Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ký Ức Lạc Ngân Hà

Editor: Tiểu Lục Đây là một tác phẩm ngôn tình được viết theo một phong cách hoàn toàn mới lạ sự kết hợp giữa ngôn tình lại khoác lên lớp áo khoa học viễn tưởng, nếm thử một lần. Sự kết hợp giữa một cô gái mang gen thuần chủng cùng với một chàng trai mang gen dị chủng. Tại ngã rẽ của tiến hóa, ai mới là quân cờ? Ai mới là kẻ đánh cắp cuộc sống của người khác? "Em yêu anh, là anh sao?" "Là tốt, là xấu; là thiện, là ác; là thực, là giả; là toàn bộ cộng lại chính là anh! em đều yêu, đều muốn có!" "Tôi yêu em, bằng tim, bằng máu, bằng cơ thể, bằng sinh mạng! Bằng im lặng, bằng nước mắt! Bằng duy nhất, bằng tận cùng! Bằng linh hồn phiêu bạt, bằng cái chết vĩnh hằng!" *** Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tôi muốn đi đâu? Có người nói, ba câu hỏi mà triết học sự sống cuối cùng đã tự đặt ra này, từ công nguyên thiên niên kỷ của địa cầu cổ xưa đến tinh vân thiên niên kỷ của thời đại hành tinh, vẫn chưa có đáp án. Nếu chỉ dựa trên ý nghĩa chính xác của câu chữ, thì một người bình thường vẫn có thể thoải mái trả lời được ba câu hỏi này, nhưng, đối với một người mặc áo tù nhân, đứng trước vành móng ngựa của tòa án, một tội phạm quân sự như tôi đây, thì không có cách nào trả lời. Bảy ngày trước, trong một bụi cây héo úa thưa thớt lá, tôi tỉnh lại. Tôi mặc một cái váy dài bẩn thỉu, đứng trên cánh đồng hoang vu, ngơ ngác nhìn ra xa, trong đầu trống rỗng, không nghĩ được điều gì. Tôi không biết mình là ai, không biết mình từ đâu đến, càng không biết mình muốn đi đâu. "Này ——" "Có ai không ——" Tôi cố gắng kêu to hết lần này đến lần khác, nhưng ngoại trừ tiếng gió xào xạc thổi qua lùm cây, thì không còn bất kỳ âm thanh nào, giống như trên thế giới này chỉ còn lại một mình tôi. Tôi chọn bừa một phương hướng, ngơ ngác lo sợ đi về phía trước, hy vọng có thể thấy ai đó. Nhưng tôi đi đúng ba ngày ba đêm, vẫn không gặp được một người. Tôi vừa mệt vừa đói, sợ hãi nối tiếp tuyệt vọng, đột nhiên, tôi nhìn thấy ở cách đó không xa, trên sườn núi có một cây táo, thân cây khô héo, cành lá úa vàng, nhưng lại trổ ra nhưng quả táo căng tròn. Tôi lảo đảo đi tới, hái táo xuống, ăn ngấu nghiến. Ăn được nửa quả táo, trên đầu bỗng nhiên truyền đến tiếng nổ rền vang. Theo tiếng nổ nhìn lại, tôi thấy một chiếc phi thuyền đang lơ lửng giữa không trung, có vài tên lính áo giáp vũ trang đầy đủ đang chĩa súng về phía tôi. Trong miệng đang cắn nửa quả táo, trên tay đang cầm một quả táo khác, tôi liền giơ tay lên. Bởi vì tội trộm gene di truyền, tôi bị nhốt vào tù. Nghe nói, cây táo kia là giống táo có nguồn gốc từ địa cầu cổ xưa, gien cực kỳ quý hiếm. Đế quốc Ar (A Nhĩ) đã cố ý mô phỏng môi trường sinh thái giống với địa cầu cổ xưa, biến vệ tinh G9737 thành nơi nghiên cứu gene di truyền, là trọng địa nghiên cứu khoa học của quốc gia, dĩ nhiên canh phòng cực kỳ nghiêm ngặt. Xét thấy "Tang chứng vật chứng rành rành", tôi chỉ có thể nhận tội. Nếu chỉ mang tội trộm gene di truyền, thì hình phạt đại khái chỉ hơn một trăm năm, so với tuổi thọ trung bình của con người lúc bấy giờ là 300 năm, thì cũng chưa được tính là hình phạt quá nghiêm trọng. Nhưng, tôi lại là người không có thân phận. Công dân Đế Quốc Ar khi vừa sinh ra sẽ được tầm soát gene di truyền, sau khi tầm soát mỗi người sẽ được cấp một mã số, mã số này được ghi trên một thẻ chip, thẻ chip này có thể gắn với da thịt, cũng có thể được cài đặt vào thiết bị điện tử cá nhân (0.1) luôn mang theo bên mình. Học tập, làm việc, sinh hoạt, thậm chí di dân sang hành tinh khác, đều phải có thẻ chip chứng minh thân phận này, trên người của tôi lại chẳng có thứ gì có thể chứng minh thân phận. (0.1) Thiết bị điện tử cá nhân (nguyên văn terminal): thiết bị đầu cuối, chức năng như một máy tính có thể làm bất cứ việc gì từ kết nối, cung cấp thông tin, liên lạc v.v..., mình tạm dịch như vậy để dễ hiểu. Toà án ra quyết định buộc tôi đi tầm soát gene di truyền, để tìm cho ra thân phận của tôi. Cuối cùng, máy tính quốc gia cho ra kết quả là: Không tìm thấy người này. Một kẻ không tồn tại ở đất nước Ar, lại đột nhiên xuất hiện bên trong khu vực cấm địa quân sự, chính là trung tâm nghiên cứu khoa học quan trọng của quốc gia, giải thích hợp lý là gì? Thân phận của tôi từ một người không biết là công dân của nước nào liền biến thành một gián điệp nguy hiểm dùng thủ đoạn bí mật lẻn vào cấm địa nghiên cứu. Tội danh trộm gene di truyền liền biến thành tội danh gây nguy hại an toàn quốc gia. "... Căn cứ vào tội trạng, bổn tòa tuyên án, đối với tội đột nhập vào khu căn cứ bí mật quốc gia G9737 của người nữ vô danh này sẽ chấp hành theo hình phạt thứ 777, không kích động tâm lý sợ hãi, không khiến phát sinh bệnh lý, kết thúc sự sống đặc thù..." Tôi phản ứng trong chớp mắt, mới hiểu được kết quả của bản tuyên án, chính là "Tử hình êm ái". Dựa vào sự thật trước mắt, đây rõ ràng là vụ xét xử nhân đạo, đầy tính công bằng và hợp lý, nhưng một kẻ sắp bị đưa đi tử hình như tôi, lại cảm thấy vô cùng oan ức. —————— Quản ngục áp giải tôi đến một căn phòng, không phải là nhà tù tôi đã ngồi mấy ngày nay. Căn phòng có màu vàng nhạt, bốn phía đặt mấy chậu cây xanh, chính giữa là một cái bàn ăn nhỏ, trên bàn bày biện nhiều loại thức ăn nóng hổi, trông cực kỳ ấm áp. Một người đàn ông cao ráo mặc bộ y phục quân y màu trắng, lịch sự đưa tay, tỏ ý mời: "Xin chào, tôi là Bác sĩ Mục (Dr Mu), đây là bữa tối chuẩn bị cho cô, hy vọng cô thích." Tôi không nói tiếng nào, vội ngồi vào bàn, vùi đầu cố sức ăn. Nhạt nhẽo vô vị, tôi căn bản không biết được mùi vị của thức ăn. Nghĩ đến mười mấy tiếng nữa, mình phải chịu hình phạt "Tử hình êm ái", mà hiện tại ngay cả bản thân là ai cũng không biết, tôi không khỏi cảm thấy uất ức, hai hàng nước mắt không kiềm được tuôn rơi. Bác sĩ Mục đi đến, ngồi xuống phía đối diện với tôi. Trong lòng quá mức khó chịu, tôi nhịn không được nói hết ra: "Tôi thật tình là vì quá đói, chỉ muốn ăn hai quả táo, vốn không biết nó quý hiếm như vậy." "Cô biết đó là cây táo, mà không biết nó quý hiếm sao?" Bác sĩ Mục nhếch miệng mang ý cười giễu cợt. Tôi lau nước mắt, không biết phải trả lời thế nào. Suốt mấy ngày xét xử, tôi mới biết quả táo tôi đã ăn vốn không có bán trên thị trường, hiện tại chỉ có loại táo nhân tạo, mà cây của nó có hình dạng khác hoàn toàn với cây táo cổ. Theo ý nghĩa nào đó mà nói, loại táo tôi ăn trộm là một loại sinh vật cổ, nếu không phải là người nghiên cứu cổ sinh vật học thì căn bản không có khả năng nhận biết. Bác sĩ Mục nghiêng người về phía trước, ánh mắc sáng quắc nhìn tôi chằm chằm, "Cô là ai, làm sao có thể lẻn được vào khu căn cứ, mục đích là gì, tôi không quan tâm, tôi đến là muốn cùng cô làm một cuộc trao đổi." Tôi hoang mang hỏi: "Anh là ai?" Hắn mỉm cười, chậm rãi nói: "Bác sĩ Mục, phụ trách nhiệm vụ tử hình cô, bảo đảm toàn bộ quá trình không gây kích thích tâm lý sợ hãi, hay phát sinh bất kỳ bệnh lý nào cho cô." Tôi không khỏi rùng mình một cái, hỏi: "Trao đổi thế nào?" "Tôi giữ mạng cho cô, cô thay bạn gái tôi lấy vị hôn phu của cô ấy." Vị hôn phu của bạn gái hắn, không phải là hắn hay sao? Hắn muốn tôi lấy hắn? Tôi khiếp sợ nhìn Bác sĩ Mục, Bác sĩ Mục khó chịu khẽ nhíu mày. Tôi liền phản ứng kịp, vị hôn phu cũng chưa chắc là bạn trai! Đây không phải là tiết mục điển hình "Bạn gái đã kết hôn, nhưng tân lang không phải là tôi" (0.2) hay sao? (0.2) Một bài hát. "Được! Tôi đồng ý!" từ chỗ chết có được hy vọng, tôi rất sợ hắn đổi ý, nên đồng ý ngay. Bác sĩ Mục nói: "Cô không cần biết một chút gì đó rồi mới quyết định à?" Tôi khổ sở nói: "Tôi có lựa chọn sao? Một bên là đi chết, một bên chỉ là lập gia đình, mặc kệ kẻ tôi sắp lấy là cực kỳ xấu xí, hay vô cùng tàn bạo, ít ra tôi có thể giữ được mạng sống." Bác sĩ Mục phong độ đứng lên, đưa tay. Tôi lễ phép cầm tay hắn, bắt tay, "Hợp tác vui vẻ!" Vừa muốn rút tay lại, Bác sĩ Mục đã dùng lực nắm chặt tay tôi. "Nếu cô dám lừa tôi, tôi sẽ khiến cho cô chết không phải là êm ái nữa." Hắn ánh mắt sắc bén, ngữ khí đe dọa, gần như bóp gãy bàn tay tôi. Tôi cố chịu đau, nỗ lực tỏ thái độ chân thành nhất có thể nhìn hắn, "Cái gọi là hợp tác vui vẻ chính là anh tuân thủ luật chơi, tôi cũng sẽ tuân thủ luật chơi." Bác sĩ Mục sắc mặt hòa nhã trở lại, nhẹ nhàng cầm tay tôi, nói: "Hợp tác vui vẻ!" —————— Sau khi cả đêm đọc xong tài liệu của Bác sĩ Mục để lại, rốt cuộc tôi cũng hiểu rõ tình thế mình sắp phải đối mặt. Bạn gái của Bác sĩ Mục tên Lạc Lan (Lorrain), nàng là công chúa của hoàng thất Anh Tiên (Perseus) thuộc đế quốc Ar. Mấy tháng trước, trong cuộc chiến tranh giành nguồn năng lượng giữa các hành tinh, đế quốc Ar bị bại trận dưới tay liên bang Odin (Áo Đinh), nên đề nghị ngừng chiến. Liên bang Odin đồng ý ngừng chiến, đồng thời cũng đồng ý nhường một hành tinh giàu năng lượng cho đế quốc Ar, với điều kiện Ar phải gả công chúa cho một trong những công tước của liên bang Odin. Đế quốc Ar đã không còn khả năng tái chiến, chỉ có thể chấp nhận "đề nghị hợp lý" chính là "Liên bang và đế quốc hảo hữu trong thời gian tới." Liên bang Odin do bảy khu tự trị cùng với khu hành chính trung ương lập thành nước cộng hòa liên bang, tuy lịch sử kiến quốc chưa được bao lâu, nhưng cũng có uy danh hiển hách về sức mạnh quân đội, kết duyên với đế quốc Ar có bề dày lịch sử lâu đời, cũng coi như là môn đăng hộ đối. Thế nhưng, trong dải ngân hà này, liên bang Odin tồn tại rất đặc thù, toàn bộ ngân hà không ai dám tin tưởng cuộc kết duyên này thật sự là vì "Liên bang và đế quốc hữu hảo trong thời gian tới." Loài người trên địa cầu cổ xưa thời bấy giờ đã nghiên cứu được gene di truyền, sớm đã tạo ra được các loài thực vật mang gene tạp giao, có thể thu hoạch được sản lượng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn. Dần dần, nghiên cứu gene thực vật bắt đầu chuyển sang động vật, thậm chí cả con người, nhưng do đụng phải vấn đề về pháp luật và đạo đức, nên việc nghiên cứu cực kỳ hạn chế. Theo thời gian, môi trường sống của địa cầu càng chuyển biến xấu, nguồn năng lượng cạn kiệt, loài người không thể không di cư đến các hành tinh khác. Trong thời khắc sinh tử tồn vong, nghiên cứu gene di truyền được tạo cơ hội mở rộng phạm vi, loài người có thể có được khí lực cường tráng hơn, sức khỏe dồi dào hơn, cơ hội sinh tồn nhiều hơn, gene của bản thân coi như đã được cải tạo triệt để. Ở thời đại địa cầu cổ xưa, phổ biến nhất là trang điểm làm đẹp; còn ở thời đại các hành tinh này, phổ biến nhất chính là cải tạo gene di truyền. Loài người lúc mới bắt đầu có chút nửa tin nửa ngờ nhưng càng về sau càng chấp nhận rộng rãi, các loại cơ cấu tu sửa gene cũng nhân cơ hội đó mà sinh sôi, khuyến khích mọi người chỉnh sửa gene từ lúc vừa sinh ra, có thể có được khuôn mặt đẹp, sức khỏe tốt, năng lượng dồi dào, thậm chí sống thọ hơn. Theo thời gian thoi đưa, các loại gene tu sửa giao tạp trộn lẫn, đời đầu sinh ra đời sau, đời sau sinh ra đời sau nữa, vấn đề tiềm tàng bên trong gene dần dần hiện rõ, loài người phát hiện gene được chỉnh sửa càng tăng cơ hội sinh tồn bao nhiêu, thì song song đó cũng sẽ càng mang lại sự hủy hoại bấy nhiêu —— tính ổn định của gene trở nên kém hơn, một người thân thể cường tráng, khỏe mạnh, không bệnh không đau đột nhiên bởi vì gene hỗn tạp mà sinh bệnh kỳ lạ; tỷ lệ giới tính giảm sút, sinh sản đời sau càng trở nên khó khăn. Loài người bắt đầu hoài niệm gene tự nhiên thuần khiết xưa kia, nên chính phủ các tinh quốc bắt đầu tiết chế nghiêm khắc, ban hành pháp lệnh, cấm giải phẫu chỉnh sửa gene di truyền. Bởi vì đã dung hợp những loại gene khác thường nên có những người có được những sức mạnh dị thường, bọn họ bị gọi là "Người mang gien dị chủng", và ngày càng bị kỳ thị nghiêm trọng. Nhất là những tộc người có hình dáng bên ngoài khác với người bình thường, bị khinh miệt là "Dị chủng", bọn họ căn bản không được loài người đối xử tốt, chỉ có thể được làm những công việc nguy hiểm nhất, hèn hạ nhất. Hơn 600 năm trước, một nhóm người không thể chịu được cái gọi là "Dị chủng", nên đã đứng lên phản kháng, bọn họ tuyên bố độc lập, thành lập chính phủ và quân đội của riêng mình, đó chính là khu hành chính trung ương liên bang Odin. Sau này, cuộc chiến phản kháng giữa các hành tinh trở thành xu thế, hơn 200 năm chiến tranh hỗn loạn, lại có thêm bảy đội quân dị chủng lớn nữa ra đời. Bởi vì đều là "dị chủng", lợi ích căn bản như nhau, nên khu hành chính liên bang đệ nhất đảm nhận chấp chính, cử ra một tuyệt thế kinh tài, gọi là Chấp Chính Quan, thủ lĩnh của bảy đội quân phản kháng tuyên thệ phục tùng chỉ huy thống nhất của Chấp Chính Quan, bảy khu tự trị cùng với khu hành chính trung ương tập hợp lại thành liên bang Odin, từ đó một đất nước "dị chủng" lớn mạnh ra đời. Trong hơn một trăm tinh quốc lớn nhỏ thuộc vũ trụ này, liên bang Odin thần bí, cường thế, không chỉ ảnh hưởng đến vận mệnh của toàn bộ các tinh quốc còn lại, mà còn ảnh hưởng tới thái độ đối đãi với các "Dị chủng", để bọn họ chí ít cũng duy trì được sự tôn trọng bên ngoài. Ngược lại, đế quốc Ar là một đất nước có bề dày lịch sử lâu đời, huyết mạch hoàng thất Anh Tiên bắt nguồn từ tộc người Đông phương trên địa cầu cổ xưa, trong giai đoạn thật dài khai thác các hành tinh, bởi vì bảo thủ và kiêu ngạo, nên bọn họ may mắn bảo tồn được gene di truyền thuần khiết. Bởi vì khan hiếm loại gene "thuần chủng tự nhiên, không ô nhiễm" này, nên toàn bộ các hành tinh đều hoan nghênh hôn phối với họ. Căn cứ vào phân tích của các chuyên gia thuộc đế quốc Ar, liên bang Odin "cầu hôn" với công chúa Ar, dĩ nhiên không phải là anh hùng muốn lấy mỹ nhân, mà hoàn toàn là vì gene của công chúa, bọn họ muốn thông qua nghiên cứu gene của công chúa để tu bổ lại gene của chính mình. Cho dù là gì, thì một phụ nữ người bình thường cũng không bao giờ muốn lấy "dị chủng", đừng nói chi đến chuyện phải làm vật thí nghiệm cho bọn quái nhân đó mổ xẻ, nhóm công chúa đế quốc Ar đã nghĩ hết mọi cách trốn tránh, có điều, công chúa Lạc Lan dịu dàng nết na kia chẳng may bị chọn trúng. Một công chúa bất hạnh nhưng lại quá may mắn chính là có được một người đàn ông tốt, nguyện vì nàng đánh đổi tất cả, bày mưu tính kế, giúp nàng thoát khỏi bất hạnh, mà tôi... cũng coi như có được chút phước đức của nàng! Dù gì đi nữa, thì làm một gốc cây táo được chăm sóc nghiên cứu, còn hơn là bị tử hình nhân đạo! —————— Sáng sớm, gác ngục đưa tôi đến phòng hành hình. Các bác sĩ mang khẩu trang bảo hộ, mặc y phục trắng, tất cả đã sẵn sàng, đang chờ đợi tôi. Tôi nhìn các loại dụng cụ hành hình bằng kim loại lạnh lẽo lóe sáng, trong lòng tràn ngập lo lắng sợ hãi. Dưới nhiều cặp mắt nhìn chăm chú như vậy, Bác sĩ Mục có cách cứu tôi sao? Gác ngục ra ý bảo tôi nằm lên giường hành hình. Cái chết ở ngay trước mắt, nhưng tôi còn nhiều thứ chưa hiểu rõ, cũng không thể cam lòng... Tôi cầu khẩn nhìn về phía Bác sĩ Mục, nằm xuống đây rồi, rốt cuộc là kết thúc, hay được tái sinh? Khẩu trang bảo hộ lạnh như băng che giấu khuôn mặt của hắn, cũng che đi nét mặt của hắn, thời khắc này, hắn giống như tử thần trong truyền thuyết gặt lấy sinh mạng của con người không chút lưu tình. "Nhờ cô phối hợp giúp, như vậy mọi người mới có thể hợp tác vui vẻ." Bác sĩ Mục nói còn cố tình nhấn mạnh bốn chữ "Hợp tác vui vẻ". Tôi từ từ trấn tĩnh lại, nằm thẳng người trên giường, nhìn chằm chằm lên nóc nhà có màu xanh da trời. Nghe nói, người sắp chết sẽ nhớ đến những chuyện của bản thân lúc còn sống, đối với tôi, trí nhớ của cả đời tôi chỉ vỏn vẹn có bảy ngày, trong lúc đang chờ đợi cái chết, trong đầu tôi vẫn vang lên tiếng chất vấn của quan tòa. "Cô là ai?" "Làm sao cô có thể lẻn vào được căn cứ G9737?" "Cô có đồng phạm không?" "..." Sau khi sau gáy có cảm giác đau giống như bị muỗi đốt, tôi hoàn toàn mất đi ý thức. ————·————·———— Mở mắt bừng tỉnh một lần nữa, tôi đã là công chúa Lạc Lan, đang ở trên phi thuyền đi đến liên bang Odin, Bác sĩ Mục là bác sĩ quân y theo hộ tống. Nghe nói, bởi vì công chúa Lạc Lan quá sợ hãi phải xuất giá, nàng đã dùng cách ấu trĩ nhất chính là tự hủy dung nhan của mình để phản kháng, hoàng đế Ar liền sai người đánh nàng ngất xỉu, sau đó trực tiếp đưa nàng lên phi thuyền. Dù sao đường đi vẫn còn xa, trước khi đến liên bang Odin, các bác sĩ sẽ chữa trị gương mặt cho nàng. Hiện tại, giải phẫu thẫm mỹ có thể làm cho tôi biến thành công chúa Lạc Lan một cách dễ dàng, nhưng Bác sĩ Mục không thích tôi và người yêu của hắn có cùng gương mặt, nên để tôi giữ lại gương mặt của mình. Bên ngoài thì tuyên bố Lạc Lan bởi vì quá đau khổ nên đã quyết tâm thay đổi khuôn mặt, phẫu thuật thẩm mỹ thành gương mặt giống như của tôi hiện giờ. Có thể thoải mái dùng gương mặt của mình giả mạo công chúa, tôi rất vui mừng. Dù sao, tôi cũng đã mất đi trí nhớ, mất luôn thân phận, bề ngoài này chính là cái duy nhất liên hệ với tôi của trước kia. "Công chúa Lạc Lan bây giờ ở đâu?" Tôi tò mò hỏi. Bác sĩ Mục nhìn tôi chằm chằm tỏ ý cảnh cáo, "Cô chính là công chúa Lạc Lan, còn chuyện... cô ấy là ai, không phải là vấn đề cô quan tâm." Tôi là công chúa Lạc Lan, tôi là công chúa Lạc Lan... Tôi im lặng tự thôi miên chính mình. Đột nhiên, tôi nghĩ đến một chuyện. Công chúa Lạc Lan có bộ gene tự nhiên thuần khiết hiếm gặp, tôi lại là người không rõ lai lịch, chỉ cần làm một cuộc kiểm tra gene đơn giản sẽ phát hiện ra ngay. Mọi người đều biết liên bang Odin bởi vì bộ gene của công chúa mới đi cầu hôn nàng, cho dù tôi có nghĩ ra tất cả biện pháp kéo dài thời gian, cũng không thể kéo dài được lâu. Tôi cẩn thận hỏi: "Liên bang Odin chính là muốn nghiên cứu bộ gene của công chúa, nếu bọn họ phát hiện tôi là kẻ giả mạo, sẽ xử lý tôi thế nào?" "Gene của cô là thuần chủng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của bọn họ." Bác sĩ Mục ánh mắt kỳ quái, dường như cũng thật buồn bực, "Chỉ cần cô không làm gì sai, sẽ không ai nghi ngờ, nếu bọn họ cố ý kiểm tra xem cô và hoàng thất có quan hệ huyết thống hay không, thì cô vĩnh viễn vẫn là công chúa Lạc Lan." Tôi khiếp sợ nhìn hắn, hoàn toàn không ngờ bộ gene của mình cũng là gene thuần chủng, vô cùng hiếm gặp. "Nhìn qua cô thật sự hoàn toàn chẳng có chút hiểu biết gì về mình." Bác sĩ Mục cười tự giễu, "Nếu không phải gene của cô đặc biệt, tôi làm sao mạo hiểm cứu cô?" Đúng vậy! Nếu không phải gene của tôi đặc biệt, Bác sĩ Mục căn bản không nhất định phải chọn tôi, với thủ đoạn của hắn. Muốn tìm một cô gái giả mạo công chúa dễ như trở bàn tay. Bác sĩ Mục nói: "Tôi đã giữ được mạng sống cho cô." Tôi trịnh trọng bước về phía hắn hành lễ, "Cám ơn anh, ân nhân cứu mạng, tôi sẽ thực hiện đúng lời hứa của mình." ————— Tôi mang tâm trạng không tốt, trốn suốt ở trong phòng, mỗi ngày chỉ đồng ý gặp bác sĩ Mục. Nhờ sự giúp đỡ của hắn, tôi bắt đầu học trở thành một công chúa. May mắn sao Lạc Lan là một công chúa có địa vị thấp. Lúc nàng bảy tuổi, cha nàng đã qua đời, mẹ nàng cũng mất do bệnh truyền nhiễm khi nàng mới trưởng thành, hoàng đế đương thời vốn là hoàng thúc của nàng nhưng đối với nàng không chút quan tâm, nàng cũng rất ít khi xuất đầu lộ diện, chỉ thích cuộc sống lặng lẽ làm bạn với sách, ngoại trừ những tỳ nữ thân cận hầu hạ nàng, thì người ngoài ấn tượng đối với nàng cũng mơ mơ hồ hồ. Bởi vì hành động kháng hôn quá ngây thơ của Lạc Lan, hoàng đế thúc thúc sợ nàng lại làm loạn gây xấu mặt, nên không cho các tỳ nữ thân cận cùng nàng lên phi thuyền, những người hộ tống hiện thời hoàn toàn là người xa lạ, căn bản không thật sự quan tâm tới nàng. Bác sĩ Mục nói: "Chỉ cần biểu hiện của cô không thái quá, sẽ không bị phát hiện. Cho dù có người để ý đến lời nói và hành động của cô không giống với trước kia, thì cũng có thể lấy cớ vì quá kích động, dẫn đến tính tình thay đổi, tạm thời che giấu." Tôi khiêm tốn lắng nghe, tỏ vẻ hiểu được. Một tháng sau, quá trình học của tôi được bác sĩ Mục chấp nhận, xem như thành công trở thành công chúa. Bác sĩ Mục không còn đốc thúc tôi học tập nữa, thời gian rảnh rỗi của tôi đột nhiên tăng lên. Tôi cảm thấy nên nhân cơ hội này suy nghĩ nghiêm túc việc làm thế nào để đối phó với vận mệnh tương lai, nhưng trí nhớ thì trống rỗng, cái gì cũng không nghĩ ra được. Trước mắt tôi hiện lên một màn hình ảo chứa các tư liệu của liên bang Odin, tôi vô thức vẽ lên vô số dấu "?" Mỗi người đều dựa vào trí nhớ và kinh nghiệm, mới có thể đưa ra được hướng đi cho tương lai —— Tìm kiếm những gì mình thích, trốn tránh những thứ mình ghét; đến gần ấm áp, xa rời tổn thương. Nhưng tôi là một người không có trí nhớ, cũng chẳng có tình cảm. Tôi không biết mình thích gì, cũng chẳng biết mình ghét gì; không biết mình yêu ai, cũng chẳng biết ai yêu mình. Một kẻ không có quá khứ, vậy làm sao lựa chọn con đường tương lai? Đang miên man suy nghĩ, đột nhiên có tiếng còi báo động vang lên, thuyền trưởng lập tức thông báo với mọi người: "Chúng ta bị hải tặc (0.3) tấn công, chuẩn bị chiến đấu! Các nhân viên không phụ trách chiến đấu lưu ý giữ bình tĩnh, ngồi đúng vị trí của mình bên trong khoan thuyền, đeo dây an toàn cẩn thận, đừng nên đi lại." (0.3) Nguyên Tinh tặc: là nhóm cướp chuyên cướp các phi thuyền đi lại trong vũ trụ, tương tự như hải tặc Hải tặc? Gặp chuyện không may sao? Tôi vừa suy nghĩ, vừa rất nhanh ngồi vào ghế, thắt đai an toàn thật cẩn thận. Phi thuyền vẫn đi tới vững vàng, không có một chút xóc nảy, xem ra chỉ là cuộc chiến đấu nhỏ. Một giờ sau, cửa khoang thuyền mở ra, tướng quân có quân hàm cao nhất trên phi thuyền Joseph (Ước Sắt) tướng quân đi đến, "Công chúa!" Tôi cởi bỏ đai an toàn, đứng lên, lễ phép chào hỏi: "Tướng quân." Tướng Joseph vẻ mặt nghiêm trang nói: "Hải tặc đã chạy thoát, nhưng bác sĩ Mục của đội chữa thương trong lúc đang cứu người, không may gặp nạn." "Những người khác thế nào?" "Những người khác đều an toàn." Sau khi Joseph tướng quân cúi chào hành lễ xong, liền vội vàng rời khỏi. Tôi đứng im lặng một lúc lâu. Bác sĩ Mục đã dẫn theo công chúa Lạc Lan rời khỏi đây, hắn biết rõ cho dù là ở đế quốc Ar hay là ở liên bang Odin, thì cũng có rất nhiều ánh mắt dòm ngó, địa điểm biến mất tốt nhất chính là con đường trung gian giữa hai bên, nơi cả hai đều có thế lực yếu. Từ nay về sau, vũ trụ lại có thêm một cặp đôi yêu đương ngọt ngào, mà tôi... Là Lạc Lan công chúa. Ánh mắt của tôi hướng ra ngoài cửa sổ. Trong biển vũ trụ này, có hàng nhìn hàng vạn ngôi sao đang lấp lánh. Tôi không biết tinh cầu nào mình đã đi qua, cũng không biết tinh cầu nào mình sẽ đi tới. Nhưng, một ngày kia, tôi hy vọng mình có thể giống như công chúa và bác sĩ Mục, cho dù là biển vũ trụ bao la, cho dù là hàng nghìn hàng vạn sao trời, vẫn có thể biết được rõ hướng đi của mình. Mời các bạn đón đọc Ký Ức Lạc Ngân Hà của tác giả Đồng Hoa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng - Ngô An Kha
Tiểu thuyết "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" của Ngô An Kha sẽ đưa bạn đến với cuộc phiêu lưu của những người trẻ, tới một hành tinh mới lạ, hành trình đi tìm bản ngã hay ước mơ cuộc đời. Câu chuyện kể về hành trình đi tìm thế giới khao khát của 3 nhân vật: L, R, F. Ba người trẻ trong câu chuyện đều cảm thấy buồn chán, cô đơn, mất phương hướng trong cuộc sống. Họ có ước mơ nhưng đều gặp rắc rối với ước mơ của mình. Người có ước mơ nhưng bị xã hội cản trở, người mất dần ước mơ, người lại dang dở với quá nhiều mơ ước. Và họ đã cùng nhau đi tìm thế giới khao khát - một thế giới không có sự hiện diện của nỗi đau. Đó cũng là hành trình đi tìm giá trị bản thân mỗi người và trả lời cho câu hỏi “Chúng ta sống trên đời này để làm gì?”. Với không gian truyện hiện đại, lạ lẫm, cách xây dựng tình huống phong phú, với bối cảnh là nhiều địa danh nổi tiếng thế giới như Roma, Paris và Barcelona, "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" sẽ dẫn dắt chúng ta đến với những mảnh đất mới, khám phá văn hóa, con người cùng vô vàn điều mới lạ. Tác phẩm mang đến cho độc giả những phương châm và bài học sâu sắc trong tình yêu và cuộc sống. Khi đấu tranh giữa những ước mơ, khó khăn của cuộc đời, con người thường tìm về thế giới không có thực để trốn thoát. Nhưng nỗi thống khổ của con người là không thể tránh khỏi, có tối tăm mới có ánh sáng. Tối tăm sẽ dẫn đường, làm nền tảng của ánh sáng. Câu chuyện còn mang đến bài học về tình yêu mà ở đó, sự chân thành và thấu hiểu luôn chiến thắng. Ngoài ra, bằng các yếu tố khoa học, tác giả muốn ngợi ca những phát minh vĩ đại của loài người, đồng thời lên tiếng về hệ lụy của chúng đối với môi trường sống mà chúng ta đang rất cần bảo tồn, cải thiện. "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" tạo cảm hứng cho các bạn trẻ đang loay hoay đi tìm bản ngã, mục đích sống thêm động lực để trưởng thành và biết cách để vượt qua nỗi cô đơn. Quá trình đi tìm thế giới trong mơ của những người trẻ trong câu chuyện cũng là hành trình đi tìm lại vẻ đẹp tâm hồn và niềm tin yêu cuộc sống. *** Roma, 4 giờ 30 chiều. L ngước nhìn lên. Lỗ hổng trên trần nhà mở to. Trần nhà hóa thành trời xanh xanh ngắt, những đám mây trắng tinh bồng bềnh trôi. L đưa tay ra, chới với, anh muốn chạm vào một đám mây. Mọi chuyển động của L lúc này chậm rãi, chậm rãi. Những đám mây xa L quá, anh đưa tay với mãi, với mãi nhưng chẳng thể nào chạm đến được. L thu tay về, mười ngón tay dài đặt trên vầng trán cao, vuốt xuống đôi mắt lúc này đã nhắm nghiền, từ từ rà dọc cánh mũi, rồi qua miệng, đến lúc cả hai bàn tay đều yên vị trên ngực trái - nơi con tim anh vẫn uể oải, chầm chậm đập những nhịp không thành tiếng. Bỗng chốc, hình xăm bàn tay của Chúa và Adam trên lưng anh bật dậy, nổi lên thành hình thành khối, bay lơ lửng giữa không trung, bay lên miền mây trời vừa trắng vừa xanh trên cao kia. Anh vẫn chưa biết đây là mơ hay thực. Anh đang ở thế giới nào? Liệu đây đã phải là hành tinh Dương Vô Cùng chưa? L trở mình thức dậy giữa căn phòng tối, cửa sổ mở toang. Cứ vài phút, ô tô chạy qua hắt ánh đèn vàng lên bức tường đối diện mà mắt anh đang dán vào, giờ đây đó là thứ ánh sáng duy nhất. L đã ngủ được gần bốn tiếng, có lẽ đó là bốn tiếng dài nhất cuộc đời anh. Chợt nhận ra đã cận kề với việc muộn giờ diễn, L bật dậy như sóc, nhanh chóng mặc quần áo. Anh diện quần jeans cùng chiếc áo phông cổ tròn cỡ rộng quen thuộc, tất cả đều màu đen. Từ trước đến giờ, L hiếm khi mặc màu nào khác ngoài màu đen. L vội vã chải những sóng tóc dài buông xõa quá vai với chiếc lược bằng chính bàn tay gầy guộc của mình. Thế là xong, anh chỉ cần nhặt chiếc áo khoác da biker đen lên, và mang cây đàn guitar cùng màu trên vai là rời khỏi nhà được rồi. Quãng đường đến quán bar L thường đàn hát cách căn xép nhỏ anh ở trọ tầm hai bến tàu, nhưng L thích đi bộ. Anh bước trên những con đường đá của Roma đến nát cả đôi bốt cao bằng mắt cá chân. Ánh đèn vàng sáng lòa của khối nhà cao trung trung, của ô tô, của xe Vespa hắt lên lưng L, để lộ hình xăm bàn tay của Chúa và Adam hững hờ sau chiếc áo đen cổ rộng anh đang mặc. Tempo là một quán bar không lớn nhưng cũng không nhỏ nằm trong một con hẻm tại thủ đô nước Ý, mà phải rồi, những quán bar kèm không gian chơi nhạc như thế có bao giờ lớn đâu chứ. L chơi nhạc ở đây cũng đã được hơn năm năm rồi. Những ca khúc indie pop của anh kén người nghe đến oải. Dẫu rằng đó là thứ âm nhạc tuyệt đẹp, trong trẻo, khát khao và đầy đam mê. Khi L cất tiếng hát, giọng anh sang sảng, những quãng ngân dài sâu hun hút, tưởng chừng như bất tận. Nỗi niềm tự sự vang lên, thủ thỉ kể từng câu chuyện nhỏ. L không giấu giếm điều gì, khi anh hát, anh bộc bạch hết lòng mình. Anh hát với cả con tim, lòng nhiệt thành và đam mê cháy bỏng. Trái với những ca khúc đậm chất trữ tình, nội tâm mà anh sáng tác từ năm mười mấy tuổi, L là một chàng trai vui vẻ, hoạt bát, ở ngoài nói nhiều hơn nghĩ, và nghĩ nhanh hơn nói. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng của tác giả Ngô An Kha.
Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên - Ma Văn Kháng
Mười chín tuổi, thầy Quang Tình người miền xuôi xung phong lên dạy học ở một tỉnh miền núi. Ra đi như “cờ bay trong gió, như lửa thốc trong lò”, người thanh niên nọ đã đem hết niềm say mê lý tưởng, cuộc đời để làm công việc mang đến ánh sáng văn hóa cho con em các dân tộc. Sau một thời gian dạy học ở các làng bản, do đã tích lũy được nhiều kinh nghiêm và có uy tín trong nghề nghiệp, thầy Quang Tình được điều về dạy học ở trường Bổ túc Văn hóa Công Nông, nơi chuyên dạy văn hóa cho các cán bộ xã cơ sở nông thôn miền núi của tỉnh. Đứng đầu cơ sở giáo dục này là một người thô bạo, có thiên kiến nặng nề với những ai xuất thân từ các tầng lớp khác không phải là công nông. Giữa hai người bất đồng nối tiếp bất đồng, và kết quả là thầy Quang Tình bị sa thải, phải ra khỏi ngành. Vợ thầy cũng bị liên lụy. Ra khỏi ngành, nghề nghiệp không, tiền bạc không, đất đai không, lại vợ dại con thơ, sống thế nào đây? Thầy Quang Tình, sẵn ý chí bất khuất, bắt tay vào công cuộc mưu sinh vô cùng gian khó. Sau một thời gian phải làm cả những công việc nguy hiểm và bẩn thỉu, thầy quyết định học nghề mộc. Sẵn ý chí không chịu thua hoàn cảnh và tố chất khéo léo, cùng với lòng kiên trì, ham học hỏi, lần lần thầy đã nắm vững được kỹ thuật nghề mộc, vượt qua được tình trạng bị dồn vào bước đường cùng, nuôi được vợ con. Tuy nhiên quan trọng ở đây là thầy đã tìm ra con người mình. Tìm ra ở chính cái cuộc sống mà thầy đã rơi xuống. Sau những gì qua đi, còn lại là cốt cách thanh tao, nhân cách cao cả của thầy. Tiểu thuyết  không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cuộc sống với những mảng màu sắc thái khác nhau, sinh động và hấp dẫn, mà còn phát ngôn một thái độ, một triết học nhân sinh, một quan niệm thẩm mỹ về cuộc đời, con người. Sự trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời cũng như khả năng quan sát thấu đáo của Ma Văn Kháng đã làm nên những trang văn tỉ mỉ, tinh tế, công phu. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên của tác giả Ma Văn Kháng.
Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe - Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường. Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ. Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos). Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề... Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời. Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v... Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi. Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo). Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay. Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao. Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công. Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây. Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta. Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi. Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt. Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh. Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay. Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.* Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi. Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa. Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ. Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe của tác giả Ma Văn Kháng.
Cháu ông Rameau - Denis Diderot
Cháu ông Rameau bắt đầu được sáng tác vào khoảng 1761, nhưng mãi đến 1779 mới hoàn thành, là một thể nghiệm táo bạo của Diderot tiếp tục tìm tòi nội dung và hình thức mới của tiểu thuyết. Đó là “kiệt tác duy nhất” theo chữ dùng của Marx (1818-1883), và là “kiệt tác về mặt biện chứng” theo đánh giá của Engels (1820-1895). Cháu ông Rameau là một người có thật, tên là Jean-François Rameau, cháu gọi nhạc sĩ nổi tiếng Jean-Philippe Rameau (1683-1764) là bác ruột. J-F. Rameau kém Diderot vài tuổi. Hắn vốn là một gã đê tiện, sống cuộc đời ăn bám bằng cách nịnh hót hoặc làm trò hề mua vui cho những kẻ có tiền bạc và đến năm 1771 thì chết trong một nhà tế bần dành cho những kẻ vô gia cư. Tiểu thuyết viết theo hình thức đối thoại giữa “Tôi” và “Hắn” trong tiệm giải khát La Régence ở gần Hoàng-Cung, vào một buổi chiều, bên cạnh những người đang chơi cờ. Nếu như đối thoại choán gần hết từ đầu đến cuối trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, chỉ mãi đến khi gần kết thúc mớỉ xuất hiện vai trò của người kể chuyện, thì ở Cháu ông Rameau, người kể chuyện xuất hiện nhiều hơn. Tác phẩm mở đầu bằng lời của người kể chuyện: “Dù đẹp trời hay thời tiết xấu, tôi có thói quen cứ đến năm giờ chiều đi dạo ở Hoàng-Cung. Thiên hạ luôn thấy tôi chỉ ngồi một mình, mơ mộng trên chiếc ghế dài ở Àrgenson[9]. Tôi trò chuyện với bản thân tôi về chính trị, về tình yêu, về thị hiếu và về triết học. Tôi mặc cho đầu óc tôi tha hồ bông lông...” Tiếp đó câu chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” hơn hai chục lần bị ngắt quãng bởỉ lời của người kể chuyện, đó thường là những đoạn ngắn với lối văn tự sự, kể chuyện ở ngôi thứ ba. Khác với mối quan hệ giữa người kể chuyện và “Người trò chuyện thứ nhất” trong Ý kiến ngược đời về diễn viên, ở tiểu thuyết này, người kể chuyện và “Tôi” có thể xem là đồng nhất. Có nhiều dấu hiệu gắn bó hai nhân vật ấy[10] với chính tác giả, chẳng hạn trong khi trò chuyện, “Hắn” thường xưng hô với “Tôi” là thưa ông triết gia... và nhiều chi tiết khác ám chỉ đến quá khứ nghèo khổ của Diderot. Nhưng dẫu sao, trong khuôn khổ của tiểu thuyết, không thể và không nên quá nhấn mạnh vào sự trùng khớp này. Trong cuộc trò chuyện ở Ý kiến ngược đời về diễn viên, “Người trò chuyện thứ hai” thường nói ngắn, dường như chỉ đóng vai trò đưa đẩy cho “Người trò chuyện thứ nhất” mà thôi. Đến Cháu ông Rameau, lời nói chủ yếu thuộc về “Hắn”. Triết gia chủ yếu là gợi mở để cho “Hắn” nói, hoặc khi thấy những quan niệm của hắn vô liêm sỉ quá, bắt buộc phải nói dài để phản đối. Vì vậy, hầu như từ đầu đến cuối, ta chỉ nghe vang lên tiếng nói của Rameau trình bày với triết gia về cuộc sống đê tiện của hắn, cùng với những ý nghĩ, những quan niệm của hắn về xã hội và thế thái nhân tình. Có tài liệu cho rằng cuộc trò chuyện giữa tác giả và cháu ông Rameau (gọi tắt là Rameau) là có thật, nên có thể đồng nhất “Tôi” với Diderot và “Hắn” với Jean-François. Ý kiến ấy không thỏa đáng. Một tác phẩm viết trong gần hai mươi năm mới xong chắc chắn không phải chỉ là một cuốn kí sự đơn thuần, một tập biên bản ghi lại trung thực sự việc xảy ra. “Hắn” có nhiều khả năng không hoàn toàn là Jean-François, cũng như “Tôi” là triết gia, nhưng không nhất thiết là triết gia Diderot. Tác giả chắc đã nhìn thấy trong số phận Rameau những nét đặc biệt của thời đại ông và từ nguyên mẫu đó xây dựng nên một nhân vật có tính khái quát xã hội. Lại có ý kiến cho rằng anh chàng ăn bám Rameau sống một thời gian quanh quẩn gần Hoàng-Cung, nên Diderot thỉnh thoảng gặp hắn ta, nhưng không hề diễn ra cuộc trò chuyện giữa hai người trong tiệm giải khát La Régence. Đây chỉ là tác phẩm hoàn toàn hư cấu. Đoạn mở đầu tác phẩm đã dẫn ra trên kia đặc biệt có ý nghĩa. Người kể chuyện có thói quen dạo chơi một mình, mơ mộng một mình và trò chuyện cũng với chính bản thân mình chiều chiều ở Hoàng-Cung. Vậy “Tôi” và “Hắn” ở đây cũng chỉ là hiện tượng lưỡng hóa nghệ thuật như biện pháp lưỡng hóa được sử dụng trong Ý kiến ngược đời về diễn viên mà thôi. Thực chất của những “đối thoại” này là “độc thoại”, hay đúng hơn là “độc thoại nội tâm” phơi bày lên trang giấy những suy tư trăn trở miên man của bản thân, mong đi tới chân lí. Jean-Marie Goulemot so sánh chức năng của đối thoại ở đây với phép đỡ đẻ (maieutique), hiểu theo nghĩa phương pháp gợi hỏi của Socrate (470-399 TCN) nhằm hướng dẫn tìm ra chân lí còn đang thai nghén tiềm tàng ngay trong bản thân Diderot. Rameau, nhân vật chính của tiểu thuyết này, có thể nói hoàn toàn có thật mà cũng hoàn toàn hư cấu. Hắn có thể nhận ra chân dung của mình qua những dòng sau đây: “Chẳng có gì khác với hắn hơn là chính bản thân hắn. Đôi khi, hắn gầy gò và xanh xao như một người ốm sức tàn lực kiệt; ta như đếm được qua hai bên má những chiếc răng của hắn. Ta tưởng đâu hắn đã nhiều ngày chẳng ăn uống gì, hoặc là hắn vừa ra khỏi tu viện dòng Trappe. Đến tháng sau hắn lại béo mập và đẫy đà như thể hắn chưa từng rời bàn ăn của một nhà tài chính, hoặc là hắn bị lưu giữ trong một tu viện dòng thánh Bernard. Hôm nay ăn mặc bẩn thỉu, quần áo rách bươm, vá chằng vá đụp, hầu như giày dép chẳng có, hắn cúi gầm mặt xuống mà đi, lén la lén lút, khiến người ta như chỉ muốn gọi hắn để bố thí cho hắn. Hôm sau, đầu tóc chải chuốt, áo quần giày dép tinh tươm, hắn ngẩng cao đầu bước đi, vênh vang, và bạn có lẽ tưởng đâu hắn là một bậc hào hoa phong nhã...” Nhưng Jean-Marie Goulemot cũng hoàn toàn có lí khi nhận định rằng những dòng miêu tả Rameau trên đây, để cho hắn thay đổi dáng vẻ tuỳ ngày, tuỳ mùa... chính lại là một cách phủ nhận hoàn toàn sự có thực của nhân vật này[11]. Rameau là một nhân vật tiểu thuyết. Xét về mặt hình thức, cuộc trò chuyện giữa “Tôi” và “Hắn” có vẻ giống như bất cứ cuộc trò chuyện nào thuộc loại ấy, nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, chẳng đi theo một trình tự ấn định trước. J-M. Goulemot lưu ý chi tiết phụ đề của tác phẩm này là “truyện châm biếm” - satire - bắt nguồn từ chữ latin “satura” có nghĩa là món hổ lốn, mớ hổ lốn, tập tạp văn. Nhưng đằng sau cái vẻ ngoài linh tinh, Goethe nhận định “câu chuyện đối thoại này thật ra có mạch lạc tài tình; người nào tưởng rằng cuộc đối thoại ấy rời rạc lỏng lẻo như một cuộc trò chuyện thường thì thật là lầm; nó chỉ giống cuộc trò chuyện thường ở chỗ linh hoạt mà thôi”[12]. Theo Michel Launay, câu chuyện lần lượt xoay quanh bốn chủ điểm. Thoạt tiên là “Nhận xét về con người và tính cách”. Tiếp đến là “Đạo đức”, chứa đựng những suy nghĩ về các khái niệm lương thiện và bất lương, thiện và ác và về việc giáo dục con cái. Thứ ba là “Triết học” với những suy nghĩ về lí lẽ của các hiện tượng, về bản chất của các sự vật. Cuối cùng là “Thị hiếu” bàn luận về mĩ học, về thiên tài, về âm nhạc, về sáng tác văn học[13]. Rameau vốn là người có sức khoẻ, thông minh và chẳng phải không yêu đời, tuy cuộc sống của hắn có nhiều điều bất hạnh. Hắn có những khả năng đặc biệt, rất yêu âm nhạc và rõ ràng có thể trở thành một nhạc sĩ khá. Nhưng Rameau chọn cái nghề dễ dàng nhất, cũng khó khăn nhất vì nó đòi hỏi phải có trí thông minh, phải lanh lẹn tháo vát, đó là nghề ăn bám. Hắn phủ nhận tất cả những cái gì tốt đẹp ở trên đời và chỉ công nhận một nguyên tắc sống là thoả mãn những bản năng đê hèn, tuy hắn biết như thế là bỉ ổi. Rameau là sản phẩm của xã hội phong kiến Pháp đang đi đến chỗ tan rã. Chính xã hội đã phơi bày ra trước mắt hắn cuộc sống mà bao nhiêu kẻ tai to mặt lớn lại là những kẻ không có đạo đức; trong xã hội ấy, “thiên hạ ca ngợi đức hạnh, nhưng thiên hạ ghét nó, nhưng thiên hạ trốn tránh nó, nhưng nó lạnh cóng, mà trong thế gian này lại cần phải có đôi bàn chân ấm nóng”; trong xã hội ấy, chính những kẻ quyền quý đã dạy cho hắn lòng căm ghét những người lương thiện như lập luận của vị thượng thư kia khi chứng minh rằng “đối với nhân dân không có gì ích lợi bằng sự dối trá và không có gì hại bằng sự thật thà”. Trong sự phủ định triệt để của Rameau, tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại chứa đựng không ít sự thật của thời đại, vì thế vẫn toát lên ý nghĩa phê phán tích cực. Rameau không ngần ngại nói toạc ra rằng ở đời “khi người ta đã giàu có thì người ta muốn làm gì mặc lòng, không bao giờ bị nhục nhã cả”, và còn vô liêm sỉ hơn, nhưng chẳng phải là không sâu sắc: hắn tuyên bố con tôi sẽ phải giàu có... “Cháu sẽ có vàng, tôi xin nói với ông như vậy. Nếu cháu có nhiều vàng, thì cháu sẽ chẳng thiếu gì hết, kể cả lòng tôn trọng và sự kính nể của ông”. Tác giả viết: “Rameau là một người đáng ghét không hơn không kém những kẻ khác, chỉ có điều hắn thẳng thắn hơn, nhất quán hơn và đôi khi sâu sắc hơn trong sự hư hỏng của mình”. Rameau không đơn thuần là sản phẩm thụ động của xã hội. Hắn còn vượt lên trên xã hội, quan sát nó bằng con mắt có ý thức và trí thông minh sẵn có. Hắn mò mẫm tìm ra nguyên nhân của những bất công trong xã hội: “Sự sắp đặt quỷ quái gì mà có những kẻ ngốn đầy ứ đủ thứ, trong khi những người khác có cái dạ dày quấy nhiễu như họ, có cái đói tái phát như họ, mà lại chẳng có gì để đút vào miệng”. Hắn hiểu rằng “trong thiên nhiên có các loài vật xâu xé nhau, trong xã hội có các giai cấp xâu xé nhau”. Nhưng Rameau lại rút ra kết luận muốn trở thành “một tên kẻ cướp sung sướng giữa những tên kẻ cướp giàu có”, vì hắn lí luận rằng “người ta phỉ nhổ một kẻ lưu manh tầm thường, nhưng không thể không cảm phục một tên đại gian đại ác”. Rameau chính là hình ảnh lớp người đang vật lộn trong xã hội lúc bấy giờ để tự khẳng định, nhưng cuộc đấu tranh của họ không vượt ra ngoài khuôn khổ của chủ nghĩa cá nhân do đó rơi vào bế tắc. Có ý kiến cho rằng trong cuộc trò chuyện này, Rameau hoàn toàn nắm quyền chủ động. Những lập luận của hắn tuy hết sức bỉ ổi, nhưng lại có sức lôi cuốn ghê gớm ngay cả đối với người đang ngồi trò chuyện với hắn và thỉnh thoảng lên tiếng phản đối. Dường như “Tôi” chỉ phản ứng lấy lệ, chứ trong thâm tâm thầm cảm phục “Hắn”. Có ý kiến lại cho rằng Rameau chỉ có vẻ thắng thế trong phần thứ hai trên bình diện lí thuyết, nhưng sang đến phần sau, triết gia dễ dàng chứng minh cho hắn thấy rằng mọi lí thuyết của hắn chẳng có giá trị gì trong thực tiễn, mà chỉ đưa đến những thất bại và những thái độ mâu thuẫn. Dù sao cũng phải thừa nhận có sự bắt gặp, thông cảm đến một mức độ nào đấy giữa triết gia và Rameau. Điều này cũng dễ hiểu khi ta biết rằng có thể xem “Tôi” và “Hắn” là hai mặt của chính tác giả. Triết gia tự tách một phần của mình ra để trò chuyện. Ông gán cho Rameau những ý nghĩ lời lẽ mà bản thân ông thấy bỉ ổi quá, không thể trực tiếp nói ra. Không có sự đối lập giữa “Tôi” và “Hắn”, giữa tác giả và nhân vật, giữa độc thoại và đối thoại. Đối thoại ở đây trở thành biện pháp để tác giả tự phân đôi và trình bày những mặt mâu thuẫn thống nhất của chính bản thân ông. *** Denis Diderot (1713-1784) là kiến trúc sư của công trình Bách khoa thư (Encyclopédie) đồ sộ, nhà văn có nhiều đóng góp độc đáo, nhà triết học duy vật, sôi nổi “lòng yêu chân lí và chính nghĩa”[1], nhà phê bình nghệ thuật sắc sảo. Ông là “nhà thơ lớn, nhà họa sĩ lớn, nhà điêu khắc lớn, nhà nhạc sĩ lớn... tuy chưa từng bao giờ làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, nặn tượng”[2]. Denis Diderot sinh ở Langres, một thành phố cổ kính miền Đông-Bắc nước Pháp, trong một gia đình thợ thủ công nhiều đời chuyên sản xuất các loại dao. Thuở nhỏ, Diderot học ở quê nhà; năm mười hai tuổi, nhà triết học tương lai chịu lễ cắt tóc chuẩn bị phụng sự tôn giáo. Nhưng ba năm sau, năm 1728, ông quyết định từ giã quê hương lên Paris học tập, bất chấp mọi người can ngăn. Đây là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời ông. Những năm đầu tiên sống ở Paris, nhà văn sẽ có dịp gợi lại sau này qua cuộc đối thoại kì lạ giữa “Tôi” và “Hắn” trong Cháu ông Rameau (Le Neveu de Rameau), một cuộc sống gần như lang thang, bữa đói bữa no, nay đây mai đó. Cảnh túng thiếu sẽ còn đeo đẳng ông cho mãi về già. Nhưng để bù đắp lại, Diderot được hưởng một cuộc sống tinh thần hết sức phong phú. Ông thoả sức tắm mình trong không khí của thời đại; ông mở tâm hồn ra đón những luồng gió mớỉ của bốn phương; ông đọc sách của Voltaire (1694-1778), ông tham dự những buổi tọa đàm ở nhà triết gia D'Holbach (1723-1789); ông kết bạn với F.M. Grimm (1723- 1807) ở Đức vừa sang; ông được Rousseau (1712- 1778) đến thăm ở Vincennes khi bị giam cầm; ông dự đám tang Montesquieu (1689-1755)... Diderot - nhà triết học ra mắt độc giả bằng tác phẩm Những tư tưởng triết học (Les Pensées philosophiques, 1746). Liền năm sau, ông cho in Cuộc dạo chơi của người theo chủ nghĩa hoài nghi. Tác phẩm nổi tiếng Bức thư về những người mù (Lettre sur les Aveugles, 1749) khiến ông bị tống giam ở Vincennes mấy tháng. Năm 1753, ông cho in Về việc giải thích tự nhiên (Sur l’Interprétation de la nature). Đến 1772, hai tác phẩm quan trọng nữa ra đời: Trò chuyện giữa Diderot và D'Alembert và Giấc mơ của D'Alembert (Le Rêve de d'Alembert). Diderot bước vào lĩnh vực văn học gần như đồng thời với triết học, nhưng Diderot - nhà văn được khẳng định sau Diderot - triết gia khá lâu, và những kiệt tác văn học của ông cũng trải qua số phận long đong hơn nhiều. Tiểu thuyết Những đồ trang sức không kín đáo (Les Bijoux indiscrets, viết năm 1745, in năm 1748) chưa bộc lộ tài năng của tác giả. Với các vở kịch Đứa con hoang (Le Fils naturel, 1757) và Người cha trong gia đình (Le Père de famille, 1758), ông thử nghiệm một thể loại mới: kịch “drame” hoặc “hài kịch nghiêm chỉnh”; đáng tiếc ở đây tài nghệ của nhà soạn kịch không tương xứng với ý đồ lớn lao. Năm 1760, ông viết cuốn tiểu thuyết Nữ tu sĩ (La Religieuse) thực sự có giá trị, nhưng mãi đến 1796, sau khi tác giả qua đời mười hai năm, mới được xuất bản. Đó cũng là số phận của kiệt tác Cháu ông Rameau, sáng tác khoảng năm 1761, lưu hành một vài bản ở dạng chép tay trong số bạn bè quen biết. Một bản theo Grimm về Đức, lọt vào tay Goethe (1749-1832), được ông dịch ra tiếng Đức. Mãi đến 1823, Cháu ông Rameau mới được dịch lại từ bản tiếng Đức để xuất bản ở Paris, và tới gần cuối thế kỉ XIX, năm 1891, ngưòỉ ta mới tìm thấy nguyên bản của nó! Tiểu thuyết không kém phần độc đáo Jacques người theo thuyết định mệnh (Jacques le Fataliste), sáng tác năm 1773, cũng phải đợi đến 1796 mới được ra mắt công chúng.   Mời các bạn đón đọc Cháu ông Rameau của tác giả Denis Diderot.