Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Đời Ngắn Ngủi Và Lạ Kỳ Của Oscar Wao

Mọi chuyện chẳng bao giờ dễ dàng đối với Oscar, một anh chàng dễ thương nhưng thừa cân kinh khủng sống ở khu người Do Thái, một người New Jersey lãng mạn với giấc mơ trở thành nhà văn J.R.R Tolkien của Dominica và trên hết là giấc mơ tìm thấy tình yêu. Thế nhưng, Oscar không bao giờ nhận được điều mình mong muốn, bởi fukú chiếu vào cung tình duyên. Đó là một lời nguyền cổ xa đeo bám gia đình Oscar suốt nhiều thế hệ, khiến họ phải chịu cảnh tù tội, tra tấn, những tai ương thảm khốc và nhất là bệnh tật. Oscar, người không ngừng mơ tưởng đến nụ hôn đầu đời chỉ là nạn nhân mới nhất của lời nguyền đó - cho đến mùa hè định mệnh ấy, Oscar quyết định sẽ trở thành nạn nhân cuối cùng của lời nguyền. Với nguồn sinh lực và vốn hiểu biết đáng nể, tác giả Junot Diaz đưa chúng ta chìm đắm vào cuộc đời náo động của vị anh hùng Oscar, cô chị gái Lola, bà mẹ Belicia xinh đẹp dữ tợn của họ, đồng thời tham gia chuyến hành trình sử thi của gia đình đó từ Santo Domingo đến Washington Heights rồi tới Bergenline ở New Jersey, sau đó quay trở về. *** Review:   Cho dù những khổ đau đến cùng cực, nhưng cái còn lại trong 'Cuộc đời ngắn ngủi và lạ kỳ của Oscar Wao' vẫn là tình yêu, chỉ tình yêu. Đọc những dòng đầu tiên trong cuốn Cuộc đời ngắn ngủi và lạ kỳ của Oscar Wao, tưởng đâu một lần nữa lạc vào thế giới của Trăm năm cô đơn, khó hiểu và xáo động. Tác giả Junot Diáz đã dẫn người đọc đến thế giới của fukú, thế giới của những lời nguyền nhưng tôi thích gọi đó là định mệnh.   Bởi, con người ai sinh ra cũng có số mệnh cho mình hết, khổ đau hay sung sướng, giàu có hay nghèo hèn... và sau đó có bị vùi chết bởi tình yêu cũng là số phận. Nhưng ở đây, Junot cho ta thấy, con người có thể chiến thắng fukú và vượt lên nó bằng sức sống mãnh liệt như thế nào, chỉ bằng một thứ thôi: Tình yêu. Mở đầu với câu chuyện của một chàng Dominic tên Oscar - người đáng lẽ ra phải thật đào hoa và có hàng tá cô nàng theo bên cạnh - nhưng lại xuất hiện với bộ dạng mập, tròn ú và chẳng cô gái nào theo đuổi cả. Rồi là những chán nản đời thường, những chán nản rất trẻ thơ, chàng trai lao vào thế giới của truyện tranh và ảo tưởng, ngồi hàng giờ, hàng ngày để viết một câu chuyện không thật vào một thế giới xa xôi nào đó. Chỉ bởi, anh chàng tin chắc mình bị dính fukú truyền 3 đời. Cả bốn thế hệ từ ông ngoại - bác sĩ Abeland, mẹ - Beli, chị gái - Lola và bản thân Oscar đều có cuộc đời bất trắc và phiêu dạt. Sự mạnh mẽ và dữ dằn như những tố chất di truyền ẩn nấp sẵn trong dòng máu giúp họ chống lại số phận. Nhưng chính trong số phận của mình, họ luôn tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu. Ông ngoại che chở cho gia đình của mình bằng tình yêu của một người chồng, một người cha để cuối cùng tàn tạ nơi chốn ngục tù của tên độc tài Trujillo. Beli cho đến tận mối tình thứ ba mới thực sự tin tình yêu của cuộc đời mình không hề may mắn. Nhưng trước đó, tình yêu với Gangster mãi mãi với cô là tình yêu đẹp nhất, dù chờ đợi một cuộc giải cứu không bao giờ tới từ người tình, cô vẫn vẽ nên bức tranh tương lai rực rỡ.   Lola sống đầy mâu thuẫn và dằn vặt. Còn Oscar, cuộc sống dù không may mắn nhưng cuối cùng cũng thấy tình yêu đích thực của bản thân mình, để rồi sau đó bị trả bằng cái giá quá đắt. Có thể, ngoài tình yêu và sức mạnh của nó, bạn sẽ bắt gặp mình trong chính những con người, nhân vật ấy ở một thời điểm nào đó. Một Beli và Lola nổi loạn, dám làm mọi thứ khi bị cha mẹ gò ép, một Oscar sống khép mình với thế giới xung quanh nhưng lại đắm mình trong những thứ gần như ảo tưởng, một nhân vật "tôi" yêu thiết tha một người con gái nhưng lại có sự lựa chọn làm tổn thương người con gái ấy. Những cảm xúc và cung bậc của tuổi mới lớn được Junot thổi hồn vào, đem đến những tiếng nói của teen rất thực. Càng đọc càng thấy hút sâu vào thế giới của những con người khác nhau. Giọng kể của từng người, theo thời gian quá khứ - hiện tại đan xen vào nhau làm nên cách nói đa dạng, bộc lộ cá tính của từng nhân vật. Cuộc đời ngắn ngủi và kỳ lạ của Oscar Wao được tạp chí Time bầu chọn là tiểu thuyết hay nhất năm 2007 và nhận được Pulitzer năm 2008 là minh chứng rõ ràng nhất cho tiếng nói của thế hệ trẻ ngày hôm nay. Nhưng trước hết, thực sự, vẫn là tình yêu, hy sinh vì tình yêu, chờ đợi cũng bởi hai chữ tình yêu. *** Oscar, nhân vật chính, không phải là một người Dominic danh tiếng chúng ta thường nghe nhắc đến, hắn không phải là một người có biệt tài về thể thao hay khiêu vũ bay bướm, cũng không phải là một anh chàng nổi tiếng đào hoa.   Ngoại trừ một khoảng thời gian rất ngắn trong đời, hắn chẳng bao giờ có may mắn với phụ nữ, và chuyện này thật trái ngược với bản chất của đàn ông Dominic.   Năm ấy hắn lên bảy tuổi.   Trong những ngày thơ ấu hạnh phúc, Oscar có đôi chút giống một nhân vật trong phim Casanova. Từ khi còn học mẫu giáo chú bé này luôn tìm cách hôn các cô bạn học, luôn lén đến phía sau các cô lúc nhảy điệu merengue để ngoáy mông mình đụng vào mông các cô bé, là người đầu tiên học perrito và nhảy điệu này bất cứ cơ hội nào hắn vớ được. Bởi vì những ngày ấy, hắn là một chú bé Dominic “bình thường” được nuôi lớn trong một gia đình Dominic bình thường như mọi gia đình Dominic khác, bản tính “si tình” của hắn đang thời kỳ phát triển, lại được gia đình và bạn bè khuyến khích. Mỗi khi có tiệc - và có rất nhiều tiệc tùng - trong những năm bảy mươi, trước khi Washington Heights là Washington Heights, trước khi tuyến đường xe lửa Bergen với chiều dài chừng trăm con phố, chỉ toàn dân Spanish cư ngụ - một vài thân nhân trong lúc ngà ngà say đã đẩy Oscar vào một cô bé nào đó rồi cả đám cười phá lên, như thể một bé trai và một bé gái là đại diện tiêu biểu cho chân lý yêu đương, chuyện chung đụng xác thịt của người lớn.   Giá mà quý vị có thể gặp cháu lúc ấy, mẹ hắn đã thở dài trong những ngày cuối đời của bà. Cháu là Porfirio Rubirosa của chúng tôi.   Các bé trai cùng tuổi hắn trốn tránh bọn con gái như thể các cô bé là một thứ vi khuẩn độc hại có tên là Đại Úy Trips. Nhưng Oscar thì không. Chú bé này rất si tình và có rất nhiều “người yêu”. (Hắn khá bụ bẫm, trong tương lai sẽ trở nên béo phì, nhưng mẹ hắn giúp hắn có được vẻ xinh xắn nhờ mái tóc cắt khéo và quần áo tươm tất. Trước khi cái đầu hắn thay đổi hình dáng mất đi vẻ cân đối, hắn có cặp mắt sáng lấp lánh và đôi má tròn phúng phính thật đáng... yêu. Điều này rất hiển nhiên trong tất cả hình ảnh của hắn). Đám con gái - bạn của chị Lola, bạn của mẹ, ngay cả người hàng xóm, Mari Colón, nhân viên bưu điện chừng ba mươi tuổi, tô môi son đỏ choét và dáng đi ngúng nguẩy như thể cô ta đeo dây nịt ngang mông - đều yêu hắn, hắn tin như thế. Thằng bé đó trông hay lắm![12] (Hắn rất thật thà và thèm được chú ý, như thế, có hại gì cho hắn không? Chắc chắn là không!) Ở Dominic, những ngày hè được đến thăm Baní, nơi ngày xưa gia đình hắn cư ngụ, hắn làm rất nhiều trò quái đản, thí dụ như đứng trước cửa nhà của Nena Inca và nói to với những phụ nữ đi ngang nhà: Cô đẹp quá! Cô đẹp quá! cho đến khi một người nghiêm trang ngoan đạo than phiền với bà của hắn và bà dập tắt cuộc tán gái lộ liễu này. Thằng quỷ nhỏ! Đây không phải là nhà hàng hay quán rượu!   Lúc ấy thật sự là thời kỳ vàng son của Oscar, cao điểm là mùa thu năm hắn lên bảy tuổi, khi hắn có hai cô bồ xinh xắn cùng một lúc, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong đời hắn tham dự một cuộc tình tay ba. Với Maritza Chacón và Olga Polanco.   Maritza là bạn của Lola. Tóc dài, rất đỏm dáng và đẹp đến mức con bé có thể đóng vai Dejah Thoris[13]. Olga, thì khác, nó không phải là bạn của gia đình. Nó sống trong một căn nhà ở cuối phố chỗ mà mẹ Oscar hay chê bai, vì rất nhiều người Puerto Rico thường hay tụ tập, ngồi ngoài hiên nhà uống bia. (Cái gì, bọn chúng không thể nhậu nhẹt ở Cuamo hay sao chứ? Mẹ của Oscar hỏi một cách hằn học.) Olga có đâu chừng chín chục người là anh em họ, hình như hầu hết họ đều có cùng tên Hector, Luis, hay Wanda. Và bởi vì mẹ của Olga là một mụ nghiện rượu hay say bí tỉ không săn sóc con cái kỹ lưỡng (theo lời mẹ của Oscar), có lắm khi con bé có mùi khai ngấy, vì thế bọn trẻ con đặt cho nó cái tên Bà Khai.   Olga có là Bà Khai hay không thì Oscar vẫn thích cái tính im lặng của nó, và bởi vì nó chịu để cho hắn vật lộn, và còn chú ý khen mấy tượng đồ chơi Star Trek của hắn. Maritza thì quá đẹp, nên không cần phải có lý do, và cô cũng luôn luôn ở bên cạnh hắn. Rất khôn ngoan, hắn tìm cách bắt cá hai tay. Đầu tiên hắn giả vờ là có một nhân vật quan trọng mà hắn rất ngưỡng mộ tên là Shazam[14], muốn được làm quen với hai cô bé này. Nhưng đó không phải là Shazam, mà là Oscar.   Ngày ấy chúng rất ngây thơ, vì thế “tình yêu” của chúng chỉ đến mức độ đứng gần nhau ở trạm đón xe buýt, lén lút nắm tay nhau, và hai lần được hôn lên má một cách long trọng, trước là Maritza, xong rồi đến Olga, khi chúng khuất sau những bụi cây trên đường phố. (Nhìn cái thằng bé đầy nam tính kìa, bạn của mẹ hắn nói. Thật đúng là đàn ông.)   Cuộc tình tay ba này kéo dài được một tuần tuyệt đẹp. Một hôm sau khi tan học, Maritza chặn hắn lại ở đằng sau bộ ghế xích đu rồi ra điều kiện, hoặc là nó hoặc là em. Oscar nắm tay Maritza thuyết phục thật nghiêm trang tình yêu của hắn dành cho cô bé, cố nhắc cô bé là chúng nó đã đồng ý chia sẻ với nhau, nhưng cô bé chẳng chịu nghe. Maritza có ba người chị và vì thế cô bé biết rất rõ chuyện chia sẻ. Đừng có nói chuyện với tôi trừ khi anh đã bỏ con nhỏ kia! Maritza, với làn da màu sôcôla và đôi mắt hẹp, đã toát ra phép thuật của Ogún và cô bé có thể suốt đời dùng quyền phép này để giam cầm tất cả mọi người. Oscar buồn bã về nhà với bộ phim hoạt hình của hắn, bộ phim Herculoids and Space Ghost (Herculoids và Ma không gian), có trước khi những bộ phim dài tập ướt át của Hàn Quốc ra đời. Con có chuyện gì buồn phải không? Mẹ hắn hỏi. Bà đang chuẩn bị đi làm công việc thứ nhì, cái chỗ ngứa trên tay bà đỏ ửng loang lỗ. Khi Oscar than thở, Bọn con gái..., Mẹ Léon nổi đoá. Mày than khóc vì một đứa con gái nhiều quá. Bà xoắn lỗ tai của hắn đến độ suýt nữa có thể nhấc hắn lên khỏi mặt đất.   Mẹ. Ngừng lại, chị hắn hét to, ngừng lại!   Bà xô hắn xuống nền nhà, cho mày một cái tát vào mặt, bà thở hổn hển, để rồi xem con đĩ mén đó có còn yêu mày nữa không?   Nếu là một đứa con trai nào khác, có thể hắn phản ứng mạnh. Không phải vì hắn chẳng có một người bố để được hướng dẫn cách phản ứng như đàn ông; đơn giản chỉ vì tính hắn hiền lành không có khuynh hướng đánh đấm. (Khác với chị của hắn, từng đánh nhau với con trai và cả một bọn con gái da nâu. Những người này ghét Lola vì cô có mũi thẳng và tóc thẳng.) Oscar, dường như không có chút khả năng chiến đấu nào cả; ngay cả Olga với hai cánh tay gầy như que tăm cũng có thể đạp hắn đến bẹp dí. Tấn công và đe dọa không phải là sở trường của hắn. Vì thế, hắn suy nghĩ. Hắn cũng chẳng phải mất nhiều thì giờ để quyết định. Nói cho cùng, Maritza xinh xắn, Olga không; Olga thỉnh thoảng khai mùi nước tiểu, Maritza không; Maritza được phép đến nhà hắn chơi, còn Olga thì không. (Cho một đứa người Puerto Rico đến đây à? Mẹ hắn gắt. Không bao giờ!). Lý luận của hắn hầu như chỉ có chữ có hay không với những bài toán cộng trừ số côn trùng mà bọn trẻ con được học. Hôm sau ở sân chơi, hắn “nghỉ chơi” với Olga. Maritza đang ở bên cạnh hắn, và con bé Olga khóc ôi thôi là khóc! Run rẩy như một miếng giẻ rách trong mớ quần áo thừa hưởng của người và trong đôi giày lớn gấp bốn lần cỡ chân của nó! Mũi dãi lòng thòng!   Về sau, khi hắn và Olga đều trở nên béo phì xấu xí, thỉnh thoảng hắn nghe dâng lên trong lòng cảm giác tội lỗi mỗi khi nhìn thấy Olga băng qua đường, hay lúc cô ta nhìn bâng quơ gần trạm xe buýt đi New York. Hắn tự hỏi thái độ tàn nhẫn của hắn đã tác hại đến mức nào trong việc đẩy cô vào trạng thái dở dở ương ương như hiện nay. (Nghỉ chơi với con bé ngày ấy, hắn hồi tưởng, hắn chẳng có cảm giác gì hết; ngay cả khi con bé bắt đầu khóc, hắn cũng chẳng thấy cảm động. Hắn còn nói, Đừng có làm như là em bé.)   Hắn chỉ thật sự đau khi Maritza bỏ hắn. Ngày thứ hai sau khi bỏ rơi Olga, hắn đến trạm xe buýt, tay cầm cái hộp đựng thức ăn trưa có hình Planet of the Apes (Hành tinh khỉ) mà hắn rất yêu thích, chỉ để khám phá cô bé xinh đẹp Maritza đang nắm tay thằng Nelson Padro xấu xí. Nelson Padro giống nhân vật Chaka trong Land of the Lost (Đất người lưu lạc)! Nelson Padro ngu đến nỗi nó tưởng mặt trăng là một vết bẩn mà Chúa quên lau sạch đi, (vết bẩn sẽ được lau ngay, hắn hứa với cả lớp.) Nelson Padro trở thành chuyên viên ăn trộm vặt trong xóm trước khi gia nhập lính thủy đánh bộ và bị mất tám ngón chân ở Chiến tranh Vùng Vịnh lần đầu. Thoạt tiên Oscar ngỡ mình nhìn lầm; vì mặt trời rọi vào mắt hắn, và vì hắn đã không ngủ đủ đêm qua. Hắn đứng cạnh hai cô bé và ngắm nghía hộp đựng thức ăn trưa của mình, sao Tiến sĩ Zaius[15] nhìn có vẻ ghê gớm và giống như thật thế. Nhưng Maritza chẳng thèm mỉm cười với hắn! Vờ như không có hắn ở đấy, cô bé nói với Nelson, mình nên cưới nhau, và Nelson mỉm cười một cách ngu độn, rồi nhìn ra đường để tìm xe buýt. Oscar đau lòng đến độ không nói được. Hắn ngồi xuống lề đường và cảm thấy có cái gì đó dâng lên tràn ngập cả ngực hắn, làm hắn sợ quá, và trước khi kịp nhận ra thì hắn đã khóc; khi chị Lola đến gần hỏi hắn có chuyện gì vậy, hắn chỉ lắc đầu. Nhìn cái thằng nhỏ dị hợm kia kìa, có đứa nói mỉa mai. Có đứa nào đó đá cái hộp đựng thức ăn trưa rất cưng của nó, làm xước ngang mặt Đại tướng Urko. Khi leo lên xe buýt, hắn vẫn còn khóc. Anh tài xế, nổi tiếng đã cai nghiện ma túy, nói, Chúa ơi, có phải là em bé đâu mà nhè mãi thế.   Chuyện đoạn tuyệt đã ảnh hưởng đến Olga như thế nào? Thật ra hắn muốn hỏi: Chuyện này đã ảnh hưởng đến Oscar như thế nào?   Với Oscar, dường như từ giây phút Maritza bỏ hắn - Shazam! - đời hắn bắt đầu trôi xuống cống. Trong vòng một vài năm tiếp theo, hắn càng lúc càng béo phị ra. Tuổi dậy thì đặc biệt không nương tay đã ném vào mặt hắn tất cả những thứ không được ưa nhìn, mặt hắn sần sùi vì mụn làm hắn ngượng ngùng mặc cảm; và cái sở thích của hắn - con gái! - trước đó chẳng ai chê bai, bây giờ bỗng bị xem là kỳ cục, mà chữ K phải được trân trọng viết hoa. Hắn không làm bạn với ai, vì hắn kỳ khôi quá, nhút nhát quá, và (nếu người ta có thể tin lời đám trẻ con láng giềng) dị hợm quá (hắn có cái tật thích dùng chữ văn hoa to lớn, những chữ mà hắn chỉ mới học thuộc lòng vài ngày trước đó). Hắn không còn dám đến gần con gái nữa, vì nếu may thì đám con gái sẽ chẳng buồn đoái hoài gì đến hắn, còn nếu rủi thì chúng la hét ỏm tỏi, rồi bảo rằng hắn mập và ghê tởm quá! Hắn không còn nhớ điệu khiêu vũ perrito, quên niềm kiêu hãnh khi đám phụ nữ trong gia đình gọi hắn là “đàn ông”, hắn chẳng được hôn một cô gái nào đã từ lâu lắm. Tựa hồ những gì của hắn có liên quan đến con gái đều bị cháy tiêu trong cái tuần lễ khốn nạn đó.   Mời các bạn đón đọc Cuộc Đời Ngắn Ngủi Và Lạ Kỳ Của Oscar Wao của tác giả Junot Diáz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuỗi Đời Bất Tận
Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Nhưng không may, cô bé bị dây rốn quấn quanh cổ và chết. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Bác sĩ cắt dây rốn, cô bé được cứu sống. Nhưng năm bốn tuổi, cô bé lại bị rơi xuống biển và chết. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Cô sống. Nhưng năm năm tuổi, cô bé lại bị rơi ra ngoài cửa sổ và chết. Ursula cứ sinh ra rồi chết đi, và lại sinh ra để được sống, cứ như vậy qua cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, rồi Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Chuỗi đời của Ursula dường như bất tận, cho đến một ngày, cô quyết định tự mình thay đổi thế giới... *** Thông tin giải thưởng: Chuỗi đời bất tận (Life after life) là cuốn sách đầu tiên trong bộ 2 tiểu thuyết về gia đình Todd. Tác phẩm được xuất bản lần đầu tại Anh năm 2013 thuộc thể loại hư cấu lịch sử. Chuỗi đời bất tận đã chiến thắng giải Costa Book Award năm 2013, nằm trong top 10 cuốn sách hay nhất năm do biên tập viên New York Times bình chọn. Tác phẩm của Kate Atkinson cũng được đề cử giải thưởng Cuốn sách của năm 2013 của Warstone, Baileys Women’s Prize 2013 cho hạng mục tiểu thuyết và Walt Scott Prize 2014. Bên cạnh đó, cuốn sách còn thắng giải Goodread Choices Award 2013 hạng mục Hư cấu lịch sử do chính độc giả bình chọn.  *** VỀ TÁC GIẢ KATE ATKINSON Kate Atkinson, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1951, là nhà văn người Anh có các tác phẩm đạt khá nhiều giải thưởng. Bà là tác giả lập kỷ lục ba lần thắng giải Costa Book, với cuốn tiểu thuyết đầu tiên có tựa đề Behind the Scenes at Museum (năm 1995), Chuỗi đời bất tận (Life after Life - năm 2013) và Những chú chim chưa bao giờ được hót (A God in Ruins - năm 2015). Ngoài ra, bà còn viết bộ bốn cuốn tiểu thuyết bestselling về cựu thám tử Jackson Brodie được chuyển thể thành phim truyền hình ăn khách trên đài BBC. Năm 2011, bà được phong tước MBE của Hoàng gia Anh vì những đóng góp cho nền văn học. Các giải thưởng bà Kate Atkinson đã giành được: ???? 1995, chiến thắng giải Whitbread Awards (tiền thân của giải Costa Book Prize) cho tiểu thuyết Behind the Scenes at the Museum. ???? 2009, đề cử giải Crime Thriller Award của The CWA Gold Dagger cho tiểu thuyết When Will There Be Good News? ???? 2009, chiến thắng giải British Book Awards, Hội đọc sách của Richard và Judy Bookclub cho tiểu thuyết When Will There Be Good News? ???? 2013, chiến thắng giải Costa Book Awards (hạng mục tiểu thuyết), Chuỗi đời bất tận ???? 2014, đề cử giải Walter Scott Prize Chuỗi đời bất tận 2014, chiến thắng giải South Bank Sky Arts Award Chuỗi đời bất tận. ???? 2015, chiến thắng giải Costa Book Awards (hạng mục tiểu thuyết), Những chú chim chưa bao giờ được hót. Atkinson đã từng sống ở Whitby, North Yorkshire một thời gian nhưng giờ bà đang sống tại Edinburgh gần các nhà văn nổi tiếng khác như J.K Rowling, Ian Rankin và Alexander McCall Smith. *** Teddy nhìn chiếc F-Fox bốc cháy ngùn ngụt trên đầu và rơi xuống đất trước anh, nổ tung, bùng lên thành những quầng sáng rực rỡ. Anh nhận ra rằng mình sẽ sống. Rốt cuộc anh sẽ có một tương lai. Anh gửi lời cảm ơn đến bất cứ vị thần nào đã ra tay cứu anh. Edward Todd, hay còn được mọi người gọi với cái tên thân mật là Teddy, là một chàng trai trẻ yêu thiên nhiên và thích làm thơ. Anh luôn muốn được sống một cuộc đời trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Nhưng thật không may, chiến tranh lại nổ ra. Teddy nộp đơn gia nhập lực lượng không quân Anh và trở thành một phi công thời chiến. Teddy trở về, kết hôn với cô bạn thời nhỏ Nancy, hai người có một đứa con - cô con gái bướng bỉnh và khó bảo Viola. Teddy thậm chí còn có hai đứa cháu ngoại Sun và Moon Bertie. Nhưng sống sót sau chiến tranh không hẳn là một điều may mắn, những ký ức đau thương trên bầu trời, cả dưới mặt đất lũ lượt ùa về xen lẫn với những sóng gió và khó khăn của thời bình khiến tương lai của Teddy cũng mờ mịt như chính màn khói của chiếc máy bay cháy rụi trong trận chiến cuối cùng của anh.Teddy không nhớ nổi bao nhiêu lần anh đã khởi động máy bay và bay trên bầu trời, bao nhiêu tấn bom thả xuống các làng mạc ở nước Đức, bao nhiêu con người cùng tổ bay với anh đã hy sinh. Nhưng anh nhớ rất rõ chuyến bay cuối cùng của mình. Tất cả mọi người cùng cho rằng chuyến bay ấy sẽ đi vào chỗ chết, nhưng anh lại sống và có tương lai. Những chú chim chưa bao giờ được hót là cuốn sách thứ hai trong bộ tiểu thuyết về gia đình Todd được xuất bản năm 2015 của Kate Atkinson. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là Teddy, cậu con trai vàng của nhà Todd, em trai của Ursula - nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết Chuỗi đời bất tận. Kate Atkinson đã gọi cuốn sách là tác phẩm đồng hành của cuốn tiểu thuyết trước đó. Nếu như ở Chuỗi đời bất tận, thời gian là yếu tố quan trọng dẫn đến vòng xoay định mệnh lặp đi lặp lại của Ursula, thì đến với Những chú chim chưa bao giờ được hót, thời gian lại bị xé nhỏ, khiến người đọc có thể thấy bất kỳ khoảnh khắc nào trong cuộc đời nhân vật Teddy cũng trở nên khác đi trong một cái nhìn dài hơn và sâu hơn. Chẳng hạn như vào một buổi chiều mùa hè năm 1925, cậu bé Teddy 11 tuổi, trong khi đang chịu đựng một cách lịch sự những câu hỏi ngớ ngẩn của dì Izzie để nghiên cứu sáng tác cho cuốn sách mới về nhân vật Augustus, cậu đã nghĩ đến việc đi học ở trường nội trú và tương lai có một đứa con, cả hai điều đó thậm chí còn chưa xảy ra. Những khoảng thời gian quá khứ, hiện tại và tương lai liên tục đan xen vào nhau theo dòng suy nghĩ của Teddy khiến đến chính cậu cũng không biết được đâu là thật, đâu là mơ. Với một người yêu thiên nhiên, và đặc biệt là say mê tiếng hót tuyệt diệu của chim chiền chiện như Teddy, chỉ tưởng tượng ra một chú chim bị vặt cánh thôi đã rùng mình. Vậy nên với anh, chứng kiến những người hy sinh trong chiến tranh trở thành nỗi ám ảnh suốt cuộc đời. Những chú chim chưa bao giờ được hót chiến thắng Costa Book Awards năm 2015, sự kiện này đã giúp nhà văn Kate Atkinson lập kỷ lục là người đầu tiên ba lần thắng giải Costa Book.7 triệu người Đức bị chết, trong đó có 500.000 người bị giết bởi chiến dịch ném bom của quân Đồng minh. Tổng cộng có 60 triệu người chết trong cuộc Thế chiến II, bao gồm cả 11 triệu người bị giết trong cuộc diệt chủng Holocaust. Teddy gọi họ là những chú chim chưa bao giờ được sinh ra, những tiếng hót chưa bao giờ được cất lên. Atkinson khẳng định Những chú chim chưa bao giờ được hót "có lẽ là tiểu thuyết hay nhất tôi từng viết". Và tờ báo Newsday của Mỹ đã gọi tác phẩm là "cuốn tiểu thuyết dành cho bất cứ ai yêu tiểu thuyết". *** Tuyết! Ngày Ursula chào đời, tuyết rơi nhiều đến mức trở thành một huyền thoại trong gia đình. Cô đã nghe câu chuyện này nhiều đến nỗi cô nghĩ là mình có thể nhớ được cảnh tượng đó. “Chết tức là hết, sẽ chẳng còn gì ở lại”, Dylan Thomas từng viết như vậy. Nhưng với Ursula Todd, cái chết đối với cô chỉ là một khởi đầu mới. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Nhưng không may, cô bị dây rốn quấn quanh cổ và chết. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Bác sĩ cắt dây rốn, cô bé được cứu sống. Nhưng năm bốn tuổi, cô bé lại bị rơi xuống biển và chết đuối. Ngày 11 tháng 2 năm 1910, vào một đêm tuyết rơi lạnh giá, Ursula được sinh ra. Cô sống. Nhưng năm năm tuổi, cô bé lại bị trượt ngã trên mái nhà và bỏ mạng. Ursula cứ sinh ra rồi chết đi, và lại sinh ra để được sống, cứ như vậy qua cuộc Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, rồi Chiến tranh Thế giới thứ Hai, nhưng không cuộc đời nào của cô giống lần trước. Mỗi lần bóng tối phủ xuống, Ursula lại tái sinh trong vòng tuần hoàn mới và những con đường mà cô đã chọn trong kiếp trước. Chuỗi đời của Ursula dường như bất tận, cho đến một ngày, cô quyết định tự mình thay đổi thế giới… Ursula mang trong mình ký ức đồng quê xanh mát của nước Anh trong những tháng ngày rong chơi tại căn nhà Góc Cáo. Và rồi cô lại là nhân viên văn phòng chính phủ chán ghét thời kỳ chiến tranh giả tạo khi Anh, Pháp, Đức tuyên chiến với nhau nhưng chẳng có lấy một cuộc tấn công thực sự. Lúc cô lại là một công dân Đức, ngày ngày làm bạn với người tình của Hitle. Hoặc là thành viên đội cứu hộ giữa lòng thủ đô London hứng chịu bom đạn hàng giờ đồng hồ.Chuỗi đời bất tận là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn người Anh Kate Atkinson, đồng thời là cuốn sách đã đem về giải thưởng Costa Novel lần thứ hai trên tổng số ba lần đoạt giải của bà. Xoay quanh một chuỗi đời lặp đi lặp lại của Ursula Todd, Atkinson đã miêu tả lại nhiều khía cạnh của cuộc sống và biến nhân vật trung tâm của mình thành một chứng nhân lịch sử. Nhưng xuyên suốt cuốn sách là câu hỏi ám ảnh tâm trí người đọc: Nếu được sống thêm một lần nữa và vô số lần khác nữa cuộc đời mà ta đang sống và đã sống, chúng ta sẽ làm gì để xứng đáng với cơ hội ấy? Trong tiếng Latin có một thành ngữ rất nổi tiếng - Amor fati - Hãy yêu lấy vận mệnh của mình, cho dù có chuyện gì xảy ra. Urusla đã yêu thứ được gọi là vận mệnh ấy hàng trăm lần, dẫu vậy lần nào nó cũng phản bội cô ở phút chót. Nhưng cô vẫn sống, vẫn tồn tại để làm lại cuộc đời mình. Giống như hình ảnh con rắn ngậm đuôi trong miệng, biểu tượng cho sự tuần hoàn của vũ trụ. Không có quá khứ hay hiện tại, chỉ có khoảnh khắc bây giờ mà thôi. Khai thác một chủ đề không mới, nhưng cuốn sách Chuỗi đời bất tận của Kate Atkinson lại chứng tỏ cho người đọc thấy khả năng sáng tạo vô hạn của trí tưởng tượng: một tiểu thuyết gia có thể đưa chúng ta đi xa được đến đâu. Mời các bạn đón đọc Chuỗi Đời Bất Tận của tác giả Kate Atkinson.
Bẫy-22
Trên một hòn đảo ngoài khơi nước Ý thời Thế chiến II có một liên đoàn không quân Mỹ. Một trong số lãnh đạo của họ là đại tá Cathcart, kẻ khao khát muốn gây ấn tượng với cấp trên bằng cách ép lính đi ném bom mỗi lúc một nhiều hơn. Nhân vật chính của chúng ta, Yossarian, mỗi lần đủ chỉ tiêu giải nhiệm thì lại phải đối mặt với chỉ tiêu mới. Trước sự chết chóc kinh hoàng của cuộc đại chiến, tất cả những gì y mong muốn là toàn mạng trở về. Nhưng mỗi khi chỉ tiêu ra trận tăng lên, xác suất sống sót của y lại giảm xuống. Y không có cách nào thoát ra, bởi ở đó có một cái bẫy. Bẫy-22. Thứ logic vừa giản dị vừa điên rồ của Bẫy-22 chi phối suốt ngót 600 trang sách với hàng chục nhân vật, qua chiến trường qua đạn bom, qua bệnh viện quân y và nhà bếp hậu cần, qua tướng lĩnh và lính tráng, qua cả những số phận tan nát và những kẻ trục lợi từ chiến tranh. Sự điên rồ chảy qua mọi đối thoại, sự ngớ ngẩn thấm đẫm mọi nhân vật, cho tới tận cú nhảy kết cục cuối cùng. Bộ mặt của chiến tranh hiện ra khủng khiếp trong sự nực cười, phi lý. Bẫy-22 hài hước một cách trần trụi, một cách dữ dội, một cách cay đắng, một cách man rợ, nhưng những ai có thể chịu đựng được nó thì hẳn sẽ không thể nào lãng quên. *** Catch-22 là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh hài hước rất nổi tiếng, luôn được xếp hạng top trong các danh sách “Những tiểu thuyết hay nhất …….”. Bản thân tác giả cũng đã từng nhập ngũ và phục vụ trong Liên đoàn không quân Mỹ trong thời kì Thế chiến thứ 2 khi mới 19 tuổi. Sau đó hai năm ông được điều đến phục vụ ở chiến trường Ý, nơi mà ông đã thực hiện 60 nhiệm vụ bay như một lính cắt bom của máy bay B-25. Đây cũng là bối cảnh thời gian và không gian chính của tác phẩm. Và nhân vật chính, John Yossarian, cũng là người cắt bom. Catch-22 là một tiêu đề rất khó dịch sang các ngôn ngữ khác. Sau khi tác phẩm này được xuất bản, Catch-22 trở thành một khái niệm mới, được bổ sung vào kho từ vựng tiếng Anh. Với ý nghĩa châm biếm hài hước, Catch-22 trở thành một khái niệm chỉ tình thế lưỡng sự (double bind), trong đó, hai sự việc có bản chất đối nghịch cùng xuất hiện một lúc. Người nào gặp phải tình trạng Catch-22 thường rơi vào cảnh huống tiến thoái lưỡng nan. Ban đầu Joseph Heller đặt tên tác phẩm là Catch-18. Nhưng để tránh trùng tên với những tác phẩm khác, gồm cả phim và sách, tác giả, lúc đó vẫn là một tay viết non trẻ và không tiếng tăm, đã phải lựa những cái tên khác như 14, 11, 20. Sau vài lần thay đổi, bỗng nhiên con số 22 xuất hiện, và sau 2 tuần được thuyết phục, Heller cuối cùng đã đồng ý vì : “22 nghe hay hơn 14”. Cũng thật trùng hợp khi số 2 cũng được cho là con số đại diện cho hiệu ứng Déjà vu, thứ được lặp lại và nhắc lại rất nhiều lần trong sách. Sau khi xuất bản vào năm 1961, Catch-22 trở nên rất phổ biến trong giới thanh thiếu niên vào thời điểm đó. Mặc dù cuốn sách viết về thời kì Thế chiến thứ 2, nhưng với bối cảnh lịch sử lúc đó, Catch-22 dường như thể hiện những cảm xúc mà những người trẻ đã có đối với những điều phi lý của cuộc chiến tranh Việt Nam. Cũng phải dành lời khen và cảm ơn cho dịch giả Lạc Khánh Nguyễn vì những ngôn từ phong phú mà dịch giả đã sử dụng. Tuy chưa được đối chiếu với bản gốc nhưng mình nghĩ tác phẩm đã được truyền tải một cách xuất sắc tuyệt vời. Ngay sau khi đọc xong mình đã phải lên mạng tìm thông tin về người dịch nhưng rốt cuộc không tìm được gì. Ngay từ trang đầu tiên, chính xác là đoạn có chữ ở một nửa trang đầu tiên, Bẫy-22 đã khiến mình liên tưởng đến Biên niên ký chim vặn dây cót. Mùi tài năng ngửi thấy được trên trang giấy và cái cách tác giả đột ngột kéo người đọc vào thế giới riêng của mình. Nếu như ở Biên niên ký là một cái gì đó xa lạ, phức tạp và vô định, thì Bẫy-22 lập tức kéo người đọc đến sự điên rồ : “ĐÓ LÀ TÌNH YÊU TỪ CÁI NHÌN ĐẦU TIÊN. Ngay từ lần đầu gặp mặt Yossarian đã say mê cha tuyên úy đến rồ dại.” Mình thì không kì thị người đồng tính, nhưng đã phải tự hỏi “Đây thực sự là cách người ta bắt đầu một tác phẩm à?”. Ngay từ phút đầu tiên tác giả đã không cho người đọc có cơ hội phản kháng và chuẩn bị, và mọi thứ tiếp theo đó thậm chí còn điên khùng hơn nữa. Và còn hài hước hơn nữa. Sự hài hước và châm biếm lớn nhất có lẽ chính là giọng văn tỉnh queo tưởng chừng như vô cảm của tác giả. Những câu văn dài nhiều vế ngồn ngộn những liên từ đa dạng trải ra liên tục những nghịch lý lặp đi lặp lại không ngớt khiến người đọc tự hỏi hay là tác giả điên mẹ nó rồi. Cách triển khai cốt truyện khá sáng tạo nhưng có thể là điểm trừ với những độc giả thích những món dễ ăn. Thực sự thì sẽ có nhiều người thấy cuốn sách này rất khó đọc. Các sự kiện hiếm khi được trình bày trọn vẹn 1 cách liên tục, mà dần được làm sáng tỏ qua các góc nhìn khác nhau và được nhắc đến hoàn toàn ngẫu nhiên. Người đọc sẽ phải tự mình liên tưởng và sắp xếp các mảnh ghép để có được cái nhìn trọn vẹn nhất về những sự kiện được nhắc đến. Viết về việc này, thì phần tóm tắt ở bìa sau cuốn sách, theo mình là, đã diễn tả lại hoàn hảo, không thể hay hơn được nữa : “Thứ logic vừa giản dị vừa điên rồ của Bẫy-22 chi phối suốt ngót 600 trang sách với hàng chục nhân vật, qua chiến trường qua đạn bom, qua bệnh viện quân y và nhà bếp hậu cần, qua tướng lĩnh và lính tráng, qua cả những số phận tan nát và những kẻ trục lợi từ chiến tranh. Sự điên rồ chảy qua mọi đối thoại, sự ngớ ngẩn thấm đẫm mọi nhân vật, cho tới tận cú nhảy kết cục cuối cùng…..” Chủ đề về chiến tranh nhưng những cảnh chiến đấu chỉ được thả lõm bõm trong một vài chương, và không hề có một cảnh nào miêu tả chân dung kẻ thù, những tên lính Đức quốc xã, theo đúng nghĩa đen. Tuy ít, nhưng những phân đoạn đó chính là giọt tinh dầu tỏa hương, là điểm sáng dẫn đường giúp người đọc xâu chuỗi được cả một tuồng những mảnh ghép rối rắm lộn xộn để có thể nhìn được trọn vẹn những sự kiện trong truyện. Những đoạn mô tả diễn biến tâm lý sống động và chân thực tuyệt vời, đa dạng và uyển chuyển, trần trụi và khô queo nhưng vẫn đầy cảm xúc. Từng nhân vật được xây dựng và đặc tả xuất sắc, ấn tượng và đáng nhớ. Nhờ đó ta có những chân dung sống động trên trang giấy. Mỗi nhân vật đều mang tính đại diện và có chiều sâu. Trải qua 600 trang giấy rồi gập sách lại, ta không thể chỉ đơn giản là chỉ nhớ tới nhân vật chính mà quên họ đi một cách dễ dàng được. Họ vốn chỉ là những hình ảnh đại diện cho những cảm xúc rất đời thường : sợ chết, sợ không được chết đúng kiểu, sợ bị lãng quên, sợ không bị lãng quên, sợ bị thất bại, sợ không được thất bại, sợ bị xa lánh, sợ bị ghét bỏ…..Chỉ có điều những cảm xúc này đã được điểu chỉnh đến mức tối đa, và cái gì quá thì cũng hóa “điên”. Nhưng nhờ thế, các nhân vật điên một cách rất thuần khiết : họ đơn giản chỉ là quá tham lam, quá hèn nhát, quá sợ hãi, quá háo danh, quá lập dị….Đơn giản là thế. Chúng ta có 2 vị Thiếu tướng tính cách hoàn toàn trái ngược nhau luôn đấu đá quyền lực. Có 1 vị đại tá hám quyền và háo danh đến độ ám ảnh và mù quáng, và dĩ nhiên không thể thiếu được tính cách đặc trưng cho những kẻ hám quyền và háo danh đến độ ám ảnh và mù quáng trong một tác phẩm châm biếm : đần độn và bất tài. Rồi còn có thêm 1 sĩ quan hậu cần, người mà thực chất có quyền lực vô biên thậm chí có thể tác động đến và điều chỉnh cuộc chiến. Và còn rất nhiều nhân vật đặc sắc khác nữa. Nhưng dù là nhân vật nào, thì ngoài những nét rất riêng, tất cả bọn họ đều có một nét tương đồng đến đáng ngạc nhiên : Không ai trong số họ nghĩ mình bị điên và cùng lúc họ nghĩ những người khác điên mẹ nó hết rồi. Nhưng thậm chí ngay cả những nhân vật “ngầm”, những người chưa bao giờ được nhắc đến cũng bị điên mẹ nó rồi. Làm thế nào mà một anh lính trơn chỉ qua một đêm đã được thăng lên tận hàm Thiếu tá? Ồ, đơn giản là vì anh ta có một cái tên quá độc đáo thể hiện sự hài hước vô bờ của người cha của anh. Xin bật mí cho các bạn nhân vật đó chính là Thiếu tá Major Major Major. Hẳn những nhân vật chóp bu quyền lực của quân đội Mỹ đã nghĩ rằng có một Thiếu tá tên là Major Major Major thì sẽ giúp họ thắng được cuộc chiến, hoặc đơn giản là vì họ thấy nó vui vãi chầy. (Thiếu tá trong tiếng Anh nghĩa là Major) Và thậm chí có một “trò đùa” nữa đã được gài gắm trước tận 200 trang, để rồi bung nở ra và “kết thúc” cuộc đời của một nhân vật. Phần còn lại của lời bạt trên bìa sau một lần nữa lại hoàn thành xuất sắc vai trò của mình : “…..Bộ mặt của chiến tranh hiện ra khủng khiếp trong sự nực cười, phi lý. Bẫy-22 hài hước một cách trần trụi, một cách dữ dội, một cách cay đắng, một cách man rợ, nhưng những ai có thể chịu đựng được nó thì hẳn sẽ không thể nào lãng quên.” Suốt nửa đầu cuốn sách, gần như trang nào cũng khiến mình cười nắc nẻ không ngớt.Nhưng qua đến nửa sau, những lời đả kích và châm biếm đột ngột rẽ theo hướng khác chỉ trong một chương. Sự điên rồ và hệ quả của nó đã tới. Các bạn sẽ được giới thiệu tới 1 cái tên, mà có lẽ với nhiều người là lần đầu tiên được nghe thấy, xanh đi ca (Syndicate) và độ bao phủ rộng lớn không tưởng của nó. Bạn sẽ nhận thấy rằng, thực chất chiến tranh cũng chỉ là một thương vụ làm ăn lớn, một cuộc đầu tư cỡ bự của một nhóm nhỏ những nhà tài phiệt, những chủ nhân đích thực của nước Mỹ. Những kẻ chi phối mọi thứ, thao túng chính trị, điều tiết cung cầu, dựng lên những mạng lưới kinh doanh khổng lồ bám rễ khắp nơi. Những chính trị gia chỉ là những con rối trong tay họ, và truyền thông chính là công cụ đắc lực nhất để tẩy não người dân như một con chó săn dẫn dắt đàn cừu. Tác giả còn không ngần ngại ném vào độc giả những tàn bạo, bất công và vô nhân đạo. Những thứ quá phi lý tới mức nó trở thành hợp lý, hợp lý trong một thực tế đang diễn ra chính xác như những gì trong cuốn sách : tàn bạo, bất công và vô nhân đạo. Những giá trị nhân văn và đạo đức làm người bị bóp méo đến teo tóp vặn vẹo. Những câu hỏi day dứt và ám ảnh cùng với một chuỗi dài những đau đớn và thống khổ, những oan ức và trái ngang như một thỏi nam châm nặng nề kéo chùng cục sắt ám ảnh trong tâm trí người đọc khiến họ không sao dứt mắt ra được. Chiến tranh thì điên rồ, nhưng con người mới là thứ điên loạn nhất. Điều kinh khủng nhất xảy ra khi người ta không hiểu lẫn nhau, họ sẽ không thể có cái nhìn thấu cảm và lòng trắc ẩn. Sự thờ ơ đôi khi là tội ác. Và do vậy, điều tuyệt vời nhất cũng là khi người với người hiểu được lẫn nhau, biết đồng cảm và vị tha. Sau tất cả, vẫn luôn có những điều tốt đẹp đáng để ta chiến đấu, mà thứ trước nhất đó chính là quyền được sống, được tự chủ của mỗi con người. Cảm ơn tác giả vì sau những đằng đẵng điên cuồng mà ông đưa ra, mình vẫn cảm thấy rất bất ngờ và hài lòng với cái kết. Tuyệt vời. Bẫy-22 hấp dẫn đến độ trong quá trình đọc, mình đã phải đột nhiên tạm dừng rất nhiều lần để soạn cho xong một câu cảm nhận vừa lóe lên trong đầu. Đây là kiểu sách mà, ngay khi đọc xong, bạn muốn lập tức chia sẻ cảm xúc của mình với ai đó. Thực ra, khi ấy cái cảm xúc đó không phải là vấn đề chính, mà quan trọng là ai đó kìa. Mỗi một suy nghĩ của chúng ta lúc đó là một thông điệp, là một lá thư một chiều không có hồi âm gửi đến chính ta ở tương lai. Một cuốn sách hay là khi đọc xong nó, ta để lại một phần của chính mình lại và dùng một phần của nó để tạo lên chính ta, của tương lai. Không hẳn đọc sách là chỉ để hiểu được điều tác giả muốn truyền đạt, mà mỗi cuốn sách chính là một lời truyền đạt của ta đến chính mình. Tại sao lại là cuốn sách này? Tại sao bạn chọn nó? Tại sao bạn đọc nó? Không hiểu sao, đọc một tác phẩm về chiến tranh, mình bỗng nhớ đến, hay “nhận được”, “lá thư” mà mình ở trong quá khứ đã gửi : “Tình yêu, đôi khi với một số người, giống như những lá thư thất lạc mà mãi tận 10 năm sau mới đến được tay người nhận….” Vậy, nếu như bạn sẽ đọc Bẫy-22, hoặc bất kỳ cuốn sách hay nào khác, sau khi đọc xong, hãy tự hỏi mình : Bạn muốn gửi gắm điều gì cho chính mình ở tương lai? Người review: Giao Bùi *** “Bất cứ ai muốn ngừng ra trận đều không thực sự điên.” Bẫy-22, của Joseph Heller, hoàn toàn không phải là một cuốn tiểu thuyết thành công… “Theo chuẩn mực thông thường thôi nó chẳng bén mảng được tới cái gọi là hay.”[1]Bài điểm cuốn Bẫy-22 đăng trên New York Times bắt đầu như vậy, dẫu tác giả của nó sau đó phải công nhận đây là một tác phẩm kỳ lạ bậc nhất. Kỳ lạ là một từ nói giảm nói tránh, với hệ thống nhân vật dày đặc, với các sự kiện sắp xếp không theo trật tự tuyến tính, với chất hài hước đen kịt và bạo lực đầy rẫy, với sự phi lý lấp đầy mọi đối thoại và cảnh huống, Bẫy-22 là một cuốn tiểu thuyết lớn, còn hơn cả vĩ đại, nó là một đại danh tác, không chỉ về Đại chiến thế giới thứ 2, không chỉ về chiến tranh, mà là về con người, và hành vi con người.   “Đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Ngay lần đầu gặp mặt Yossarian đã si mê cha tuyên úy đến rồ dại”: như mọi câu đầu trong tác phẩm của Heller, câu đầu của Bẫy-22 mò đến với tác giả, trọn vẹn, và chỉ trong vòng một tiếng rưỡi, gần như toàn bộ câu chuyện đã nằm trong đầu ông, với tuyến nhân vật, tình tiết, dẫu cái tên Yossarian thì chưa xuất hiện. Ấy vậy mà, khởi thảo viết từ 1953, đến 8 năm sau, Heller mới xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, và để luôn ở đời một Bẫy-22.   Bẫy-22 bắt đầu một cách không thông thường như vậy, ở giữa bệnh viện, ở giữa cái gọi là trật tự thời gian truyện kể, ở giữa mọi tuyệt vọng và nỗ lực quẫn bách của Yossarian để sống sót. Bẫy-22, với tâm điểm là nhân vật đại úy John Yossarian, kể về một liên đoàn không quân Mỹ trong Thế chiến thứ 2, đóng quân trên đảo Pianosa ngoài khơi của Ý. Thay vì phải bay một số lần nhất định, những chuyến bay thả bom xuống quân địch, đến khi hoàn thành thì được giải ngũ, nếu vẫn còn tính mạng, lính của liên đoàn dưới sự lãnh đạo của đại tá Cathcart, liên tục bị nâng số chuyến bay, từ 25, lên 30, 35, 40, 45, 50, 55, 60, 65, 70, 80. Hậu quả đi liền, đầy nghiêm trọng, của việc tăng số lần bay để gây ấn tượng với cấp trên, để có những tấm ảnh chụp từ trên cao xuống mặt đất cảnh bom nổ tan tác thật đẹp, chính là những người lính đó, dần nướng sống chính mình.   Trong cái cảnh huống tưởng chừng bị coi là điên rồ thuần túy ấy, có ai nhận ra rằng đây là trò điên của một kẻ điên, lợi dụng cái gọi là lòng yêu nước, cái gọi là sự trung thành, để tận diệt chính hạ cấp của mình hay không? Người đọc rơi ngay vào một thảm cảnh: một trại điên tập thể. Như chính người kể chuyện tường thuật bằng một giọng tỉnh bơ, “Khắp nơi trên thế giới, các gã trai ở cả hai bên chiến tuyến đang ngã xuống cho thứ mà người ta bảo họ là tổ quốc, và dường như chẳng ai thèm bận tâm, ít nhất là chẳng ai trong số những gã trai đang ngã xuống ấy.”   Bẫy-22 là một trại điên vui nhộn nơi không ai tự nhận mình điên và tất cả đều nghĩ người khác điên và lần lượt các nhân vật đều bị các nhân vật khác gọi là điên, mà trùm cuối của điên chính là Yossarian. Với 228 từ điên, với nhân vật liên tục kết cho nhau là điên, nào “các anh điên rồi,” “bọn họ toàn những kẻ điên,” nào “bệnh điên rất dễ lây lan,” nào “Clevinger nghĩ Yossarian điên,” “McWatt bị điên,” “Nately cũng điên không kém,” “Orr cũng là một trong mấy gã điên,” “Hungry Joe bị điên,” “Dubar bị điên,” “thượng sĩ White Halfoat nghĩ bác sĩ Daneeka bị điên.” Họ lần lượt vu cho nhau điên, thuyết phục nhau rằng mày điên, tao không điên. Nhưng họ vẫn lần lượt bay, hoàn thành 25 chuyến, bị đẩy lên 30, bay luôn 30 chuyến, đẩy lên 40, bay 40 chuyến. Một sự phục tùng không phản đối bí hiểm đến khó hiểu.   Vậy vấn đề nằm ở đâu, khi không ai nhận ra mình cần phải thoát khỏi những mệnh lệnh quái quỷ đó, phải thoát khỏi hệ thống quan liêu áp đặt đó, giữa ngần ấy điên khùng và chết chóc? Đó chính là thứ mà Heller chỉ ra trong cái tình huống tắc tị này, nơi Yossarian và đồng đội của mình bị kẹt cứng trong cái gọi là Bẫy-22. Nếu anh bị điên thì anh có thể được nghỉ bay, chỉ cần anh đưa ra yêu cầu, và chính thời điểm anh đưa ra yêu cầu được nghỉ bay thì chính là lúc anh cho thấy rằng mình không bị điên và tiếp tục phải ra trận. Trong cái bộ luật quân sự quan liêu ấy, không có chỗ tồn tại cho sự bảo vệ an toàn của bản thân. Heller đã trải qua rất nhiều cái tên, Bẫy-11, Bẫy 18, Bẫy-14, để rồi đậu lại ở Bẫy-22: một cái tên vô nghĩa, đầy tính chất võ đoán, phi logic. Yossarian là người duy nhất cố gắng thoát ra khỏi hệ thống, anh càng nỗ lực ra khỏi hệ thống thì càng bị cho là kẻ điên, nhưng chỉ có thoát khỏi hệ thống, anh mới bảo toàn được tính mạng của mình.   Bẫy-22 chính vì thế là một trò đùa dai đầy chết chóc và phi lý, với một loạt nhân vật sắc nét, điên rồ, với những đối thoại luẩn quẩn, phi logic mà lại đầy có lý. Bẫy-22 là một cú tấn công vào sự quan liêu, vào bộ máy thiết chế, vào những phi lý thường trực trong chiến tranh cũng như trong đời sống con người. Ở một khía cạnh nào đó, việc nâng số lần bay lên ở Bẫy-22 mang đầy không khí thần thoại. Nó khắc họa thật tỉ mỉ sự quẫn bách của Yossarian, khi gần đạt tới được số lần bay quy định để được về nhà, thì lại ngay lập tức bị lưu đày tiếp tục. Nó như một công cuộc đẩy hòn đá lên đỉnh núi của Sisyphus. Yossarian và đồng đội y hệt như vị vua Tantalus bị các vị thần trừng phạt bằng cách cho đứng ở một hồ nước ngập đến cằm nhưng mỗi lần khát định uống thì nước rút đi, trên đầu là hoa quả trĩu cành mỗi lần đói định ăn thì mọi thứ biến mất. Nó là một trạng thái trêu ngươi kéo dài, là một sự trừng phạt không lối thoát, mà trong quá trình trừng phạt đó, hẳn nhiên là tan xác trong lúc bay ra trận. Yossarian không chịu đợi tới chuông nguyện hồn mình, như Groden, McWatt, Nately, Clevinger…   Trong thời gian ngắn ngủi từ đầu 1944 đến cuối năm, 12 tháng, Yossarian lần lượt tìm mọi cách để chống trả lại thiết chế, bằng cách trốn vào bệnh viện, giả đau gan, giả vàng da, trần truồng từ chối không chịu bay, cầu xin được tuyên bố là điên nhưng chính vào lúc cầu xin là lúc cho thấy anh tỉnh táo hơn hết thảy và ngay lập tức phải bay tiếp. Dẫu có trốn đi Rome, có yêu gái điếm, có lạy bốn phương giời, lạy mười phương phật, thì cái thiết chế phải bay ấy, Yossarian cũng không thoát nổi. Chính vì thế, có thể nói Bẫy-22 là một tiểu thuyết trào lộng về cảnh huống bi kịch đầy những nan đề của con người. Trong một bài trả lời lại một tấn công vào cuốn tiểu thuyết của mình, Heller tuyên bố, khi nhà phê bình chê Bẫy-22 dám chế giễu chiến tranh: Thực tế thì chuyện “chế giễu” chiến tranh là việc bất khả, cũng giống như không thể nào chế giễu mùa đông hay cơn đói. Tôi rất xấu hổ phải chỉ ra rằng đối tượng của chế giễu, trong gần như mọi tiểu thuyết và kịch, theo lẽ thường là con người và hành vi con người, và một trong những ý tưởng mà tôi muốn phát triển là hành vi của một số người và nhóm xã hội nhất định trong thời bình chẳng khác gì với hành vi của cũng những con người và nhóm xã hội đó trong thời chiến.[2] Với hàng loạt đối thoại như thể lệch kênh giao tiếp, với các sự kiện và chết chóc trùng trùng điệp điệp xáo xào trộn lẫn vào nhau, với một hệ thống các nhân vật với những câu nói và đặc điểm riêng được nhào nặn cực đặc biệt, Bẫy-22 tạo ra một thế giới bi đát mà đẫm hài hước, nơi điên loạn ngự trị, nơi một cá nhân, bằng những nỗ lực phi thường, liên tục tấn công vào hệ thống và các thiết chế, bởi chúng chính là một sự đè ép đến ngạt thở cái gọi là lương thức thông thường. Zét Nguyễn Mời các bạn đón đọc Bẫy-22 của tác giả Joseph Heller.
Những Đứa Con Rải Rác Trên Đường
Một tiểu thuyết bằng 3 truyện dài. TRUYỆN THỨ NHẤT: Thư đi không thấy thư lại TRUYỆN THỨ HAI: Đời biết mấy chuyến xe TRUYỆN THỨ BA: Chuyến thu gom xuyên Việt Những trang đầu tiên là chuyện du học vô cùng thời sự. Khiến lập tức có thể thu hút tất cả những bậc cha mẹ nếu có quan tâm đến tương lai của con cái. Và dường như là đương nhiên, sau đó, rải rác, là những bất hạnh bí mật của từng gia đình bắt nguồn từ hạnh phúc của người khác mà không phải ai cũng không biết. Nhưng đây không phải là cuốn sách viết về chuyện gia đình. Dù là chuyện dẫn theo cuộc đời của nhân vật vốn làm lái xe trong thời chiến và cả trong thời bình. Một lối viết hiện thực xen lẫn huyền ảo đã là phong cách của Hồ Anh Thái hơn chục năm nay, vậy mà vẫn có thể đọc liền một mạch và khó thể rời. Tác giả đã gói gọn nhiều sự kiện của từng thời vào trong một câu chuyện. Sự ác liệt, tàn bạo, đầy bất trắc của chiến tranh. Nỗi thống khổ, sự nhũng nhương, cứng nhắc của thời bao cấp. Và sự hỗn loạn khi vào cơ chế thị trường: tham nhũng, thực dụng, vô đạo đức… cũng có đầy đủ tại đây. Những đặc điểm rõ nét của từng thời hiện lên mồn một, đến mức khắc nghiệt. Và đều là điển hình.Không cần phải đọc đến chuyện buôn người, vượt biên, hay cả chuyện mua bằng của tiến sĩ giấy, mà ngay từ đầu, luôn đi theo là hoảng hốt trong lòng người đọc, một nỗi hoang mang, đâu là chân, đâu là giả. Luôn luôn tồn tại một nỗi sợ mơ hồ. “Đời sống trải dài mấy chục năm qua, từ chiến tranh sang hòa bình, thời cải tạo tư thương qua ngăn sông cấm chợ, từ thời bao cấp cho đến khi mở cửa kinh tế thị trường. Những số phận tha hương ở xứ người và xứ mình nhiều trắc trở, cùng những kết cục có hậu và không có hậu. Hiện thực đan xen huyền ảo. Tất thảy được tái hiện bằng giọng văn nghiêm ngặt, bi thương hòa trộn với giễu cợt, hài hước.” *** Bố ạ, ở trường con vừa rồi xảy ra một chuyện ghê rợn vô cùng. Một thằng bên trường Kiến trúc vác súng sang bắn chết thầy hiệu trưởng trường Nghiên cứu quốc tế. Con chứng kiến. Ngay trước mắt. Nói cho chính xác thì thầy ấy không chết. Ai cũng tưởng thầy ấy đã chết nhưng đưa đi cấp cứu thì hóa ra không chết. Không chết nhưng đạn bắn toét người. Sống cũng thành dở người. Sinh viên phải quyên góp trợ giúp thầy. Ai cũng đóng góp. Con cũng phải đóng góp. Một khoản không hề nhỏ bố ạ. Bố chuyển tiền sớm cho con nhé.   Ban đầu nó định viết là thầy hiệu trưởng chết, chết hẳn hoi, chết đứ đừ, làm sao để cho bố nó hoảng, bố nó rợn tóc gáy, bố nó tim đập chân run, từ đó mà cuống lên gửi tiền ngay. Nghĩ lại, thấy không nên để thầy giáo chết, nó viết thêm đoạn thứ hai, chính xác thì thầy ấy không chết. Nỗi kinh hoảng ở đoạn đầu tiên được dây dưa kéo dài sang đoạn thứ hai, đây chính là chỗ dành cho việc miêu tả chi tiết. Đạn bắn toét người. Không chết mà như thế thì mức độ cũng quá nghiêm trọng. Lại còn bình luận về tình trạng cuộc sống bi đát của thầy trong tương lai. Khơi gợi sự mủi lòng ở người đọc thư. Tất cả những điều nó viết ở trên rốt cục là dẫn đến việc nhắc nhở bố nó gửi tiền. Tiền. Tiền. Tiền. Và phải sớm. Kinh hoàng như thế. Ghê rợn như thế. Bi thảm như thế. Thế thì phải gửi sớm. Sớm. Sớm. Sớm. Đây là khoản tiền đột xuất. Chắc là bố mẹ nó đã quen với những bức thư xin tiền đột xuất kiểu này. Quen với những bức thư nhắc gửi tiền định kỳ ba tháng một lần. Du học nước ngoài, tiền học, tiền ăn ở, tiền sinh hoạt và các khoản phụ trợ, mỗi năm mấy chục nghìn đô la Mỹ. Mấy chục nghìn đô không gửi luôn một lần mà chia ra thành từng quý, mỗi năm gửi bốn lần. Nhưng không phải bốn lần mà xong. Thỉnh thoảng có những bức thư bất chợt như bức thư xin tiền đột xuất này. Quyên góp bất ngờ. Thầy giáo chết. Quên, thầy không chết mà chỉ bị thương be bét khắp khắp người. Lần khác thì bà cụ thân sinh của ông chủ nhà chết, phải đi cùng ông ấy về thị trấn quê hương cách vài trăm dặm. Lần khác thì một đứa bạn cùng lớp chết. Toàn là chết. Nó không ngại chết nhiều thế sẽ thành một lý do đáng ngờ. Chết đúng ra là lý do chí lý. Còn có gì đau buồn hơn. Còn có gì gây chấn động hơn. Còn có gì đáng mủi lòng hơn. Thực ra thì trong những bức thư trước, nó còn nêu những lý do khác nữa, nhưng người đọc cứ bình tĩnh, tuần tự rồi sẽ biết tất cả. Trở lại với bức thư điện tỏ lần này. Có chuyện một thằng bên trường Kiến trúc vác súng sang trường Nghiên cứu quốc tế thật. Có thật. Nhung nó sang bắn thầy hiệu trưởng bên này thì không đúng. Không có. Hoặc là chính xác nó bắn ai thì đang điều tra, chưa biết được. Chưa biết. Đúng lúc nó vác súng vào trường thì chú chàng nhà ta bị gọi lên phòng hiệu trưởng. Lên phòng thầy hiệu trưởng uống nước chè đã thành tục ngữ trong đám sinh viên. To take a cup of tea with the director. Ở đây người ta gọi thầy hiệu trưởng là giám đốc chứ không gọi là hiệu trưởng headmaster. Suốt cả năm học có khi chẳng bao giờ nhìn thấy mặt thầy hiệu trường, mà cũng chẳng cần nhìn thấy mặt thầy làm gì. Thình lình một ngày đẹp trời giáo viên chủ nhiệm bảo ta giờ ấy ngày ấy đến phòng thầy hiệu trưởng. Chả được cốc nước chè nào đâu. Lên đấy hoặc là nhắc nhở hoặc là răn đe hoặc là kỷ luật hoặc là buộc nghỉ học. Nói chung là lành ít dữ nhiều. Chè cà phê nước ngọt bia bọt, đừng có mơ. Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Rải Rác Trên Đường của tác giả Hồ Anh Thái.
Mưa Đỏ
Mưa Đỏ là tiểu thuyết sử thi mới nhất của nhà văn Chu Lai. Tiểu thuyết lấy bối cảnh chính là 81 ngày đêm huyết chiến bảo vệ Thành cổ Quảng Trị mùa hè rực lửa năm 1972. “Đáy sông Thạch Hãn đâu chỉ có “bạn ta nằm” mà còn có cả những đồng loại nhưng không đồng chiến tuyến nằm” - nhà văn Chu Lai chia sẻ tại buổi giao lưu. Chủ ý của nhà văn khi viết cuốn sách này là muốn trình hiện thêm một tiếng nói quyền lực của văn chương, trong việc lay thức con người nỗ lực phòng tránh chiến tranh cũng như hòa hợp, hòa giải dân tộc, chiến truyến. “Mưa đỏ” là ký ức lương thiện của một thế hệ “đem thân xơ xác giữ sơn hà”, là một tác phẩm ghi dấu sự thành công mới của Chu Lai, chứng tỏ sự trường sức, trường vốn của nhà văn này, khẳng định độ phong nhiêu của đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng. *** *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Nhà văn quân đội Chu Lai là tác giả của những tiểu thuyết đồ sộ về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang, như: “Nắng đồng bằng” (1978), “Ăn mày dĩ vãng” (1991), “Phố” (1992), “Ba lần và một lần” (1999), “Cuộc đời dài lắm” (2001), “Khúc bi tráng cuối cùng” (2004), “Chỉ còn một lần” (2006)… Và một số kịch bản phim như: “Hà Nội đêm trở gió”, “Người đi tìm dĩ vãng”, “Người Hà Nội”… “Mưa đỏ” là tiểu thuyết sử thi mới nhất của ông, kết quả sau nhiều năm trăn trở và sáng tạo. Tiểu thuyết lấy bối cảnh chính là cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972, cả ở hai bên chiến tuyến (ta và địch), xoay quanh trục hai nhân vật chính: Cường (chiến sĩ Giải phóng) và Quang (tên chỉ huy hắc báo của ngụy). Bên cạnh đó là bối cảnh trên bàn đàm phán ở Pa-ri với nhân vật bà mẹ của Cường - một nhà ngoại giao là thành viên của đoàn đàm phán phía ta… Tác giả đã mượn phông nền của một sự kiện lịch sử điển hình nhưng cũng khá “nhạy cảm” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để dựng lại bức tranh bi tráng về cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ 81 ngày đêm mùa hè đỏ lửa năm 1972. Bằng ngòi bút đậm chất văn miêu tả, không ôm đồm đi vào “bề rộng” của không gian cuộc chiến, mà đi vào chiều sâu của những chi tiết, những nhân vật; lột tả tính chất khốc liệt và bi tráng, tác giả nhập hồn vào từng nhân vật để giúp bạn đọc thấy được tâm trạng giằng xé trong từng cảnh huống: Cả sự dũng cảm và đớn hèn, cái thiện và cái ác,… sự bùng nổ những trạng thái tích cực và tiêu cực… của những con người từng giây, từng phút phải đối mặt với sự hy sinh, chết chóc đến bất cứ lúc nào. Đan cài trong những trang miêu tả cuộc chiến đọc đến gai người là những khoảng bình yên, lãng mạn đầy chất thơ của tình yêu nảy mầm trong lửa đạn, của những sự hào hoa, phóng túng rất đời… Nhóm nhân vật “phía ta” trong tiểu thuyết (chiếm dung lượng nhiều nhất) chỉ là một đơn vị cấp tiểu đội. Tiểu đội ấy như một gia đình nhỏ, với một Tiểu đội trưởng Tạ “chừng ba mươi tuổi, tóc rễ tre, trán vuông cằm vuông, cái chóp mũi hình như cũng vuông nốt, da đen mun, dáng nông dân chắc nịch vùng đồng bãi…”, và các chiến sĩ thì mỗi người một quê, một vẻ: Sen - chiến sĩ lớn tuổi người Sài Gòn, Cường - sinh viên nhạc viện người Hà Nội, Bình vẩu - cựu sinh viên mỹ thuật quê Đông Hà, Hải gù - công nhân điện nước quê Hà Tây, và người trẻ nhất là Tú, một chiến sĩ mới tròn tuổi mười sáu (sau đó, tiểu đội còn được bổ sung một chiến sĩ mới mười lăm tuổi là Tấn). Theo dòng chảy của trận chiến 81 ngày đêm đó, tác giả đã khắc họa rõ nét tâm lý, cảm xúc, tình cảm của từng thành viên trong tiểu đội này như những thước phim quay chậm, có lúc toàn cảnh, có lúc cận cảnh, thậm chí đặc tả, đại đặc tả rõ đến từng chi tiết. Trong cuộc chiến sinh tử ấy, con người đã bộc lộ rõ nhất bản năng. Tất cả tiểu đội này đều ngã xuống (trừ nhân vật Tấn). Mỗi người hy sinh cũng một kiểu. Có sự hy sinh rất đỗi “nhẹ nhàng”, có sự hy sinh mà thi thể còn bao lần bị đạn bom cày đi xới lại, có sự hy sinh lại để “xóa lý lịch có vấn đề” (nhân vật Hải gù), hay có sự hy sinh đã xóa đi lỗi lầm hèn nhát trước đó của chính mình (nhân vật Sen)… Nhân vật chính được khắc họa đầy đủ nhất trong tiểu thuyết là Đặng Huy Cường - một người lính đại diện cho lớp sinh viên “tài hoa ra trận”. Anh là một sinh viên nhạc viện xuất sắc, con trai một cựu chiến binh thời chống thực dân Pháp, có anh trai là liệt sĩ. Đáng lẽ sẽ đương nhiên được đi học nước ngoài, phát triển tài năng âm nhạc, nhưng anh đã tình nguyện “gác bút nghiên” để lên đường chiến đấu. Người lính cựu sinh viên ấy đã có mặt ở Thành cổ Quảng Trị trong suốt gần trọn 81 ngày đêm bi hùng đó. Và, trong sự sống mong manh, cái nét lãng mạn, hào hoa của chàng trai Hà Nội vẫn được bộc lộ, tỏa sáng; tâm hồn âm nhạc vẫn được thăng hoa để anh viết nên bản hòa tấu với những nốt nhạc đầy cảm xúc. Bản giao hưởng ấy rung lên những âm điệu bi tráng của chiến tranh, hòa trộn âm điệu của hòa bình, và cuối cùng, hòa bình vẫn là sự vĩnh cửu, trường tồn dù nó phải đổi bằng máu đỏ… Anh đã hy sinh trong trận đánh ở ngày gần cuối cùng của chiến dịch, máu của anh, của đồng đội anh như Tiểu đội trưởng Tạ, cùng bao chiến sĩ tuổi còn xanh đã hòa vào dòng sông Thạch Hãn ngầu đỏ để góp phần làm nên thắng lợi quyết định trên bàn đàm phán ở Pa-ri, buộc đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phải chấp nhận ký vào bản Hiệp định hòa bình. Nhà văn Chu Lai cũng không áp đặt theo lối mòn (ta tốt, địch xấu…), mà đã khắc họa cả những nét nhân văn, nhân đạo đằng sau cái hung hãn, tàn bạo của kẻ địch (nhân vật Quang - toán trưởng hắc báo ngụy). Ở đây, nhóm nhân vật “phía bên kia chiến tuyến” được tác giả đầu tư rất công phu, sâu sắc, chiếm một dung lượng vừa đủ để những con người bằng xương bằng thịt và tính cách, diễn tiến tâm lý được lột tả đến tận cùng của bản ngã con người trong cuộc chiến khốc liệt, mà như một lẽ tự nhiên, không gò ép, đã khiến bạn đọc cảm giác thỏa mãn. Khép lại tiểu thuyết là cảnh hai bà mẹ của hai nhân vật chính ở hai chiến tuyến cùng trở lại Thành cổ viếng mộ con, họ tình cờ gặp nhau, cùng thắp nén hương lên hai ngôi mộ, để lại nhiều sự day dứt trong lòng người đọc, nhưng lại sáng lên một niềm tin rằng, xóa bỏ những hận thù, khép lại quá khứ bi thương đã qua để cả dân tộc cùng chung tay xây dựng đất nước hòa bình… Trong cuộc giao lưu chào mừng Ngày sách Việt Nam (21-4) và giới thiệu tiểu thuyết “Mưa đỏ” do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phối hợp với Trường Sĩ quan Chính trị tổ chức mới đây, nhà văn Chu Lai chia sẻ rằng, ông đã từng viết nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch bản phim truyện về những vùng đất mà ông từng trực tiếp chiến đấu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, và cả những địa bàn mà ông chỉ qua nghiên cứu tư liệu, tiếp xúc với nhân chứng… Nhưng riêng về Thành cổ Quảng Trị thì ông chưa một lần chạm vào, dù đã nung nấu từ bao năm như một món nợ lớn chưa trả được. Đã bao lần ông cùng vợ ông, nhà văn Vũ Thị Hồng đi về vùng đất ấy, và mỗi lần, trong trái tim người lính chiến từng trải của ông lại rung lên mãnh liệt rằng phải viết về nó, và phải viết một cách sâu sắc, chứ chưa dám nghĩ đến sự “xứng tầm” với những mất mát, hy sinh mà bao đồng đội đã ngã xuống để bảo vệ từng xăng-ti-mét vuông Thành cổ mùa hè đỏ lửa năm 1972 ấy. Lăn lộn trong nhiều tháng trời ở nhiều nhà sáng tác do Trung tâm Hỗ trợ Sáng tác Văn học nghệ thuật - Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch đầu tư, bao ngày đêm một mình đối mặt với từng con chữ, từng chi tiết, nhân vật, “Mưa đỏ” cũng từng trang từng trang hiện ra. Món nợ của ông cũng như được vơi đi… Và người đầu tiên, độc giả đầu tiên đọc nó, góp ý chỉnh sửa, hoàn thiện nó, không ai khác, chính là người bạn đời yêu quý của ông, nhà văn Vũ Thị Hồng. Bà tâm sự: “Khi đọc lần đầu tiên bản thảo ngổn ngang câu chữ, tôi đã nhiều lần ngấn nước mắt vì xúc động. Có lẽ sự đồng cảm của người từng có những năm tháng cầm súng, từng đối mặt với bao thử thách đã khiến tôi như người trong cuộc để cảm nhận những gì mà người lính trong cuộc chiến bảo vệ Thành cổ đã trải qua…”. Khi được hỏi, nhân vật nào, chi tiết nào mà bà tâm đắc nhất trong tiểu thuyết, nhà văn Vũ Thị Hồng chia sẻ rằng, rất nhiều, khó có thể kể hết, nhưng bà cứ day dứt mãi về những nhân vật nữ trong đó. Đặc biệt là nhân vật bà mẹ của Cường. Rồi nhân vật khác tên Hồng, một nữ cán bộ xã đội xinh đẹp, dũng cảm. Những đoạn văn mô tả chị chèo đò chở bộ đội qua sông, lộ bắp chân trần trắng nhễ nhại, hay chi tiết chị gặp Cường, nhân vật chính và đem lòng yêu anh… là những đoạn văn, chi tiết mà bà ám ảnh mãi… Nhân đây, xin được dẫn lời nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Thanh Tú khi nói về cảm nhận ban đầu đọc “Mưa đỏ”: “Chu Lai trong “Mưa đỏ” đã đẩy ngòi bút lách sâu, nhập thân vào nhân vật, gọi ra ở nhân vật những trăn trở, dằn vặt rất con người không chỉ ở phía ta mà cả ở phía địch. Để cho bạn đọc thấy, thì ra đã là người Việt ai cũng đều máu đỏ chung dòng giống. Câu chữ khép lại còn ý nghĩa thì mở ra: Hãy cùng yêu thương nhau, cùng yêu hòa bình, cùng nhau gắn nối và gắn kết để dân tộc mãi trường tồn, đất nước ngày càng giàu mạnh…”. Sự thành công của việc tái dựng lại bức tranh bi tráng về cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972 còn chờ sự cảm nhận của bạn đọc và nhận xét của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Nhưng qua tiểu thuyết mới của Chu Lai, có thể khẳng định, sức sống mãnh liệt và sức hấp dẫn vẫn còn vẹn nguyên, đủ để lay động trái tim người đọc của đề tài lớn: Lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng, mà có lúc nhiều người bi quan cho rằng dường như đang bị nhạt phai… NGUYỄN HOÀNG SÁU *** Hà Nội. Xanh. Một màu xanh yên ả nhưng trống trải trong những ngày hòa bình đầu tiên. ★ Hà Nội đã chớm bước vào hè, trời nín gió nhưng phố phường lại bồi hồi dịu mát như có ngọn gió hanh hao mơ hồ nào thổi dọc theo những hàng cây, mái ngói vào tận mỗi khoảnh sân, góc nhà khiến cho niềm vui bảng lảng, ngây ngất trong ánh mắt người cứ rờ rỡ nhen lên, vỡ ra, lan tỏa, lẫn cả lắng chìm, hụt hẫng. Dẫu biết rằng cái gì phải đến sẽ đến nhưng khi nó đến sao lòng dạ lại cứ thấy bất chợt ngổn ngang, xốn xang, ngỡ ngàng dường như không phải, không có thật, dường như đang mơ thế này! Phải chăng chưa có thời khắc linh diệu nào của dân tộc, của một vùng đất lại xen lẫn nhiều tâm trạng trái chiều nhau đến thế? Bởi có những người cha, người chồng, người con, từ trong rừng xanh đã xiêu vẹo trở về, nhưng cũng còn biết bao người cha, người chồng, người con cho đến giờ phút này vẫn chưa thấy hình bóng và có thể sẽ không bao giờ thấy hình bóng ở nơi đâu. Nụ cười xen nước mắt, nỗi đau trộn niềm vui, cái sống cái chết, cái thăng hoa điều mất mát cùng lúc òa ập, len lỏi, giằng xé, quẫy đạp trong đáy sâu lòng dạ những con người vừa kiệt sức vặn mình trong chiến cuộc, trong đợi chờ. Hà Nội hân hoan như sống lại, trẻ lại nhưng Hà Nội cũng lặng thầm xao xác. Mặt Hồ Gươm sáng nay xanh hơn nhưng cũng dường như man mác buồn hơn. ★ Giữa cái đan xen, ngào trộn ấy, vẫn có một nơi mà ở đó con người đang tìm về cõi tĩnh để được nghe, được thả hồn, được giãi bày, được lắng kết, được vơi nhẹ phần nào cái tâm trạng không mấy nhẹ nhàng của mình trong một không gian kiến trúc thâm nghiêm, cổ kính có từ đầu thế kỷ 20 do người Pháp để lại. Không gian Nhà hát Lớn. Trong ánh sáng mờ ảo thấp thoáng chút cô tịch thần thánh, một bản giao hưởng hợp xướng sâu thẳm đang vang lên vỗ ào ạt vào khắp bốn bức tường mang màu hồng nhạt. Bản nhạc như một âm hưởng thao thiết chạy suốt chiều dài cuộc chiến, làm thức dậy trong lòng người những cảm xúc bồi hồi khác lạ. Cả khán phòng im phắc với những đôi mắt nhìn lên đắm chìm như thấm từng nốt nhạc. Đó là những giai điệu về chiến tranh, về khát vọng yên hàn, về sự mất mát và lòng kiêu hãnh, về tình yêu và chia ly, về cái lãng mạn và điều trần trụi, về cái nhất thời và cái vĩnh cửu của cuộc đời... về tất cả. Nét nhạc bùng lên lúc cuồn cuộn lúc sâu lắng, lúc trải ra lúc nén lại, khi vỡ nổ khi trở trăn, chân thật, gợi mở, mãnh liệt đến khốn cùng, khi lại như tiếng gọi thì thầm đưa con người trở về với những khoảng tối của rừng, khiến cho không ít người đã không kìm được những giọt nước mắt cứ chực trào ra nơi bờ mi. Trong đó, ở hàng ghế giữa, nhòa chìm trong bóng tối huyền ảo là khuôn mặt thanh thoát, phúc hậu của một người đàn bà ngoài năm mươi tuổi. Bà không khóc nhưng đôi mắt mù mịt, trống rỗng của bà đang nhìn lên kia còn đau hơn là khóc. Cô gái mặc áo bà ba, quấn khăn rằn khá xinh đẹp, một vẻ đẹp mộc mạc mặn mòi đặc trưng cho nét đẹp nắng gió của con gái miền Trung ngồi bên cạnh thỉnh thoảng lại đưa tay sang nắm lấy tay bà, siết nhẹ. Bà để yên, khẽ mỉm cười, một cái cười trống trải, vô hồn, héo hắt... Trên kia, dưới ngón tay của những nhạc công tài hoa và của vị nhạc trưởng đứng tuổi, gầy gò, nét nhạc từ từ rơi vào khoảng lặng rồi bất thần vươn tới cao trào như một tiếng kêu kiêu hãnh và bi thiết của định mệnh. Bản nhạc dừng lại kết thúc chương Một trong tiếng Saxophone trầm khàn, ánh ỏi ngân lên lần cuối. Cả nhà hát lắng đi giây lát trước khi bật vang lên những tràng vỗ tay không ngớt, kéo dài. Để chuyển tiếp sang chương kế tiếp, từ trong cánh gà, một người đàn ông tóc bạc bước ra, giọng ông trầm ấm nhưng không giấu được chút nghẹn ngào cố nén phát ra từ lồng ngực: - Thưa tất cả các quý vị và các bạn! Bản giao hưởng hợp xướng mà các quý vị được nghe phần một vừa rồi là tác phẩm đầu tay nhưng cũng là tác phẩm cuối cùng của một nhạc sĩ tài hoa. Bởi vì trước, trong và sau bản nhạc này, anh đã chiến đấu và ngã xuống như một người lính dũng cảm trên chiến trường Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Bản nhạc này anh viết tặng mẹ và lúc này đây, người mẹ ấy đang ở đâu, làm gì, rất tiếc là chúng tôi chưa bắt liên lạc được. Bàn tay cô gái lại nắm chặt lấy tay người đàn bà. Toàn thân bà rung lên nhưng khuôn mặt lại cúi xuống như để che đi, giấu đi sự hiện diện của mình. Bản nhạc lại tiếp tục, trầm hùng, bi tráng, da diết hơn với những giai điệu dồn dập, xoáy buốt, nóng rẫy như có lửa cháy phần phật bên trong. Đôi mắt người đàn bà nhìn lên, mở to, mở to nữa rồi từ trong đôi mắt ấy, như có một tiếng nổ khủng khiếp xé toạc không gian. Sân khấu biến mất, dàn nhạc biến mất, cả khán phòng cũng biến mất. Trước mắt bà chỉ còn là bom đạn mù mịt, lửa khói cuộn sôi, gạch đá và cả những thân xác cũng văng lên, hạ xuống... Rồi một bức tường thành hiện ra lở loét, trắng xác, nát vụn như một bộ xương hóa thạch méo xếch và từ trên cao, bầu trời bỗng nổi cơn sấm chớp thịnh nộ, soi nhấp nhóa xuống dòng sông chạy cạnh khu thành đang dâng nước réo gào như có trận đại hồng thủy kinh hoàng từ thế giới hồng hoang ngàn xưa tràn về. Nước dâng ngang trời, nước ngập kín đất, nước đỏ bầm màu máu. Mưa xối xả, những giọt mưa cũng mang màu máu... Đôi vai mảnh của người đàn bà co rút lại, mắt nhắm chặt, hai tay ôm cứng lấy đầu, toàn thân rung lên như đang vào cơn sốt rét ác tính. “Má ơi!”... Cô gái khẽ kêu lên một tiếng rứt ruột rồi ôm chặt lấy bà, ép sát tấm thân bà vào ngực mình như chở che, như an ủi. Người đàn bà dần hồi tỉnh, mồ hôi vã ra, khẽ nở một nụ cười mộng mị, lúc ấy mới để mặc cho những giọt nước mắt khe khẽ chảy ra...   Mời các bạn đón đọc Mưa Đỏ của tác giả Chu Lai.