhất ông xuất bản năm 2009.