Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sư Tử

Sư tử (nguyên bản tiếng Pháp: Le Lion), tác phẩm của nhà văn người Pháp Joseph Kessel, là câu chuyện về một cô gái và chú sư tử của cô. Patricia có một tài năng hiếm có: trò chuyện với thú vật, và cô bé nghĩ mình có thể điều khiển mọi thứ. Cô bé nổi tiếng với cả thú vật và con người. Câu chuyện được thuật lại thông qua một người đàn ông Pháp trong chuyến viếng thăm Kenya. Câu chuyện xoay quanh tình bạn giữa Patricia và chú sư tử King, được Patricia nuôi từ khi mới sinh ra. Ouriounga, một thiếu niên người Maasai mong muốn kết hôn với Patricia đã quyết định thể hiện mình bằng cách giết sư tử, như tục lệ ở bộ tộc cậu. Tuy nhiên, chú sư tử mà cậu chọn giết lại là King. Cha của Patricia đã bắn King để bảo vệ Ouriounga khỏi cái chết. Cái nhìn lý tưởng của Patricia về thảo nguyên châu Phi tan vỡ, cô bé đầu hàng trước yêu cầu của mọi người và rời đi cùng với người kể chuyện, đi học tại một trường nội trú ở Nairobi. Irene và Louis Kamp đã chuyển thể cuốn tiểu thuyết thành kịch bản cho bộ phim cùng tên năm 1962, với sự tham gia của William Holden, Trevor Howard, Capucine, và Pamela Franklin. *** Joseph Kessel sinh ra ở Clara, Achentina, ngày 10-02-1898. Cha ông là người Nga gốc Do Thái chạy trốn sự truy nã của Sa hoàng, sang Pháp học ngành Y. Nước Pháp trở thành Tổ quốc tinh thần của gia đình Kessel từ đấy. Bác sĩ Kessel tình nguyện đi làm thầy thuốc cho một khu di dân nông nghiệp Do Thái ở Achentina, và Joseph Kessel ra đời ở Tân Thế Giới.   Khi gia đình trở về Pari, Joseph chuẩn bị thi cử nhân văn khoa trong khi vẫn mơ ước trở thành một diễn viên hài kịch. Nhưng một dịp tốt đã đến, cho phép ông làm việc tại tòa báo Journal des débats, tờ báo hàng ngày có uy tín nhất ở Pari. Ở tòa báo, người ta vẫn còn thấy chiếc ghế bành của Chateaubriand để đó.   Thế rồi chiến tranh xảy ra, và vừa đúng lúc mười tám tuổi, ông bỏ hẳn sân khấu và tạm thời bỏ nghề báo để làm phi công. Chính trong nghề này mà ông tìm thấy nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết Phi đoàn. Nhà phê bình Henry Clouard cho rằng Kessel là người đầu tiên viết mảng văn học về hàng không.   Năm 1919, Kessel tình nguyện sung vào quân đội viễn chinh của Pháp sang Siberi. Ông đã kể lại chuyến đi ấy trong tiểu thuyết Thời hoang dã. Ông trở về qua Trung Quốc, Ấn Độ và khép lại vòng đi thế giới đầu tiên.   Sau đó, ông luôn luôn ở vị trí hàng đầu thuận lợi cho việc quan sát thời sự. Ông tham gia cuộc nổi dậy của Ái Nhĩ Lan chống lại nước Anh. Ông được chứng kiến những bước đầu của chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Hai mươi năm sau, ông nhận được giấy nhập cảnh vào nước Ixraen non trẻ, tờ visa mang số 1. Ông đi theo những người buôn nô lệ cuối cùng trên biển Đỏ cùng với Henri de Monfreid. Ông được thấy những bước đầu của bưu điện Hàng không cùng với Mermoz và Sain Exupery. Ở nước Đức đang thời biến động, ông gặp “người đàn ông mặc áo đen xoàng xĩnh, chẳng có vẻ gì lịch sự, chẳng có vẻ gì quyền thế, chẳng có chút gì ưa nhìn, của một người đàn ông nào đó, vẻ buồn buồn và khá tầm thường”. Người đó là Hitler.   Sau cuộc chiến năm 40 mà ông bắt đầu trong một trung đoàn công binh và kết thúc ở vị trí một phi công của nước Pháp tự do, Joseph Kessel lại trở về nghề văn và nghề báo. Ông được bầu và Viện Hàn Lâm Pháp tháng 11 năm 1962. Ông mất năm 1979.   Joseph Kessel là tác giả của hơn hai mươi tiểu thuyết và truyện như: Phi đoàn, Những trái tim trong trắng, Sư tử, Tiểu đoàn trên không, Đoàn quân bóng tối, Chợ nô lệ, Người đàn bà đi qua quán cà phê…  *** Tôi dâng tặng tiểu thuyết này tới cơ quan quản trị các Vườn quốc gia Kênya đã có công bảo tồn sự sống hoang dã miền đông Phi châu cho các thế hệ tới, để ca ngợi lòng tận tụy nhiệt thành của những con người gánh vác trách nhiệm các khu bảo tồn đó, đặc biệt để ca ngợi bạn tôi, ông giám đốc Tabêrê, trong ngôi nhà anh tôi đã phác họa xong chủ đề câu chuyện này.   Các sự kiện trong câu chuyện diễn ra tại bảo tồn Ambôlêsi. Hẳn là mỗi khu vườn quốc gia đều có một vị giám đốc. Thế nhưng tính các vị giám đốc trong cuốn sách này cũng như tính các bà vợ và cô con gái ông lại hoàn toàn do tác giả tạo ra. Là các nhân vật tiểu thuyết, các tính cách đó chẳng có chút gì chung với gia đình Tabêrê cả. Dẫu sao tôi cũng ngỏ lời cám ơn anh vì anh đã chia sẽ với tôi những kinh nghiệm lâu đời và hiếm hoi của anh về các giống thú hoang. Không được anh giúp sức, cuốn sách này hẳn đã không thể nào ra đời. *** Phải chăng nó đã vành mi mắt tôi để coi thử trong đó có gì? Tôi không thể đoán chắc điều đó. Khi thức giấc, rõ ràng tôi đã thấy như là có một ngọn bút lông mềm và nhám dạo dọc khuôn mặt mình, thế nhưng khi tỉnh dậy hẳn thì tôi lại thấy nó đang ngồi rất ngoan ở ngang tầm cái gối và nhìn tôi chăm chú.   Tầm vóc nó không lớn hơn một sọ dừa. Bộ lông mọc ngắn của nó có màu vỏ dứa khô. Với bộ lông như thế từ đầu ngón chân tới đỉnh hộp sọ, trông nó như thể mặc lông dệt. Riêng cái mặt lại phủ bằng một thứ mặt nạ satanh đen, xuyên qua đó long lanh hai giọt nước: đôi con mắt.   Trời chưa rạng hẳn, nhưng cây đèn bão đêm qua tôi quên tắt vì mệt cũng đủ sáng để tôi nhìn thấy rành rành trên nền tường vôi trắng vị sứ giả bất ngờ đó của bình minh.   Vài giờ sau, sự hiện diện của nó hẳn sẽ là chuyện bình thường đối với tôi. Nó có cả bầy sống trên những cây cao xung quanh gian lều; nhiều gia đình đông đủ giỡn chơi trên cùng một cành cây. Nhưng bữa qua, lúc chiều sẩm tối mới tới đây, người kiệt lực. Vì vậy, vào lúc này, tôi đã nín thở mà nhìn con khỉ tí xíu ngồi rất gần mặt tôi.   Cả nó cũng không nhúc nhích. Cả đôi giọt nước bên trong cái mặt nạ satanh đen cũng bất động.   Trong đôi mắt nhìn ấy không thấy sợ sệt, nghi kỵ và cả tò mò nữa. Tôi chỉ là đối tượng cho một sự xem xét nghiêm túc, vô tư.   Thế rồi cái đầu dệt lông ấy, to bằng nắm tay trẻ nhỏ ở tuổi còn nằm trong nôi, bỗng ngoẹo về bên trái. Đôi mắt khôn ngoan lộ ra một vẻ buồn rầu, thương hại. Nhưng đó là buồn thương cho tôi.   Tưởng chừng đôi mắt ấy mong muốn cho tôi những chuyện tốt lành, muốn đem cho tôi một lời khuyên. Nhưng lời khuyên gì vậy?   Lúc đó hẳn tôi đã có một cử động vô ý. Thế là cái nắm tròn màu ngà ngà vàng đó nhảy vụt lên, bay từ bàn này sang ghế kia cho tới khung cửa sổ để ngỏ, và tan biến đi trong sương mù buổi sáng.   Quần áo đi rừng của tôi từ đêm qua vứt đó vẫn y nguyên dưới đất cạnh chân giường, gần cây đèn bão.   Tôi lấy mặc vào và đi ra ngoài hiên.   Bữa chiều qua, mặc dù trời tối mù mịt, tôi nhớ rằng có để ý thấy những bụi gai lớn bao quanh gian lều mình ở, và trước lều là một cánh rừng thưa mênh mông chạy dài hút trong màn đêm bí ẩn. Nhưng lúc này sương mù đã che kín hết. Vật chuẩn duy nhất cho tôi chỉ còn ngay trước mặt tôi, nối với trời cao trên nóc thế giới, cái bàn khổng lồ chứa tuyết vĩnh cửu quanh đỉnh núi Kilimanjarô.   Một tiếng động giống như có ai lăn vội những con xúc xắc đã khiến tôi ngoảnh nhìn về những bậc cầu thang gỗ thô dẫn tới hàng hiên. Một con linh dương thong thả, ung dung leo lên các bậc tam cấp.   Một con linh dương thực sự, nhưng rất nhỏ xinh, tai nó không chấm đầu gối tôi, sừng giống như những lá thông, và vó chỉ to bằng móng tay.   Con vật kỳ diệu chui từ sương mù ra ấy chỉ dừng lại khi gặp mắt cá chân tôi và nó ngẩng mõm lên với tôi. Tôi khom xuống hết sức thận trọng và chìa bàn tay về phía cái đầu gọt giũa hết sức đẹp đẽ, hết sức tinh tế. Con linh dương nhỏ không cựa quậy. Tôi sờ vào hai cánh mũi nó, ve vuốt chúng.   Nó để mặc tôi, mắt nó nhìn chăm chú vào mắt tôi. Và trong vẻ trìu mến câm lặng của đôi mắt ấy tôi thấy có điều gì đó cũng hệt như khóe nhìn đến là buồn và đến là khôn ngoan của chú khỉ con. Cả lần này nữa, tôi cũng không đủ khả năng để hiểu.   Dường như muốn tạ lỗi vì không nói được, con linh dương liếm các ngón tay tôi. Rồi nói khẽ khàng gỡ mồm khỏi tay tôi. Sau đó, vó chân nó lại tạo ra trên bậc thang gỗ tiếng những quân xúc xắc lăn đi. Nó đi khuất.   Tôi chỉ còn có một mình.   Nhưng trải qua mấy giây lát ấy, bình minh nhiệt đới vốn ngắn ngủi lạ lùng đã nhường chỗ cho rạng đông.   Từ trong lòng bóng tối, ánh sáng đột ngột vọt ra, lộng lẫy, sáng lóa, rạng rỡ. Tất cả bừng lên, long lanh, lấp lánh.   Những mũi tên hồng xuyên qua tuyết trên đỉnh Kilimanjarô.   Khối sương mù dày đặc bị sức nóng mặt trời đào bới, phá phách, hút đi, đã tản ra thành những màng mỏng, thành cột, thành cuộn, thành đường xoắn, thành những khối, những giải, những sợi, và thành vô vàn hạt nhỏ tựa như bột kim cương.   Cỏ lúc thường, khô cứng và màu vàng, lúc này trông mềm ra và lộng lẫy sương mai.   Trên những cây mọc rải quanh lều tôi ở, ngọn cây có những chùm gai lúc này đã được chuốt bóng lại, chim đang hót và khỉ đang kêu choe chóe.   Và đằng trước hàng hiên, khói sương dần dần tan biến để mở ra một khoảng ngắt xanh càng vô cùng khoáng đãng và bí ẩn, và tít sâu trong đó vẫn còn những đám mây nho nhỏ mới tụ đang chập chờn bay và đến lượt chúng cũng lại bốc đi nốt.   Tấm màn này vén lên tiếp tấm màn kia, trái đất mở màn diễn những trò ban ngày và của muôn loài.   Sau hết, ở cuối cánh rừng thưa, nơi vẫn còn bám lại một dải sương mờ nhẹ như lông tơ, thấy có bóng nước long lanh.   Hồ? Ao? Hay đầm nước lầy? Không phải loại nào cả, mà chỉ là một vùng nước rộng. Bên dưới hẳn là có những mạch nước ngầm yếu ớt và nước không đủ sức lan xa hơn nữa, chỉ run rẩy lăn tăn giữa những đám cỏ cao, giữa những lau sậy và những bụi cây rậm rạp.   Những con thú tụ tập bên đầm nước.   Trong chuyến viễn du tôi vừa thực hiện tại vùng Đông Châu Phi, dọc theo các con đường lớn và đường mòn - Kivu, Tanganyika, Uganda, Kenya - tôi đã thấy nhiều con thú đó. Những bầy thú bị tiếng xe ầm ầm xua đuổi tan tác, những bóng hình thoăn thoắt, hốt hoảng, rồi biến mất.   Đôi khi tôi cũng có dịp rình trong giây lát một con thú hoang, việc đó chỉ thực hiện được từ rất xa hoặc kín đáo, có thể nói là xem trộm cũng được.   Tôi đã chiêm ngưỡng những tư thế của những sinh mệnh tự do và thuần khiết ở chốn rừng rậm khô khan với một tình cảm đặc biệt pha lẫn thèm khát, hào hứng, ước ao và thất vọng. Dường như được gặp lại một thiên đường tôi từng mơ ước, từng quen biết từ thuở nào không còn nhớ nổi. Tôi đã kề ngưỡng cửa thiên đường ấy mà không thể vượt qua.   Hết gặp gỡ này sang gặp gỡ khác, tôi chợt thấy có nhu cầu - hẳn là một nhu cầu - trẻ con nhưng ngày càng thúc bách - được thấy mình nhập vào cõi hồn nhiên trong trắng của những buổi đầu đã rất xa xưa của thế giới.   Vì thế, trước khi trở lại châu Âu, tôi đã quyết định ghé qua một trong những Vườn hoàng gia xứ Kênya, những khu bảo tồn có những luật lệ cực kỳ khắt khe chở các thú hoang được sống trong tất cả các hình thái đời sống của chúng.   Và giờ đây, chúng kia rồi.   Mời các bạn đón đọc Sư Tử của tác giả Joseph Kessel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hai số phận - Jeffrey Archer
Tôi cũng từng bị nó quyến rũ ngay từ những trang viết đầu tiên. Là người rất khâm phục tác giả Jeffrey Archer, nhưng tôi lại yêu và ngưỡng mộ "những đứa con tinh thần" của ông trên hết thảy là "Wladek và William". Phần mở đầu cho ta cái cảm giác tò mò mà tôi không tài nào quên được. Hai số phận của hai con người hoàn toàn trái ngược ngay từ khi họ được sinh ra. Bên kia đại dương, tại đất nước Ba Lan, nơi Wladek lớn lên, cuộc đời dường như không mấy khi được bình yên. Wladek mất mẹ khi bà vừa sinh hạ cậu bé. Trong một lần đi săn, người anh trai (thuộc gia đình nhận nuôi cậu sau này) đã phát hiện được cậu trong rừng. Sự gặp gỡ định mệnh của hai người bắt đầu khi mà Wladek Rosnovski trốn sang Mỹ và đổi tên thành Albe Rosnovski. Xuyên suốt trong tác phẩm là những tình huống rất thực mà ta bắt gặp trong cuộc đời. Những xung đột giữa hai con người tưởng chừng khác nhau hoàn toàn về điểm xuất phát, liệu có đến cùng một điểm dừng? Cuộc đời của những người thành đạt đi lên từ hai bàn tay trắng và cách họ chèo lái bản thân mình trước những sóng gió cuộc đời, tình yêu và thù hận. Tất cả đem lại cho chúng ta một tác phẩm không thể tuyệt vời hơn. Các bạn hãy cùng tôi tìm hiểu số phận hai con người tuyệt vời này qua "Hai số phận" của Jeffrey Archer nhé! *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/04/1940) là nhà văn người Anh và cũng là một chính trị gia. Ông từng là một thành viên Quốc hội (1969-1974), và Phó Chủ tịch Đảng Bảo thủ (1985-1986). Jeffrey Archer sáng tác cuốn tiều thuyết Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là Kane and Abel) vào năm 1979. Tựa đề “Kane and Abel” dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980 và cuốn sách đã được phổ biến trên toàn thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của từ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS cũng với tên là Kane & Abel. *** Đám tang William Lowell Kane có đông người dự. Richard và Florentyna đứng một bên Kate, còn Virginia và Lucy đứng một bên. Bà nội Kane nếu còn sống chắc sẽ bằng lòng. Ba thượng nghị sĩ, năm hạ nghị sĩ, hai giám mục, hầu hết chủ tịch những ngân hàng lớn và ông chủ tờ Nhật báo phố Wall đã tới dự. Jake Thomas và các giám đốc ngân hàng Lester cũng có mặt. Họ cúi đầu cầu nguyện một ông Chúa mà William chẳng bao giờ thật sự cần đến. Không ai để ý đến hai ông già đứng phía sau đám đông. Họ cũng cúi đầu nhưng trông như không liên quan gì đến những người khác trong đám tang này. Họ đến chậm ít phút và sau khi làm lễ xong đã nhanh chóng ra về. Florentyna nhận ra ông già thấp hơn và có một bên chân hơi thọt đó bỏ đi một cách vội vã. Cô nói với Richard. Hai người không nhắc lại chuyện ấy cho Kate Kane biết. Mấy ngày sau, người cao lớn hơn trong hai ông già ấy đến gặp Florentyna tại cửa hàng của cô trên Đại lộ Năm. Ông ta nghe nói cô sắp trở về San Francisco nên có cần sự giúp đỡ của cô trước khi cô đi. Cô chăm chú nghe điều ông ta nói và vui lòng đáp ứng ngay yêu cầu của ông. Chiều hôm sau Richard và Florentyna đến khách sạn Nam tước. George Novak đã đứng đó đón và đưa họ lên tầng bốn mươi hai. Sau mười năm Florentyna hầu như không nhận ra được bố cô, lúc này đang ngồi thẳng trên giường, chưa phải dựa vào gối, đeo đôi mắt kính bán nguyệt ở đầu mũi và còn cười một cách ngang tàng. Hai bố con nói về những ngày hạnh phúc đã qua. Cười thì ít nhưng khóc thì nhiều. “Anh phải tha thứ cho chúng tôi, Richard,” Abel nói. “Người Ba Lan vốn là một giống tình cảm.” “Con biết. Mấy đứa trẻ của con có một nửa là Ba Lan.” Richard nói. Tối hôm đó họ cùng ăn với nhau, nếm món thịt bê quay rất ngon. Abel bảo như thế mới xứng với sự trở về của cô con gái hoang tàng. Ông nói về tương lai, dự kiến về những phát triển của công ty. “Ở mỗi khách sạn đều phải có một cửa hàng Florentyna,” ông nói. Cô cười và đồng ý. ... Mời các bạn đón đọc Hai số phận của tác giả Jeffrey Archer & Anh Thư (dịch).
Người Tình Của Hotboy - Rose Novel
Anh là một hotboy ngôn tình hiện đại khá lạnh lùng, lòng dạ khó đoán của trường, cô là học sinh mới trẻ trung hoạt bát đáng yêu. Khi người xinh xắn như cô gặp phải công tử khuynh thành độc mồm như anh: “ Tô Niên Niên, cô là lợn à!!!”  *** Nhìn thấy Tô Niên Niên bước vào điểm thi, ngạc nhiên nhất chính là Tống Dư Hi. Cô cắn môi, nhìn Tô Niên Niên kiên trì viết hết bài thi, trong lòng nói không ra được cảm giác gì. Nhưng Tô Niên Niên vẫn còn mơ màng, dù cho cố gắng thi xong, thành tích cũng chưa hẳn đã khả quan. Thầy cô coi thi cũng hết sức ngạc nhiên, nhìn Tô Niên Niên với trạng thái đó còn kiên trì thi, trong lòng cũng không tránh được thương xót, dù cho nỗ lực thế nào, thành tích chắc chắn cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đây là thi đại học, một hai điểm có thể quyết định được vận mệnh của mỗi người. Ngày đầu tiên thi xong, Tô Niên Niên đến bệnh viện ở một đêm, ngày hôm sau tiếp tục thi. Khi kỳ thi kết thúc, đi ra khỏi trường thi, tâm trạng hàng ngàn học sinh ở khoảnh khắc đó như nặng trĩu. Xung quanh dần vang lên tiếng gào thét, tiếng khóc, tiếng cười, Tô Niên Niên trong lòng nặng nề. ... Mời các bạn đón đọc Người Tình Của Hotboy của tác giả Rose Novel.
Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu - Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp không phải là cái tên lạ lẫm đối với những người yêu văn. Ông từng gây nhiều sóng gió trên văn đàn với những truyện ngắn Tướng về hưu, Con gái thủy thần ... Gần đây ông xuất hiện trở lại với nhiều tìm tòi mới, mà như tác giả là "cách tân về ngôn ngữ", tìm tòi trong "địa hạt" tiểu thuyết. Tác phẩm gây chú ý đầu tiên của ông là Tuổi hai mươi yêu dấu, hay gọi là tiểu thuyết đầu tay cũng được. Tác phẩm viết nhanh, không rườm rà nhưng có phần thiếu nhất quán vì đoạn cuối viết hơi vội.  Trong lần trả lời phỏng vấn Thụy Khuê của Đài RFI , tác giả nhận mình chỉ đạt sáu mươi phần trăm "thành công lực". Có lẽ bởi thế mà nhiều người từng hâm mộ ông trước đây cảm thấy thất vọng. Tuy nhiên, tác phẩm đánh dấu một bước ngoặt về mặt thể loại, từ truyện ngắn sang tiểu thuyết, và đáp ứng phần nào sự đòi hỏi của độc giả, đó là sự làm mới mình của nhà văn. Một vài người bạn sau khi đọc trả lời khá thẳng thắn. Anhnk thẳng thừng "Truyện gì mà toàn thấy văng tục!", ttkingdom cũng đồng tình "Hơi bệnh hoạn !!?". Đó cũng là lý do mà Tuổi hai mươi yêu dấu chưa được duyệt in ở VN, mặc dù đã được xuất bản tại Pháp, cả bản Việt ngữ và bản dịch Pháp ngữ. Truyện viết chân thực quá, chân thực đến lộ liễu, trắng bệch. *** Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950, quê quán: Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên ... Nông thôn và những người lao động vì thế để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong nhiều sáng tác của ông. ``Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn là người am hiểu nho học và mẹ, vốn là người sùng đạo Phật. Năm 1960, ông cùng gia đình về quê quán và định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ Nguyễn Huy Thiệp là một bông hoa nở muộn trên văn đàn. Vài truyện ngắn của ông xuất hiện lần đầu tiên trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1986. Chỉ một vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về các tác phẩm của ông. ``Có người lên án anh gay gắt, thậm chí coi văn chương của anh có những khuynh hướng thấp hèn. Người khác lại hết lời ca ngợi anh và cho rằnh anh có trách nhiệm cao với cuộc sống hiện nay (Lời cuối sách của NXB Đa Nguyên) Sở trường của Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn, có thể tạm được phân loại như sau: Về lịch sử và văn học: Kiếm Sắc, Vàng Lửa, Phẩm Tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút Thoáng Xuân Hương ... truyện ngắn mang hơi hướm huyền thoại hoặc "cổ tích": Những Ngọn Gió Hua Tát, Con Gái Thủy Thần, Giọt Máu, Muối Của Rừng, Chảy Đi Sông Ơi, Trương Chi ... về xã hội VN đương đại: Không Có Vua, Tướng Về Hưu, Cún, Sang Sông, Tội Ác và Trừng Phạt ...; về đồng quê và những người dân lao động: Thương Nhớ Đồng Quê, Những Bài Học Nông Thôn, Những Người Thợ Xẻ ... Ngoài ra, Nguyễn Huy Thiệp còn viết nhiều kịch, tiêu biểu là Xuân Hồng, Còn Lại Tình Yêu, Gia Đình (hay Quỷ Ở Với Người, dựa theo truyện ngắn Không Có Vua), Nhà Tiên Tri, Hoa Sen Nở Ngày 29 Tháng 4 ...; và nhiều thơ (chưa xuất bản tập thơ nào, song thơ xuất hiện khá nhiều trong các truyện ngắn của ông). Năm 1994, Nguyễn Huy Thiệp gác bút và xoay ra mở nhà hàng ở Hà Nội tên là Hoa Ban, rất ăn khách. *** Cha ta và Ta là một. Tân Ước Vinh quang đẹp đẽ của nhà văn là làm cho những người tư tưởng chịu tư tưởng. Delaccroix Con cũng hại ta nữa sao Brutus? Julex Ce'sar46 Tôi đã rời nhà ra đi hơn một năm trời. Trong khoảng thời gian đầu tiên, thú thực tôi cũng không nhớ gì nhiều về gia đình tôi, có lẽ bởi liên tiếp những sự việc xảy ra đã cuốn tôi đi, như người ta nói cuốn theo chiều gió. Tôi đã sững sờ vì một lần lên bờ cắt tóc, soi trong gương tôi nhận ra đầu mình bạc trắng! Tôi không tin được là tôi có thể biến đổi đến như ngần ấy. Trong tiệm cắt tóc có một tập báo cũ, vô tình tôi vớ lên xem. Tôi lặng người đi khi đọc báo thấy tin bố tôi vừa mất! Nước mắt tôi trào ra. Những dòng chữ nhảy nhót, nhòa đi trước mắt tôi. Tôi gục xuống như bị một đòn trời giáng, run rẩy hết cả chân tay. Mọi người chạy lại đỡ tôi nhưng tôi gạt đi rồi chạy ra ngoài, vừa chạy vừa khóc nức nở. Trời đất như sụp đổ trước mặt tôi. Bố! Bây giờ tôi mới biết khóc như cha chết là khóc thế nào. Chắc chắn đó là cái khóc lớn nhất đời một con người. ... Mời các bạn đón đọc Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu của tác giả Nguyễn Huy Thiệp.
Tiểu Long Nữ - Nguyễn Huy Thiệp
Tiểu thuyết là một thể loại văn học đặc sắc có cả ở phương Đông lẫn phương Tây. Tiểu thuyết văn xuôi có ở Việt Nam xuất hiện vào khoảng thời gian đầu thếkỷ ~ khi mà chữ quốc ngữ bắt đầu đuởc phổ biến. Nhiều nhà nghiên cứu văn học coi Hoàng Ngọc Phách, tác giả của tiểu thuyết "Tố Tâm" (xuất bản năm 1925) là người đầu tiên viết tiểu thuyết ở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có ý kiến bác lại, cho rằng tiểu thuyết ở Việt Nam có sớm hơn (khoảng trong những năm Đại chiến thế giới thứ nhất) và những tiểu thuyết đó ra đời đầu tiên ở Nam Bộ. Lỗ Tấn (nhà văn lớn Trung Quốc) khi trích dẫn lời người xưa cho rằng "nhà tiểu thuyết gom góp những câu nói vụn vặt, những mẩu chuyện vụn, lấy thí dụ gần đó để làm ra những cuốn sách ngắn, gọn, tuy vậy cũng có thể lấy đó để răn mình, sắp xếp việc nhà". Những nhà tiểu thuyết đầu tiên ở Trung Quốc phần lớn "thuộc dòng phái sinh ra tử các chửc quan nhỏ, sách họ làm là do câu chuyện đường phố, lời nói ngõ làng, vào lỗ tai ra lỗ miệng mà tạo ra". Trong biển cả tiểu thuyết mà các "nhà văn" sáng tác ra (khái niệm "nhà văn" là một khái niệm chỉ những người viết hư cấu, "bịa đặt" - chữ của Nguyễn Công Hoan - hẳn cũng chỉ là một khái niệm mới, ở ta từ thế kỷ XIX về trước không có) bao gồm đủ mọi thử chuyện ái, ố, hỷ, nộ trên đời: Tính chất thị phi, không tin cậy khiến người ta thậm chí nghi ngờ tư cách của chính những người viết ra nó. Trong câu trích dẫn trên đây từ sách của Lỗ Tấn ("Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Hoa") tôi đặc biệt chú ý đến chi tiết người viết tiểu thuyết ("nhà văn' ) đều là "các chức quan nhỏ'? Vì sao lại thế? Các chức quan nhỏ từ xưa tới nay phần lớn đều nghèo, họ thuộc bậc thang thấp nhất trong giới quan trường nhưug lại đứng đầu trong "bọn thảo dân". Địa vị "trung dung" không cao, không thấp "chân không đến đất, cật không đến trời", cộng với sự rỗi hơi trong công việc khiến họ có thể có nhiều cơ hội "nắm thông tin" trong thiên hạ nhiều hơn những người ở tầng lớp khác. Chữ nghĩa đầy mình cũng chẳng làm gì, thời gian nhàn rỗi cũng chẳng làm gì… Vậy thì tôt nhất ngồi viết tiểu thuyết. Trong quan niệm của tôi, truyện ngắn là một thể loại viết khó hơn tiểu thuyết nhiều. Nó là một thứ "luyện công" cho nghệ thuật viết văn, là một thử mỹ nghệ kim hoàn đòi hỏi tinh vi, khéo léo và "bác học". Tiểu thuyết tạp hơn, có thể viết "tất tay" và không phải tôn sức nhiều như truyện ngắn. Đương nhiên, đây là tôi muốn nói đến những nhà văn có tài Trời cho thực sự, họ hoàn toàn có thể viết những tiểu thuyết (đọc được, không cầu toàn lắm vì thể loại tiểu thuyết không đòi hỏi cầu toàn) dễ dàng như "thò tay vào túi lấy đồ vật, Nhiều cuốn tiểu thuyết người ta chỉ viết trong vòng một tháng. Tôi cũng đã từng có cơ hội làm việc như vậy (tiểu thuyết "Tuổi 20 yêu dấu" viết trong một tháng và viết tiểu thuyết "Tiểu long nữ" trong 15 ngày). Tôi nghĩ rằng ở những nhà tiểu thuyết "đại hiệp" như Kim Dung thì việc viết ra "Tiếu ngạo giang hồ, "Thiên long bát bộ" v.v… chắc có lẽ cũng không mất nhiều công sức cho lắm. Nhà văn Nguyễn Việt Hà (sinh năm 1962 ở Hà Nội) quan niệm khá chính xác về sự "bừa", hồn nhiên, ôm đồm và trần tục của tiểu thuyết. Xét về khía cạnh nào đó, tiểuthuyết có lẽ không phải là một thể loại "đứng đắn" nếu nhìn bằng con mắt nghiêm khắc của các học giả "đại thuyết". "Tiểu thuyết - sách mua vui" cần phải được các nhà văn ở ta nhận thức ra và quan niệm lại (ít nhất cũng giống như những nguởi "cổ xưa"), nhu thế thì "chữ nghĩa mới tuôn ra trên đầu ngọn bút như nước chảy" được. Trong nhiều năm nay, rất tiếc giới nghiên cứu lý luận văn học ở ta và các nhà phê bình văn học thuộc môn phái "hành quyết" đã đặt vào tiểu thuyết nhiều rào chắn quá, khiến cho các nhà văn thực sự muốn viết cũng sợ hãi không dám viết tiểu thuyết. "Tiểu long nữ" là một cuốn tiểu thuyết thời sự. Nó được viết ra từ một chuyện nhảm nhí và tôi nghĩ cũng không phải khó khăn gì mấy (nó không bõ để tôn sức). Thực ra, ý nghĩa của nó cũng chỉ để mua vui và kiếm tiền. Có lẽ bởi vậy nó sẽ gần với quan niệm của các nhà tiểu thuyết "đại hiệp" như Tản Đà, Lê Văn Trương, Hồ Biểu Chánh… ở ta ngày xưa chăng? Nguyễn Huy Thiệp *** Trong nhà Chi. Trên chiếc ghế xa-lông rách, Thúy Vinh ngồi nép vào một góc sợ hãi. Bà Dung ôm Chi ngồi ở ghế, Chi vẫn nước mắt sụt sùi. Khôi ra treo tấm biển: "Nghỉ không bán hàng" rồi khép cửa lại đi vào. Khôi đi đi lại lại trước mặt ba người. Khôi ra rút soạt con dao bầu lăm lăm trong tay. Khôi dừng lại trừng mắt hỏi Chi: - Thế hiếp dâm mày nó là thằng nào? Chi sợ hãi chỉ Thúy Vinh. Chi nhìn con dao trên tay Khôi, khiếp đảm: - Con không biết… Bố hỏi chị ấy! Khôi quay sang Thúy Vinh, uy hiếp. Khôi dứ con dao trước mặt Thúy Vinh: - Nó là thằng nào? Nói! Thúy Vinh sợ hãi, lắp bắp: - Ông ấy… Ông ấy là Nguyễn Quốc Lương, một quan chức bự… Khôi cười nhạt: - Thế thì nó là một thằng có tóc… Được rồi! Tóm thằng có tóc không ai tóm thằng trọc đầu! Tốt lắm! Thế thì tốt lắm! Thế thì nó chết đầu nước với tao… Tao sẽ cho nó đi tù phen này… Thế mày quen nó lâu chưa? ... Mời các bạn đón đọc Tiểu Long Nữ của tác giả Nguyễn Huy Thiệp.