Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Con Của Thời Tiết

Tình thơ, gặp gỡ và chia ly là những vòng sóng đồng tâm trong thế giới Shinkai Makoto. Từng có cô Yuki chia tay Takao ở Khu vườn ngôn từ để đến dạy văn cho Mitsuha ở Your Name. Nay lại có Mitsuha và Taki chia tay Your Name. để sang ĐỨA CON CỦA THỜI TIẾT, gặp gỡ các tâm sóng mới là Hina và Hodaka.   Đứa con của thời tiết phác ra thương yêu cô đọng giữa hoang mang của đô thị lớn và ngặt nghèo hơn, là giữa hoang mang của một thời đại biến đổi khí hậu bấp bênh.   Vì một sự cố tình cờ, Hina được tạo hóa ban cho năng lực đặc biệt: làm nắng. Năng lực ấy càng thêm nhiệm màu khi đặt vào bối cảnh Nhật Bản hứng mưa triền miên, mưa đến mức vòm trời âm u trở thành cơm bữa, nước dâng gặm dần các đảo, và Tokyo có nguy cơ biến thành đô thị kênh đào.   Nhưng đến đây, phong cách song hành nhất quán của Shinkai lại trỗi dậy. Trong lạc có bi, trong hạnh phúc sẵn chia ly, được ban phép màu ắt phải đánh đổi. Đứa con của thời tiết cũng không thể tùy ý tắt bật nắng mưa mà không phải trả giá gì. Theo sau một lần làm nắng, là chất chứa hàng chuỗi ăn mòn, hối hận, mạo hiểm, giải cứu, và đằng đẵng cách xa.   Cũng như Your Name, ĐỨA CON CỦA THỜI TIẾT tiếp tục đan cài giữa truyền thống và hiện đại, huyền thoại và thực tế, nguy cơ và mộng ước, thiên tai và con người… nhưng có điểm khác là, lần đầu tiên hạnh phúc cá nhân đã được nhấn mạnh, nhân vật đã bứt mình khỏi tâm thế bao la vì mọi người. *** SHINKAI MAKOTO Sinh năm 1973 ở Nagano. Là đạo diễn phim hoạt hình. Năm 2002, bộ phim ngắn Tiếng gọi từ vì sao xa do anh tự thực hiện đã thu hút rất nhiều sự chú ý. Sau đó các tác phẩm Bên kia mây trời, là nơi hẹn ước, 5 centimet trên giây, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, Khu vườn ngôn từ, Your Name. lần lượt ra đời và nhận được khá nhiều giải thưởng trong nước. Tiểu thuyết do anh chấp bút, dựa trên nội dung của những bộ phim anh đạo diễn như 5 centimet trên giây, Khu vườn ngôn từ, Your Name. cũng được đánh giá cao.   IPM xuất bản: • 5 centimet trên giây • Khu vườn ngôn từ • Your Name. • Tiếng gọi từ vì sao xa (Shinkai Makoto, Ooba Waku) • Bên kia mây trời, là nơi hẹn ước (Shinkai Makoto, Kanoh Arata) • Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú (Shinkai Makoto, Akisaka Asahi) *** Chuyện cậu kể Tiếng còi ngân dài dưới màn mưa tháng Ba báo hiệu phà sắp rời bến. Rung động mạnh khi thân phà to lớn rẽ biển băng về phía trước lan từ mông lên khắp cơ thể. Vé của tôi là vé phòng hạng hai, nằm sát đáy phà. Chuyến hải trình tiến ra Tokyo kéo dài hơn mười tiếng đồng hồ, đến tối phà mới cập bến. Đây là lần thứ hai trong đời tôi đón chuyến phà này ra Tokyo. Tôi đứng dậy, bước tới cầu thang dẫn lên boong. “Hình như tên đó có tiền sự…” “Nghe đâu cậu ta vẫn bị cảnh sát theo dõi…” Sau vụ việc xảy ra tại Tokyo cách đây hai năm rưỡi, tôi bắt đầu nghe mấy lời đồn như thế ở trường. Bị nói này nói nọ cũng chẳng hề gì (thật ra tôi còn thấy đồn đại là tất nhiên), song tôi vẫn không hé răng với ai trên đảo về vụ việc xảy ra ở Tokyo hè năm đó. Tôi từng đề cập vài chi tiết, nhưng chưa bao giờ nhắc đến phần quan trọng nhất, kể cả với bố mẹ, bạn bè hay cảnh sát. Một mực giữ riêng câu chuyện của mùa hè ấy, tôi tìm đến Tokyo lần thứ hai. Giờ tôi đã 18 tuổi. Lần này đi là để sống tại thành phố ấy. Và để gặp lại người ấy. Cứ nghĩ đến đây là ngực tôi lại nóng ran, mặt như có lửa đốt. Tôi leo nhanh hơn để mau ra hứng gió biển. Đặt chân lên boong, tôi liền bị gió lạnh và mưa quất mạnh vào mặt. Như muốn thu hết chúng vào người, tôi hít thở thật sâu. Gió vẫn lạnh nhưng đã nức hơi xuân. Cuối cùng cũng tốt nghiệp cấp ba… Giờ này cảm giác đó mới rộn lên trong lòng tựa bản thông báo đến muộn. Chống khuỷu tay lên thanh vịn, tôi trông về phía hòn đảo đang dần lùi xa rồi ngước nhìn vùng trời cuồn cuộn gió. Vô vàn hạt mưa nhảy múa nơi xa hút tầm mắt. Vào khoảnh khắc ấy, tôi bỗng rùng mình, toàn thân nổi gai ốc. Lại nữa rồi. Tôi bất giác nhắm chặt mắt, bất động. Nước mưa táp vào mặt, tiếng mưa không ngừng dội vào màng nhĩ. Mưa vẫn rơi ở đó suốt hai năm rưỡi nay. Tựa nhịp đập con tim không thể lặng im dù có cố nín thở. Tựa đôi mắt không bao giờ chìm hẳn vào bóng tối dù gắng nhắm thật chặt. Tựa cõi lòng không cách nào bình yên dù nỗ lực trấn tĩnh. Tôi chậm rãi thở ra và mở mắt. Mưa. Mưa liên tục bị hút xuống mặt biển đen thẫm, nhấp nhô như hít thở. Chẳng khác nào trời và biển bắt tay nhau, nghịch ngợm xô đẩy mặt nước. Tôi bỗng thấy sợ. Từng đợt run rẩy dâng lên từ thẳm sâu cơ thể. Tôi ngỡ mình sắp bị xé rách, sắp rã thành từng mảnh. Bám chặt thanh vịn, tôi hít vào thật sâu qua mũi. Hình ảnh người ấy lại hiện về như mọi khi. Cô gái với đôi mắt to, biểu cảm sinh động, tông giọng biến hóa liên tục và mái tóc dài buộc thành hai chùm. Rồi tôi nghĩ, “Sẽ ổn thôi.” Cô ở đó. Cô đang sống ở Tokyo. Chừng nào còn có cô, tôi còn được gắn kết với thế giới. “… Vậy nên Hodaka à, đừng khóc.” Đêm ấy, trong khách sạn ở Ikebukuro nơi chúng tôi ẩn nấp, cô đã nói thế. Tiếng mưa giội xuống trần nhà nghe như tiếng trống vọng tới từ xa. Tóc cô thơm mùi dầu gội hai đứa dùng chung, giọng nói dịu dàng như thể sẵn sàng thứ tha tất cả, làn da ánh sắc trắng xanh giữa bóng tối. Tất cả quá đỗi sống động, đến độ tôi bỗng có cảm giác lúc này mình vẫn đang ở đó. Phải chăng chúng tôi quả thật vẫn ở khách sạn, và tôi chỉ tình cờ gặp hiện tượng kí ức ảo giác mà tưởng tượng cảnh bản thân ở tương lai đi phà? Phải chăng lễ tốt nghiệp hôm qua lẫn chuyến phà hôm nay đều là ảo giác, còn tôi thực sự vẫn nằm trên giường khách sạn? Rồi sớm mai thức dậy, mưa đã tạnh, cô vẫn ở bên tôi, diện mạo thế giới vẹn nguyên như trước giờ, và một ngày như mọi ngày lại bắt đầu? Còi hú vang. Không, không đúng. Tôi xác nhận xúc giác khi nắm lấy thanh vịn sắt, xác nhận mùi thủy triều, xác nhận hòn đảo dần khuất bóng nơi chân trời. Nhầm rồi, giờ không phải buổi tối. Chuyện đã lùi xa vào quá khứ. “Tôi” đang lắc lư trên phà này là tôi thực sự. Ngẫm kĩ đi. Nhớ lại từ đầu đi. Tôi vừa nhìn màn mưa chăm chăm vừa nghĩ. Trước khi gặp lại cô, phải hiểu hết những việc đã xảy đến với hai đứa. Không, dẫu không hiểu cũng phải suy nghĩ cho cặn kẽ. Chuyện gì đã xảy đến với chúng tôi? Chúng tôi đã lựa chọn gì? Còn tôi, sắp tới nên nói gì với cô? Căn nguyên của mọi việc… Phải, có lẽ là hôm đó. Ngày cô chứng kiến hiện tượng kia lần đầu tiên. Sự việc mà sau này cô kể tôi nghe chính là khởi đầu của tất cả. * Mẹ cô hôn mê suốt nhiều tháng nay. Trong phòng bệnh nhỏ chỉ có âm báo điện từ đều đặn phát ra từ màn hình theo dõi bệnh nhân, tiếng tút dài của máy thở và tiếng mưa dai dẳng đập vào cửa sổ. Cùng với đó là bầu không khí tách biệt đặc trưng của những phòng bệnh có bệnh nhân nằm lâu ngày. Ngồi trên ghế đẩu cạnh giường bệnh, cô nắm chặt bàn tay chỉ còn da bọc xương, dõi theo chiếc mặt nạ oxy đều đặn chuyển màu trắng mờ theo nhịp thở, đăm đăm ngắm hàng mi khép chặt của mẹ. Dầu bị nỗi bất an đè nặng, cô vẫn một lòng cầu nguyện. Cầu cho mẹ tỉnh lại. Cầu cho gió mạnh thổi tới như vị anh hùng xuất hiện giữa lúc nguy nan, quét sạch những thứ u ám và nặng nề, bất kể u uất, lo lắng hay mây đen, rồi gia đình ba người lại có thể tươi cười sánh bước dưới trời quang. Tóc cô chợt lay động. Tiếng nước tong tong nho nhỏ vẳng vào tai. Cô ngẩng đầu. Cửa sổ vốn khép chặt, vậy mà rèm vẫn khẽ đung đưa. Ánh mắt cô bị hút về phía khoảng trời ngoài khung cửa. Vầng dương đã chiếu rọi tự khi nào. Mưa chưa ngừng, nhưng một khe hở nhỏ đã xuất hiện giữa tầng mây. Những tia sáng mảnh lách qua khe hở, soi sáng một điểm trên mặt đất. Cô căng mắt nhìn. Vô số tòa nhà trải dài hút tầm mắt. Duy có sân thượng của một trong số đó bừng sáng tựa diễn viên đứng dưới ánh đèn sân khấu. Như thể nghe ai gọi, cô chạy ào khỏi phòng bệnh. Cô dừng bước trước một tòa nhà bỏ hoang. Các kiến trúc lân cận đều mới toanh, riêng tòa nhà phức hợp này mục nát, xám xịt như bị thời gian lãng quên. Hàng loạt biển hiệu gỉ sét phai màu, nào “Bi-a”, “Cửa hàng kim khí”, nào “Lươn”, “Mạt chược”… treo tứ phía. Cô ngẩng đầu, nhìn qua lớp ô nhựa trong suốt. Nắng quả thật đang rọi xuống sân thượng. Liếc sang hông tòa nhà, cô thấy bãi đỗ xe nhở cùng cầu thang thoát hiểm hoen gỉ cũ kĩ dẫn lên sân thượng. Hệt một vũng ánh sáng. Leo hết cầu thang, cô sững lại giây lát, mê mẩn ngắm cảnh sắc trước mắt. Sân thượng có lan can bao quanh, rộng chừng phân nửa hồ bơi dài 25 mét. Gạch lát nền vỡ gần hết, phủ một lớp cỏ dại xanh mướt. Ở góc sân có một cổng torii[1] nhỏ đứng im lìm như nằm trong lòng bụi cây. Nắng xuyên qua tầng mây, chiếu thẳng xuống cổng. Dưới chùm nắng, màu đỏ tươi ánh lên lấp lánh bên những hạt mưa. Đây là nơi duy nhất rạng rỡ giữa thế giới mưa phủ mờ này. Cô chậm rãi băng qua sân, tiến về phía cổng. Cứ mỗi bước giẫm trên lớp cỏ mùa hè đẫm mưa, âm thanh loạt soạt êm tai lại vang lên cùng cảm giác đàn hồi dễ chịu. Những tòa cao ốc trắng đục vươn mình thẳng tắp sau màn mưa. Không gian ríu rít tiếng chim non. Dường như đâu đây có tổ chim. Thoảng trong đó là âm thanh tuyến Yamanote xa xôi tựa hồ vẳng đến từ thế giới khác. Cô đặt ô xuống đất. Cái lạnh của cơn mưa ve vuốt đôi gò má mịn màng của cô. Sau cổng torii có một ngôi miếu nhỏ bằng đá, hoa tím li ti mọc kín xung quanh. Không biết ai đã đặt hai cỗ xe ngựa vong hồn[2] dùng cho lễ Obon[3] tại đó. Trông chúng như bị vùi vào vạt hoa. Một bằng cà tím, một bằng dưa chuột, đứng trên bốn que tre mảnh. Gần như vô thức, cô chắp tay, khẩn thiết cầu nguyện. Cầu cho mưa tạnh. Cô chậm rãi khép mi, vừa cầu nguyện vừa bước qua cổng. Cầu cho mẹ tỉnh lại và cùng cô bước đi dưới trời quang. Qua khỏi cổng torii, không khí lập tức thay đổi. Tiếng mưa ngừng bặt. Và rồi cô mở mắt… giữa bốn bề là trời xanh. Gió lớn thổi cô bay bồng bềnh trên tầng không cao vời vợi. Không, chính xác là cô đang rẽ gió rơi xuống. Tiếng gió hú trầm thăm thẳm chưa từng nghe trong đời cuộn xoáy xung quanh. Cứ mỗi nhịp thở ra, hơi thở lại đông trắng, lấp lánh bay lượn giữa vùng trời xanh thẳm. Vậy mà cô không hề sợ hãi, cảm giác kì lạ như thể đang mơ trong khi vẫn tỉnh táo. Dưới chân là những cột mây vũ tích trông như cây súp lơ khổng lồ trôi lơ lửng. Mỗi đám mây phải rộng đến mấy kilomet, tạo nên một khu rừng trên không tráng lệ. Cô chợt nhận thấy sắc mây đang biến đổi. Từng đốm xanh nối nhau xuất hiện trên đỉnh những đám mây, nơi bằng phẳng như đồng bằng và tiếp giáp với không khí. Cô mở to mắt theo dõi cảnh tượng ấy. Giống thảo nguyên quá. Những chấm màu xanh lục nhộn nhịp hiện ra rồi biến mất trên đỉnh mây, nơi mà người dưới đất chắc chắn không thể nhìn thấy. Để ý kĩ, cô còn thấy thứ gì đó bé xíu tựa sinh vật sống tập trung thành đàn khắp bốn bề. “… Cá?” Quần thể khoan thai uốn lượn thành hình xoáy ấy giống hệt đàn cá. Cô vừa rơi vừa nhìn không chớp mắt. Vô số cá đang bơi lội giữa bình nguyên trên mây. Đột nhiên, ngón tay cô chạm phải thứ gì đó. Cô kinh ngạc nhìn xuống tay. Quả nhiên là cá. Những chú cá nhỏ với cơ thể trong suốt bơi qua ngón tay và tóc cô như những cơn gió có trọng lượng. Có con vây dài ve vẩy, có con tròn như sứa, có con lại mảnh dẻ như cá sóc. Bầy cá trong suốt muôn hình muôn vẻ lấp lánh như lăng kính dưới nắng. Chẳng rõ tự khi nào, cô đã bị vây giữa đàn cá trời. Trời xanh, mây trắng, màu xanh lục lao xao, đàn cá ánh sắc cầu vồng. Cô đang hiện diện giữa thế giới trên không đẹp đẽ và kì lạ, chưa từng nghe qua mà cũng chưa từng tưởng đến. Cuối cùng, mây đen vần vũ dưới chân cô dần biến mất như thể tan chảy. Phố phường Tokyo mênh mông hiện ra dưới tầm mắt. Từng tòa nhà, từng chiếc xe, từng tấm kính cửa sổ tắm mình dưới nắng, kiêu hãnh rực sáng. Cô cưỡi gió, chầm chậm đáp xuống thành phố vừa tái sinh sau khi được mưa gột rửa. Cảm giác hợp thể lạ lùng từ từ lan đi khắp người. Bằng một dạng giác quan tồn tại trước cả ngôn từ, cô hiểu rằng mình là một phần của thế giới. Mình là gió, là nước, là xanh, là trắng, là trái tim, là nguyện ước. Niêm hạnh phúc cùng nỗi day dứt lạ thường xâm chiếm châu thân. Và rồi, ý thức dần tan biến tựa hồ lún sâu vào tấm đệm dày.. * “Cảnh tượng đó… Có thể những gì tớ thấy khi ấy đều là mơ…” Cô từng nói với tôi như thế. Song đó không phải mơ. Giờ đây chúng tôi đã biết đó là thật. Sau ngày cô kể tôi nghe, hai đứa còn tận mắt chiêm ngưỡng khung cảnh tương tự một lần nữa, chiêm ngưỡng thế giới trên trời không ai biết đến. Vào mùa hè tôi cùng cô trải qua năm ấy, trên bầu trời Tokyo, chúng tôi đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách Đứa Con Của Thời Tiết của tác giả Shinkai Makoto & Mỹ Trinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con đường xứ Flandres - Claude Simon
Con đường xứ Flandres, xuất bản năm 1960, được Claude Simon viết dựa trên những trải nghiệm của chính ông trong những năm chiến tranh Thế giới thứ II.   Tác phẩm là những hồi tưởng của nhân vật chính – Georges – về trận đánh vào năm 1940 mà trung đoàn kỵ binh của anh đã thất bại và về quãng thời gian anh ở trong trại tập trung của quân Đức.    Sĩ quan chỉ huy của Goerges – de Reixach – được giải đi bởi một người làm công cho anh ngày trước, người có lẽ đã từng có quan hệ tình cảm với Corinne, vợ của Reixach. Georges chứng kiến cảnh de Reixach bị một xạ thủ bắn chết. Anh nghi ngờ rằng de Reixach cố tình phơi mình ra trước họng súng để chịu chết và anh bị ám ảnh bởi sự bí ẩn của việc tự sát này: liệu rằng đó là do de Reixach cảm thấy xấu hổ vị thất trận hay vì biết được vợ mình ngoại tình? Trong hình dung của Georges, Corinne là một phụ nữ vô cùng khêu gợi. Sau khi chiến tranh kết thúc, anh ngủ với cô cốt để tìm lời giải đáp cho điều bí ẩn về cái chết của de Reixach và cả để đồng cảm với Reixach nhưng không đạt được kết quả.    Ẩn chứa đằng sau việc lên án chiến tranh, cuốn tiểu thuyết còn khai thác những tính cách của con người, nhưng dục vọng và những hiểu biết hạn chế của chúng ta về các sự việc xảy ra. Với tựa gốc “Description fragmentaire d'un désastre” (tạm dịch là: Những mô tả rời rạc về thảm họa), cuốn tiểu thuyết không sử dụng lối kể truyện thông thường, kể theo trình tự mà lại thuật lại mọi sự kiện theo lối “xây dựng cảm nhận dựa trên trí nhớ” (lời của Simon), quyện chặt với một chuỗi các sự kiện tạo nên những móc xích xung quanh thời khắc xảy ra cái chết của de Reixach, và lời kể khi thì ở ngôi thứ nhất, khi thì ở ngôi thứ ba số ít. Chưa hết, các sự kiện, sự việc trong cuốn tiểu thuyết được diễn tả bằng cả những lời độc bạch của nhân vật chính lẫn những lời khai của một người bạn tù – Blum và của Corinne. *** Claude Eugène-Henri Simon (10 tháng 10 năm 1913 – 6 tháng 7 năm 2005) là nhà văn Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1985.   Claude Simon sinh ở Antananarivo, Madagascar, là con trai của một sĩ quan đã hy sinh khi Thế chiến thứ nhất mới bắt đầu. Cùng với mẹ và ông bà ngoại, Simon về Perpignan (Pháp) và bắt đầu đi học. Simon tốt nghiệp trường trung học Stanislas ở Paris, sau học ở Đại học Oxford và Đại học Cambridge (Anh). Ông mơ trở thành họa sĩ nhưng phải từ bỏ ý định này sau một thời gian theo học hội họa và quay sang viết văn.   Năm 1936, Claude Simon sang Barcelona tham gia đội quân tình nguyện quốc tế chiến đấu chống lại tướng Francisco Franco. Trong Thế chiến thứ hai, ông chiến đấu trên nhiều mặt trận và bị quân Đức bắt làm tù binh năm 1940. Sau khi trốn thoát khỏi trại tù binh, Simon trở về tham gia phong trào Kháng chiến ở thị trấn Perpignan.   Thành công đầu tiên trong văn học của Claude Simon đến vào năm 1945 sau khi xuất bản tiểu thuyết Le tricheur (Kẻ lừa đảo). Tác phẩm thời kì này viết theo lối trần thuật truyền thống, chịu ảnh hưởng của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, William Faulkner, Marcel Proust và triết học chủ nghĩa hiện sinh.   Từ giữa thập niên 1950 trở đi Claude Simon bắt đầu tìm tòi, đặt khởi đầu cho trào lưu Tiểu thuyết mới với đặc trưng là cốt truyện “hiện thực” trở thành thứ yếu, còn trung tâm chuyện kể là những miêu tả và các hình tượng không kết gắn với nhau về mặt thời gian, tất cả các cảm xúc đồng hiện trên một bình diện như trên một bức tranh. Năm 1960 Simon kí tên vào “Tuyên ngôn 121” của các trí thức Pháp ủng hộ phong trào đòi độc lập cho Algérie. Tiểu thuyết La route de Flandres (Những con đường xứ Flandres) cũng được xuất bản vào năm này đã mang lại cho ông giải thưởng của tạp chí Express năm 1961. Có thể nhận thấy trong tác phẩm này sự đứt đoạn giữa các sự kiện và ngôn ngữ mô tả chúng - một kĩ thuật mới trong phong cách tiểu thuyết - thể hiện kiếp người vô nghĩa, những đoạn đời không lối thoát, hoặc chỉ dẫn đến cái chết mà thôi. Tiểu thuyết Histoire (Lịch sử, 1967) được trao giải thưởng Meditri. Năm 1973 ông được phong học vị danh dự của Đại học Miền Đông nước Anh.   Từ thập niên 1980, Claude Simon trở về quê Perpignan, vừa viết văn vừa trồng nho. Với tiểu thuyết Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), Simon bắt đầu xa rời phong cách thử nghiệm trong các cuốn sách trước đây của ông. Năm 1985 Simon được trao giải Nobel vì “sự kết hợp trong sáng tác của ông các nguyên tắc của thơ và hội họa”, vì “nhận thức sâu sắc về vai trò của thời gian trong mô tả con người”.   Năm 1989, nhà văn 76 tuổi cho ra đời tiểu thuyết L'acacia (Cây keo hoang) được đánh giá cao; cùng với Les Géorgiques là hai tác phẩm tự thuật độc đáo, trong đó lịch sử và hư cấu, quá khứ và hiện tại đan quyện vào nhau trong một hình thức kể chuyện vừa hư vừa thực. Claude Simon mất ở Paris năm 2005.   Tác phẩm:   - Le tricheur (Kẻ lừa đảo, 1945), tiểu thuyết   - La corde raide (Dây căng, 1947), tiểu thuyết   - Gulliver (1952), tiểu thuyết   - Le sacre du printemp (Mùa xuân đăng quang, 1954), tiểu thuyết   - Le vent (Gió, 1957), tiểu thuyết   - L'herbe (Cỏ, 1958), tiểu thuyết   - La route de Flandres (Con đường xứ Flandres, 1960), tiểu thuyết   - Le palace (Cung điện, 1962), tiểu thuyết   - La chevelure de Bérénice (Mái tóc Berenice, 1965), truyện ngắn   - Histoire (Lịch sử, 1967), tiểu thuyết   - La bataille de Pharsale (Trận Pharsale, 1969), tiểu thuyết   - Orion aveugle (Chòm Thiên Lang mờ tối, 1970), tiểu luận   - Les corps conducters (Những thân xác dẫn đường, 1971), tiểu thuyết   - Triptyque (Bức họa tam bình, 1973), tiểu thuyết   - Leçon de chose (Bài học vạn vật, 1975)   - Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), tiểu thuyết   - L'acacia (Cây keo hoang, 1989), tiểu thuyết   - La Jardin des plantes (Vườn bách thảo, 1997), tiểu thuyết Mời các bạn đón đọc Con đường xứ Flandres của tác giả Claude Simon.
Cỏ - Claude Simon
Với Cỏ, sự phân hóa không mang tính tổng thể quy mô như ở Con đường Flandres mà xuất hiện trong cái thường nhật gần gũi của cuộc đời. Một bà lão 84 tuổi, đúng hơn là một cô gái già, nằm chờ chết trong một gian phòng tối tăm lạnh lẽo toát mùi nước Cologne rẻ tiền và mùi hoa tàn úa quen thuộc. Bà lão đợi chết, đang chết, bận bịu với cái chết, tập trung vào cái chết trong cô đơn, ngạo nghễ, cho dù bà không hay biết gì nữa, không nói năng, không cử động. Bà không còn ai để khóc cho mình ngoài người em trai, có lẽ, cũng đã già với tấm thân nặng nề in đậm dấu ấn thời gian. Đó là một cái chết bình thường của một người con hình thường đã sống một cuộc đời đơn điệu trong sự cần cù, giản dị, đượm phần khắc khổ, đạo hạnh. Qua những hồi tưởng miên man, đứt đoạn của Louise, người cháu dâu, đó là một người con có hiếu, một người chị hết lòng với em, đã giúp em thực hiện giấc mơ của người cha mù chữ suốt đời còng lưng trên mảnh đất: trở nên người có học thức và mang học thức của mình truyền thụ cho kẻ khác. Kết quả là người em đã trớ thành một giáo sư đại học, đã lập gia đình, có con, có dâu, nói chung có một địa vị xã hội đáng kể trong khi người chị gương mẫu kia vẫn một đời sống ở tỉnh lẻ với nghề giáo viên khiêm tốn. Những giờ phút hấp hối của người cô chồng là dịp để Louise ôn lại, ráp lại những mảnh vụn làm nên một số phận, đó cũng là thời gian của tấn bi kịch riêng nơi nàng: ý định cùng người yêu về sống tại một thành phố lạ và quá trình gãy đổ của nó, tất cả diễn ra âm thầm nhưng khốc liệt làm sao! Có thể nói, nhân vật trung tâm ở đây là thời gian, thời gian chi phối tất cả, hiện thân nơi tất cả: từ sự nảy nở và mục rữa của hoa trái đến tiếng mưa rơi, tiếng nước róc rách qua những đồng có, những cánh rừng, những thung lũng… Ðặc biệt sự tàn phá của nó nơi thân xác con người có lẽ khóc liệt hơn cả: thân xác bị gặm mòn bởi từng khoảnh khắc trôi qua của bà lão, thân xác biến dạng vì tuổi tác của người em trai, thân xác xấu xí núp sau những trang phục loè loẹt, giả tạo của bà vợ…: con người “chứng kiến sự tan rã của mình ngay khi còn sống”. Qua lần vách ngăn, Louise đã theo dõi tấm bi hài kịch của đôi vợ chồng già, từ cơn ghen ấp ủ suốt 40 năm của người vợ tới cuộc giằng co xô xát vừa thô bạo vừa tha thiết, tội nghiệp của hai người, trong đó có tiếng khóc, tiếng vỗ về..., đó phải chăng là cố gắng sau cùng của sự sống chống lại ám ảnh của cái chết? Nhưng đó là một cố gắng vô vọng, một cách nào đó lừa dối chính mình. Còn Louise? Cái chết của người cô chồng, người duy nhất trong gia đình nàng có cảm tình, là con dao cắt đứt mọi ràng buộc giữa nàng với nhà chồng: “Giờ đây cô sắp chết, vậy chẳng còn gì nữa”. Nàng sẽ làm lại cuộc đời tại một thành phố với người yêu, điều lẽ ra nàng phải thực hiện từ lâu. Nhưng tại sao nàng trù trừ, không dứt khoát khi ý đồ đã có cơ hội thực hiện? Nàng trù trừ không phải vì hối hận mà có lẽ vì chính tâm hồn nàng cũng rã rời, mệt mỏi, bị nhiễm độc bởi bầu không khí nồng nặc mùi vị của cái chết, của sự băng hoại ở chung quanh, ở sát kề bên thân thể. Nàng không giải thích hay không thể giải thích được. Nàng nghĩ: “Mình đã chết”, và ý nghĩ đó vang vọng trong nàng như một điệp khúc lạnh lùng, ghê rợn. Trước lời hẹn hò của người yêu về chuyến đi, nàng chỉ buông những tiếng “vâng, dạ…” hững hờ và rỗng tuếch. Và nàng biết nàng sẽ không tới, đồng thời cũng biết chàng biết rõ điều đó, và chính chàng cũng sẽ không tới. Nàng tự hỏi tất cả phải chăng chỉ là một sự dối trá, tự đánh lừa? Nói khác đi, tình yêu ở đây cũng chỉ là một sự thất bại thấy trước, như tình yêu giữa nàng và Georges, giữa đôi vợ chồng già kia (bố mẹ chồng của nàng). Khi xem một tấm ảnh cũ rơi ra từ mớ kỷ vật của người đang hấp hối, Louise đã tưởng tượng một cuộc tình nên thơ trong sáng nhưng bất thành của cô gái già trọn đời sống độc thân. Đó là một hình ảnh đẹp hiếm thấy về tình yêu trên những trang sách của Claude Simon: một cái gì gần như không có trong hiện thực.   Cũng như hầu hết các tác phẩm khác, Cỏ có bối cảnh làm nền là chiến tranh, ở đây là giai đoạn đen tối của nước Pháp năm 40. Claude Simon luôn trở về với chiến tranh như một bi kịch lớn của lịch sử cuốn hút những thân phận riêng lẻ, bé nhỏ. Điều này giải thích phần nào cái nhìn bi quan về con người trong một thế giới đổ vỡ, băng hoại, trong đó mọi cố gắng đều vô ích khi nó chỉ còn một đặc quyền là tan biến vào hư vô, “đặc quyền chết”. Ở đây, một phần nào, Claude Simon là người tiếp nối trào lưu triết học và văn học hiện sinh trước đó với Heidegger, Sartre, Camus… Trong bối cảnh của một thế giới hao hụt, tàn lụi như thế, con người nhận ra sự tha hóa của mình, nhận ra sự hiện diện của mình chỉ là một sự vô nghĩa (non - sens). Nó chỉ còn cách buông xuôi, thỏa hiệp với chính sự thất bại của mình, một lần cho tất cả. Nhưng đó không phải là giải pháp mà là sự bế tắc của mọi giải pháp.   Thể hiện một sự tan rã mang tính tổng thể nói trên đòi hỏi một thủ pháp nghệ thuật, một chất liệu ngôn từ tương xứng. Ta biết rằng điều cốt yếu ở Claude Simon không phải là kể một câu chuyện có đầu có đuôi với tình tiết, diễn biến hợp lý. Ông thường phá hủy trình tự thời gian và làm đảo lộn tất cả: thời gian chỉ còn là những mảnh vụn chất chồng hỗn độn lên nhau. Thời gian con người đã sống qua, khi tái hiện đã không còn là nó nữa. Nhà văn tìm kiếm một thời gian khác, bằng chữ viết của mình. Thật không ngoa khi nói rằng mỗi tác phẩm của ông chỉ là sự dàn trải của một câu văn duy nhất, không khởi đầu, không kết thúc, nó đứt đoạn và không ngừng sinh sôi nảy nở, nó bất chấp mọi qui luật và trật tự thường tình, nó mặc tình rong chơi giữa cái thực và cái hư, hiện tại và quá khứ. Viết là chất chồng những chữ, trong đó một chữ làm nẩy sinh một câu, một câu làm nẩy sinh một câu khác, một trang sách và cả một quyển sách trong cuộc vận hành liên tục, bất tận với những độc thoại nội tâm, những hồi tưởng, những mơ tưởng chen vào những mô tả, kể lể..., tất cả lẫn lộn vào nhau, tạo thành một tổng thể ở dạng nguyên sinh, và người đọc sẽ nhận ra ở đó một ý nghĩa, đúng hơn, chính cái tổng thể rối rắm phức tạp đó - một bức thảm muôn màu – tự nó hình thành một ý nghĩa sẽ được người đọc cảm nhận theo cái cách của mình. Với ông đề tài thực của tiểu thuyết chính là cuốn tiểu thuyết đang hình thành dưới ngòi bút nhà văn, dưới con mắt người đọc. Người đọc không còn bình yên trong cuộc hành trình hứa hẹn nhiều bất trắc cũng như chính nhà văn, qua những hình tượng những ngôn từ ngổn ngang kia cũng không ngớt dò dẫm, lắng nghe, kiếm tìm. Con đường vùng Flandres kết thúc, thật ra không có gì kết thúc ở đây: tác giả bỏ lửng nhân vật của mình trong trạng thái hoài nghi, mơ hồ (về chính những gì đã trải qua, nhớ lại). Cuộc phiêu lưu của Louise trong Cỏ kết thúc trong trạng thái lững lờ (sự chối từ ở đây không phải là một chọn lựa mà là một cách buông xuôi), khi nàng ngã người lên thảm cỏ, thân thể như tan lẫn vào cành lá, đất cát, khí trời, vào niềm yên ả của đêm thâu (la paix nocturne). *** Claude Eugène-Henri Simon (10 tháng 10 năm 1913 – 6 tháng 7 năm 2005) là nhà văn Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1985.   Claude Simon sinh ở Antananarivo, Madagascar, là con trai của một sĩ quan đã hy sinh khi Thế chiến thứ nhất mới bắt đầu. Cùng với mẹ và ông bà ngoại, Simon về Perpignan (Pháp) và bắt đầu đi học. Simon tốt nghiệp trường trung học Stanislas ở Paris, sau học ở Đại học Oxford và Đại học Cambridge (Anh). Ông mơ trở thành họa sĩ nhưng phải từ bỏ ý định này sau một thời gian theo học hội họa và quay sang viết văn.   Năm 1936, Claude Simon sang Barcelona tham gia đội quân tình nguyện quốc tế chiến đấu chống lại tướng Francisco Franco. Trong Thế chiến thứ hai, ông chiến đấu trên nhiều mặt trận và bị quân Đức bắt làm tù binh năm 1940. Sau khi trốn thoát khỏi trại tù binh, Simon trở về tham gia phong trào Kháng chiến ở thị trấn Perpignan.   Thành công đầu tiên trong văn học của Claude Simon đến vào năm 1945 sau khi xuất bản tiểu thuyết Le tricheur (Kẻ lừa đảo). Tác phẩm thời kì này viết theo lối trần thuật truyền thống, chịu ảnh hưởng của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, William Faulkner, Marcel Proust và triết học chủ nghĩa hiện sinh.   Từ giữa thập niên 1950 trở đi Claude Simon bắt đầu tìm tòi, đặt khởi đầu cho trào lưu Tiểu thuyết mới với đặc trưng là cốt truyện “hiện thực” trở thành thứ yếu, còn trung tâm chuyện kể là những miêu tả và các hình tượng không kết gắn với nhau về mặt thời gian, tất cả các cảm xúc đồng hiện trên một bình diện như trên một bức tranh. Năm 1960 Simon kí tên vào “Tuyên ngôn 121” của các trí thức Pháp ủng hộ phong trào đòi độc lập cho Algérie. Tiểu thuyết La route de Flandres (Những con đường xứ Flandres) cũng được xuất bản vào năm này đã mang lại cho ông giải thưởng của tạp chí Express năm 1961. Có thể nhận thấy trong tác phẩm này sự đứt đoạn giữa các sự kiện và ngôn ngữ mô tả chúng - một kĩ thuật mới trong phong cách tiểu thuyết - thể hiện kiếp người vô nghĩa, những đoạn đời không lối thoát, hoặc chỉ dẫn đến cái chết mà thôi. Tiểu thuyết Histoire (Lịch sử, 1967) được trao giải thưởng Meditri. Năm 1973 ông được phong học vị danh dự của Đại học Miền Đông nước Anh.   Từ thập niên 1980, Claude Simon trở về quê Perpignan, vừa viết văn vừa trồng nho. Với tiểu thuyết Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), Simon bắt đầu xa rời phong cách thử nghiệm trong các cuốn sách trước đây của ông. Năm 1985 Simon được trao giải Nobel vì “sự kết hợp trong sáng tác của ông các nguyên tắc của thơ và hội họa”, vì “nhận thức sâu sắc về vai trò của thời gian trong mô tả con người”.   Năm 1989, nhà văn 76 tuổi cho ra đời tiểu thuyết L'acacia (Cây keo hoang) được đánh giá cao; cùng với Les Géorgiques là hai tác phẩm tự thuật độc đáo, trong đó lịch sử và hư cấu, quá khứ và hiện tại đan quyện vào nhau trong một hình thức kể chuyện vừa hư vừa thực. Claude Simon mất ở Paris năm 2005.   Tác phẩm:   - Le tricheur (Kẻ lừa đảo, 1945), tiểu thuyết   - La corde raide (Dây căng, 1947), tiểu thuyết   - Gulliver (1952), tiểu thuyết   - Le sacre du printemp (Mùa xuân đăng quang, 1954), tiểu thuyết   - Le vent (Gió, 1957), tiểu thuyết   - L'herbe (Cỏ, 1958), tiểu thuyết   - La route de Flandres (Con đường xứ Flandres, 1960), tiểu thuyết   - Le palace (Cung điện, 1962), tiểu thuyết   - La chevelure de Bérénice (Mái tóc Berenice, 1965), truyện ngắn   - Histoire (Lịch sử, 1967), tiểu thuyết   - La bataille de Pharsale (Trận Pharsale, 1969), tiểu thuyết   - Orion aveugle (Chòm Thiên Lang mờ tối, 1970), tiểu luận   - Les corps conducters (Những thân xác dẫn đường, 1971), tiểu thuyết   - Triptyque (Bức họa tam bình, 1973), tiểu thuyết   - Leçon de chose (Bài học vạn vật, 1975)   - Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), tiểu thuyết   - L'acacia (Cây keo hoang, 1989), tiểu thuyết   - La Jardin des plantes (Vườn bách thảo, 1997), tiểu thuyết     Mời các bạn đón đọc Cỏ của tác giả Claude Simon.
Dưới Ánh Sao Thu - Knut Hamsun
Dưới ánh sao thu (Under høstjernen) của Knut Hamsun, Nguyễn Thành Nhân dịch từ bản tiếng Anh Under the Autumn Star của W. W. Worster. *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Tôi lê bước tới đường Raadhusgaten, và đứng một hồi cạnh trạm xe ngựa, quan sát lối vào khách sạn Victoria. Nhưng dĩ nhiên nàng đã ra ngoài thăm mấy người bạn. Tôi nhắm mắt đưa chân vào khách sạn, nói chuyện với người gác cửa. Phải, Fruen đang ở trong phòng số 12, tầng một. Vậy bà ta không ra ngoài thăm bạn sao? Không. Có phải bà ta chỉ ra ngoài chốc lát không? Fruen không hề nói thế. Tôi lại bước ra đường; những người đánh xe vung vẫy những tấm da phủ chân, mời mọc tôi hạ cố. Tôi chọn một cỗ xe và trèo vào. “Tới đâu ạ?” “Cứ ở yên tại chỗ. Tôi thuê anh theo giờ.” Những gã đánh xe đi quanh xì xào, kẻ bàn thế này, người tán thế kia: ông ta đang theo dõi khách sạn; ra ngoài để bắt ghen vợ ông ta đang hẹn hò với một thương gia đi du lịch nào đó. Phải, tôi đang theo dõi chỗ này. Có ánh đèn trong một hai căn phòng, và đột nhiên tôi chợt nghĩ ra rằng có thể nàng đang đứng ở một ô cửa sổ và trông thấy tôi. “Chờ chút,” tôi nói với người đánh xe, và lại đi vào khách sạn. “Phòng số 12 ở đâu?” “Tầng một.” “Nhìn ra đường Raadhusgaten phải không?” “Vâng.” “Vậy đó phải là em gái của tôi,” tôi nói, bịa đặt đôi điều để chuồn qua người gác cửa. Tôi đi lên cầu thang, và để không cho mình có cơ hội quay lại, tôi gõ cửa ngay khoảnh khắc tôi nhìn thấy con số. Không trả lời. Tôi gõ lần nữa. “Có phải hầu phòng không?” từ trong phát ra một giọng nói. Tôi không thể đáp phải; giọng tôi sẽ phản bội tôi. Tôi thử xoay nắm cửa – cửa đã bị khóa. Có lẽ nàng e rằng tôi có thể tới; có thể nàng đã nhìn thấy tôi ở bên ngoài. “Không, đây không phải là người hầu phòng,” tôi nói, và tôi có thể nghe những từ run rẩy một cách lạ lùng ra sao. Sau đó tôi đứng lắng nghe hồi lâu; tôi có thể nghe tiếng ai đó di chuyển bên trong, nhưng cửa vẫn đóng. Rồi có hai hồi chuông ngắn từ một trong những căn phòng dưới sảnh. Hẳn đó là nàng, tôi tự nhủ; nàng đang cảm thấy khó chịu, và đã ấn chuông gọi người hầu phòng. Tôi bước xa khỏi cửa, để tránh bất kỳ sự lúng túng nào cho nàng, và, khi người hầu phòng tới, tôi bước ngang qua như thể đang đi xuống thang. Lúc ấy người hầu phòng nói, “Phải, hầu phòng đây,” và cửa mở. “Không, không,” người hầu phòng nói; “chỉ có một quý ông đang xuống thang.” Tôi nghĩ tới việc lấy một phòng ở khách sạn, nhưng ý tưởng này khiến tôi khó chịu; nàng không phải là một bà vợ bỏ trốn để hẹn hò với những thương gia đi du lịch. Khi xuống tới dưới, tôi nhận xét với người gác cửa rằng hình như Fruen đang nằm nghỉ. ... Mời các bạn đón đọc Dưới Ánh Sao Thu của tác giả Knut Hamsun.
Đừng Nói Mãi Mãi - Linda Howard
Đây là cuốn sách tình yêu của Linda Howard - người từng đạt giải thưởng Career Achievement Award dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. Đừng nói mãi mãi là câu chuyện về Maxwell Conroy - Phó giám đốc điều hành tại tập đoàn Spencer Nyle. Anh chàng đào hoa này được giao nhiệm vụ tiếp cận thư ký Claire Westbrook của hãng Hợp kim Bronson để tìm mọi thông tin, nhằm chuẩn bị cho cuộc thâu tóm của tập đoàn. Với vẻ ngoài đẹp trai và trí tuệ lạnh lùng, Maxwell Conroy tin tưởng công việc này sẽ nhanh chóng kết thúc. Nhưng nhiệm vụ của Max đã vấp phải khó khăn bởi Claire Westbrook không hề giống như những người phụ nữ khác anh từng gặp. Sống độc thân sau cuộc chia tay đầy đau đớn vì người chồng cũ phản bội, Claire đã thề sẽ xây dựng cuộc sống độc lập về vật chất và tình cảm. Cô không hẹn hò, mất niềm tin với đàn ông, đặc biệt là những người đẹp trai và quyến rũ như chồng cũ. Đối mặt với một người phụ nữ dường như miễn nhiễm với đàn ông này, Max lại chính là người bị quyến rũ và trót đem lòng yêu Claire. Cuối cùng, tình yêu của Max và Claire sẽ ra sao? Liệu Claire có dễ dàng tha thứ cho Max và đón nhận hạnh phúc từ anh? *** Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. Linda Howard nói rằng từ lâu sách đã đóng một vai trò to lớn trong cuộc đời bà, dù là để đọc hay viết. Tác giả tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên bà đọc là Margaret Mitchen và kể từ đó trở đi bà đọc rất nhiều với tất cả đam mê. Trong những năm gần đây, mối quan tâm của bà tập trung chủ yếu vào dòng tiểu thuyết lãng mạn, bởi bà “dễ dàng thấy chán chuyện giết người, bạo lực và chính trị”. Sau hai mươi mốt năm viết truyện chỉ để mua vui cho mình, rốt cuộc Howard đã gom đủ dũng cảm để gửi một tiểu thuyết tới nhà xuất bản - và lập tức thành công. Nhà văn gốc Alabama giờ đã trở thành người nhiều lần xuất hiện trong danh sách tác giả sách bán chạy nhất của tờ New york Times. Tuyển Tập Linda Howard gồm có: Against The Rules (Tiếng Việt) Almost Forever (Tiếng Việt) An Independent Wife (Tiếng Việt) Angel Creek (Tiếng Việt) Băng Đá Bluebird Winter (Tiếng Việt) Cầu Vồng Lúc Nửa Đêm Con Gái Của Sarah Con Trai Của Bình Minh Đêm Định Mệnh Duncan's Bride (Tiếng Việt) Đường Về Nhà Giã Từ Nước Mắt Hẹn Hò Theo Kiểu Của Em Kill And Tell (Tiếng Việt) Lời Dối Gian Chân Thật Những Điều Hào Nhoáng Núi Tình Quý Bà Miền Tây Quý Ông Hoàn Hảo Sắc Màu Hoàng Hôn The Cutting Edge (Tiếng Việt) Thiên Sứ Tử Thần Thiêu Hủy Tội Ác Trong Mơ Trăng Xanh Tưởng Chừng Mãi Mãi Vịnh Kim Cương *** Claire nặn ra một nụ cười cứng nhắc với nữ tiếp viên hàng không khi cô ta đến rót thêm trà cho cô. Họ sẽ hạ cánh xuống Heathrow trong vòng một tiếng nữa. Cô mừng vì chuyến bay dài và chán ngán đã đến hồi kết, nhưng lòng không khỏi hồi hộp bất kể khi nào nghĩ đến việc gặp gỡ gia đình Max. Cô đã nói chuyện trên điện thoại với mẹ anh và cảm nhận được sự ấm áp từ những lời chúc mừng của bà, nhưng cô vẫn tự hỏi làm sao mình vượt qua được thử thách gặp mặt họ thực sự. Cô đã học thuộc lòng tên của anh trai và em gái anh, cũng như tên tuổi vợ hay chồng họ và đàn con, nhưng đó mới chỉ là những cái tên đầu tiên. Trong danh sách còn có các cô dì, chú, bác, thông gia quyến thuộc, ông bà nội ngoại, ông bà trẻ cũng như con cái và vợ hoặc chồng họ. Một gia đình lớn như thế vượt ngoài kinh nghiệm bản thân cô. Bà Alma và ông Harmon đang ngồi ngay trước mặt họ. Hôm nay là đúng một tuần trước đám cưới và bà Alma làm việc với những danh sách luôn kè kè bên mình suốt cả chuyến đi. Vợ chồng Martine và Steve cùng mấy đứa trẻ sẽ bay sang trong ba ngày nữa, tiếp theo đó là các vị khách còn lại. Rome và Sarah có tham dự cùng Missy và Jed. Sarah đã gợi ý để bọn trẻ ở nhà cùng cô trông trẻ nhưng Claire đã yêu quý chúng đặc biệt tới mức rất muốn chúng tới dự. Rốt cuộc đám cưới của cô đã đầy rẫy bọn nhóc rồi; thêm hai đứa nữa có là gì? Rome và Sarah sẽ mang theo một người bạn trẻ tên là Derek Taliferro, cậu là sinh viên đang về nghỉ hè và giành rất nhiều thời gian với nhà Matthew. Claire mới gặp Derek hai lần nhưng đã thích cậu ngay, một việc vốn không bình thường với cô. Cô thường cẩn trọng hơn nhiều với người lạ, nhưng ở Derek có một điều gì đó làm cô dễ chịu. Cậu đẹp trai khác thường với mái tóc xoăn đen và đôi mắt nâu vàng bình thản làm cô cảm động tận tâm can, trong khi đáng lẽ vẻ đẹp trai của cậu phải làm Claire cảnh giác ngay từ đầu. Nhưng cậu thanh niên cao và đầy cơ bắp này lại toát lên vẻ bình tĩnh và đĩnh đạc vô cùng, cậu cũng hết sức dịu dàng với bọn trẻ, đứa nào cũng yêu thích cậu, và bản năng Claire bảo cô tin vào cậu. Dù còn ít tuổi nhưng Derek đàn ông hơn cả những người gấp đôi số tuổi của cậu. Max và Rome đối xử với cậu ngang hàng trong khi bản thân họ cũng đâu phải người bình thường. Claire liếc nhanh Max, tự hỏi anh có chút nghi ngại nào với đám cưới khi nó đã gần kề hay không, nhưng cô không đọc được gì từ khuôn mặt anh. Dù đã trải qua biết bao nhiêu giờ đầy đam mê trong vòng tay anh, đôi khi cô vẫn cảm thấy như anh là một người lạ, một người lạ đẹp trai và khó hiểu luôn dành cho cô ham muốn của anh, nhưng không phải là ý nghĩ. Anh luôn niềm nở, quyến rũ, chu đáo nhưng lúc nào cô cũng cảm thấy như anh còn che giấu điều gì. Cô yêu anh sâu sắc nhưng vẫn phải giữ kín tình yêu đó, bởi dường như anh không muốn kiểu yêu hết mình đó từ phía cô. Anh muốn có sự bầu bạn, cơ thể cô bên dưới anh mỗi đêm, nhưng dường như anh không muốn cảm xúc của cô. Anh không đòi hỏi điều đó nên cũng không cho đi điều đó. Claire nhận ra đó mới chính là căn nguyên thực sự cho nỗi bất an của mình. Cô có thể đối mặt với cả một đội quân họ hàng dễ dàng nếu biết chắc tình cảm của Max. Tất cả những người ấy sẽ theo dõi cô, đánh giá cô y như tình huống cô từng gặp phải hồi cưới Jeff. Làm sao cô có thể hòa hợp với một gia đình như thế, với quá nhiều thành viên và sống cách xa nhau nhưng lại gắn bó khăng khít một cách kỳ lạ? Cô chưa bao giờ dễ dàng kết bạn và dường như cả gia đình anh đều là những người nồng nhiệt và hướng ngoại. Làm sao họ hiểu được khó khăn của cô trong việc nhiệt tình chào đón mọi người? Liệu họ có nghĩ cô lạnh lùng và không thân thiện không? Hai bàn tay Claire lạnh băng và cô phải siết chặt chúng với nhau hòng làm chúng ấm lên. Tín hiệu thắt dây an toàn đã bật sáng trên đầu họ và ngực Claire thắt lại khiến cô phải thở từng hơi ngắn và nông. Max không để ý thấy sự lo lắng của cô; anh đang mong đợi được gặp gia đình mình, sự háo hức khiến đôi mắt anh sáng như đá quý đặt trên một cái đầu tượng thần bằng vàng. ... Mời các bạn đón đọc Đừng Nói Mãi Mãi của tác giả Linda Howard.