Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Năm Tháng Rực Rỡ

Cuốn truyện "Những tháng năm rực rỡ" kể về Ah Reum, cậu bé 17 tuổi mang vẻ già nua của ông lão 80 do mắc hội chứng lão hóa sớm. Ae Ran Kim, tốt nghiệp khoa Biên kịch Đại học Nghệ thuật quốc gia Seoul, chủ nhân của nhiều giải thưởng văn học Hàn Quốc danh giá như giải Lee Hyo-seok, giải Shin Dong-yeop, giải Lee Sang… Đặc biệt, năm 2005, tập truyện ngắn Bố ơi, chạy đi đã giúp Ae Ran Kim trở thành nhà văn trẻ nhất từng nhận giải thưởng văn học Hankook Ilbo uy tín đầy thuyết phục khi mới 25 tuổi và được đánh giá là cây viết trẻ tài năng của làng văn học Hàn Quốc. Các tác phẩm của Ae Ran Kim tập trung vào hình ảnh con người trong cuộc sống hiện đại, đưa ra cái nhìn mới mẻ về xu hướng thay đổi của xã hội, nhưng đủ khéo léo, thuyết phục và nhận được cảm tình của độc giả. Những tháng năm rực rỡ kể về một câu chuyện cảm động xoay quanh tình cảm, sự yêu thương giữa các thành viên trong gia đình kỳ lạ có bố mẹ trẻ nhất và đứa con già nhất hẳn cũng đã quen thuộc với các khán giả Việt Nam qua bộ phim cùng tên do Song Hye Kyo và Kang Dong Won thủ vai. Câu chuyện được dẫn dắt bởi giọng kể của Ah Reum, một cậu bé tuy mới 17 nhưng đã có hình hài của cụ ông 80. Những nỗi đau mà em và gia đình phải gánh chịu đôi khi được bộc lộ qua giọng văn ngây ngô và góc nhìn trong sáng, có lúc thốt lên những câu hỏi khiến người ta khó thốt nên lời. “Bố mẹ có tôi khi mới mười bảy tuổi. Năm nay tôi vừa tròn mười bảy. Cũng chẳng có cách nào để biết chắc tôi có thể lớn lên thành mười tám hay mười chín tuổi hay không. Điều đó không do chúng tôi định đoạt. Điều duy nhất chúng tôi biết, là thời gian không còn nhiều.” Ah Reum mang trong mình căn bệnh quái ác, em không biết liệu còn có thể đón sinh nhật tiếp theo. Nhưng trái tim yếu ớt chưa lúc nào thôi háo hức rộn ràng trước vẻ đẹp của cuộc sống, ngôn từ, tình cảm gia đình, cùng chút rung động đầu đời với “cô bạn” qua thư… Và cuộc sống, dẫu ngắn, dẫu dài, vẫn là những tháng năm rực rỡ trong quãng thời gian cậu "tồn tại". Nhìn những đứa trẻ bằng tuổi, cậu bé Ah Reum không khỏi chạnh lòng. “Những đứa trẻ cứ lớn nhanh như thổi. Còn tôi thì già đi trông thấy. Khoảng thời gian một tiếng với ai đó, đối với tôi như một ngày và một tháng đối với người khác lại là một năm với tôi. Bây giờ tôi còn già hơn cả bố tôi. Bố nhìn vào tôi để thấy được khuôn mặt lúc ông tám mươi tuổi. Còn tôi nhìn vào bố để bắt gặp hình ảnh khi tôi ba mươi tư. Có một sự đối lập, phản chiếu giữa một tương lai chưa đến và một quá khứ chưa qua. Tôi và bố tôi thường hỏi nhau rằng: Làm bố mẹ ở tuổi mười bảy có phù hợp hay không? Mất đứa con ở tuổi ba tư có phù hợp hay không?” Cha mẹ cậu dường như đâu đó trong tiềm thức vẫn mắc kẹt ở tuổi 17 lúc sinh ra cậu, nhưng chắc chắn họ biết cách yêu thương cậu hơn ai hết. Bố hỏi tôi rằng: “Nếu được sinh ra lần nữa thì con muốn trở thành gì?” Tôi đã dõng dạc trả lời: “Thưa bố, con muốn trở thành bố ạ.” Bố tôi hỏi tiếp: “Còn rất nhiều điều khác tốt hơn, tại sao con lại muốn là bố?” Tôi thoáng bối rối nhưng vẫn nói rằng: “Bởi vì con muốn biết tấm lòng của bố sau khi sinh con ra đời.” Bố tôi khóc. Tác phẩm Những tháng năm rực rỡ  từng lấy đi nước mắt của hàng triệu độc giả. Khi gấp lại cuốn sách, qua những lời tâm sự của nhân vật chính, bạn đọc sẽ quý trọng, thêm yêu cuộc sống của chính bản thân mình. *** Bố mẹ có tôi khi mới mười bảy tuổi. Năm nay tôi vừa tròn mười bảy. Cũng chẳng có cách nào biết chắc tôi có thể lớn lên thành mười tám hay mười chín tuổi hay không. Điều đó không do chúng tôi định đoạt. Điều duy nhất chúng tôi biết, là thời gian không còn nhiều. Những đứa trẻ cứ lớn nhanh như thổi. Còn tôi thì già đi trông thấy. Khoảng thời gian một tiếng với ai đó, đối với tôi như một ngày. Và một tháng đối với người khác lại là một năm với tôi. Bây giờ tôi còn già hơn cả bố tôi. Bố nhìn vào tôi để thấy khuôn mặt mình khi tám mươi tuổi. Còn tôi nhìn vào bố để tìm hình ảnh khi tôi ba mươi tư. Có một sự đối lập, phản chiếu giữa một tương lai chưa đến và một quá khứ chưa qua. Tôi và bố tôi thường hỏi nhau rằng: Làm bố mẹ ở tuổi mười bảy có phù hợp hay không? Mất đứa con ở tuổi ba mươi tư có phù hợp hay không? § Bố hỏi tôi rằng: “Nếu được sinh ra lần nữa thì con muốn trở thành gì?” Tôi đã dõng dạc trả lời: “Thưa bố, con muốn trở thành bố ạ.” Bố tôi hỏi tiếp: “Còn rất nhiều điều khác tốt hơn, tại sao con lại muốn là bố?” Tôi thoáng bối rối nhưng vẫn nói rằng: “Bởi vì con muốn biết tấm lòng của bố sau khi sinh con ra đời.” Bố tôi khóc. Và đây là câu chuyện về một cặp cha mẹ trẻ nhất và một đứa con già nhất. “Mỗi khi một ngọn gió thổi qua, vốn từ vựng ít ỏi trong tôi lại xáo trộn dữ dội. Giống như những chú cá bị hong khô trong chính làn gió biển mặn mòi, những từ ngữ đó khiến tôi thấy thể tích cơ thể mình như đang bị thu nhỏ lại giữa một không gian cứ rộng ra mãi. Hồi nhỏ, tôi hay tập viết lại tên các sự vật mà tôi học phát âm lần đầu. Đây là “tuyết”, kia là “đêm”, đằng xa là “cái cây”, dưới chân có “đất”, “tang sin”* nghĩa là “bạn”... Tôi tập làm quen với cuộc sống bằng âm thanh, rồi sau đó mới dần dần tập viết lại từng âm tiết một. Cho đến bây giờ, đôi khi tôi vẫn thấy ngạc nhiên rằng mình đã biết đến tên các sự vật theo cái cách như thế.” Thuở nhỏ, tôi nói ríu ran suốt cả ngày. “Mẹ ơi, cái này là cái gì thế ạ? Cái kia là cái gì hả mẹ?” Tôi cứ nói luôn miệng như vậy khiến mọi người xung quanh phải chóng mặt với tôi. Mọi cái tên đều trong sáng và nhẹ nhàng đến mức chẳng thể dính được vào sự vật. Và tôi thì cứ hỏi đi hỏi lại những điều hôm qua tôi đã nghe, hôm kia tôi đã học, như thể mới lần đầu tiên. Chỉ cần tôi đưa ngón tay lên chỉ, là những từ ngữ, những âm thanh lạ lùng đó lại đua nhau rớt ra khỏi miệng mọi người trong nhà tôi. Dường như khi tôi cất tiếng hỏi thì thứ gì đó sẽ chuyển động giống như là cảnh vật đung đưa trong gió vậy. Vì thế, tôi khá là thích thú câu hỏi: “Cái này là cái gì?” Thậm chí tôi còn thích câu hỏi này hơn cả câu trả lời của mọi người. “Bi” thì là mưa, “nat” thì là ban ngày, “yeo-rưm” thì là mùa hè... Mỗi ngày trôi qua tôi lại học được kha khá từ vựng. Có những từ tôi hay nhắc đến và cũng có những từ tôi chẳng sử dụng bao giờ. Người ta bảo rằng cứ gieo thứ gì xuống mặt đất thì ắt sẽ có cái gì đó khẽ cựa mình nhô lên như mầm cây. Khi tôi gọi “yeo-rưm” là mùa hè, dường như tôi có thể sở hữu nó. Tôi tin như vậy và còn hỏi nhiều hơn. Cái này gọi là “đất”, cái này gọi là “cây”, còn đây nữa là “bạn”... Cái này, cái kia, cái đó, mọi thứ cứ lặp đi lặp lại và chuyển động theo nhịp hơi thở của tôi. Nếu tôi phát âm từ “kư-keot” (cái đó), tôi cảm thấy một vòng tròn đồng tâm bắt đầu mở rộng ra từ âm thanh “cái đó”. Thỉnh thoảng tôi còn cảm thấy nó to lớn như thế giới của tôi vậy. Bây giờ tôi đã biết gần hết những từ cần thiết cho cuộc sống của tôi. Điều quan trọng nhất có lẽ là những từ đó đo đếm được độ rộng lớn của cái thế giới bên ngoài cứ ngày một thu nhỏ cơ thể của tôi. Khi nói từ “gió”, tôi mường tượng ra hàng nghìn phương hướng thay vì chỉ là bốn phương. Khi nói từ “phản bội”, tôi thấy mình như đang đuổi theo bóng cây thánh giá cứ đổ lúc một dài hơn dưới ánh hoàng hôn. Khi gọi tiếng “bạn”, tôi như đang thăm dò một vùng đất bằng phẳng, ẩn giấu chiều sâu thăm thẳm, tựa như có lớp tuyết phủ che lấp một khe hở sâu bên dưới. Dường như đó cũng là việc khó khăn nhất trên đời này. Gió vẫn cứ thổi như thế, và tôi, từ khi sinh ra chưa từng một lần được trẻ. Vậy nên, đương nhiên là những lời tôi nói cũng vậy thôi. Mời các bạn đón đọc Những Năm Tháng Rực Rỡ của tác giả Ae-ran Kim.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiếc Chìa Khóa
Vẫn motif cuộc tình tay ba tay tư tuy không rối ren như Chữ vạn nhưng lại bệnh hoạn khó hiểu hơn Chữ vạn. Một ông chồng liệt dương lại đi ráp với 1 cô vợ bề ngoài thuỳ mị nết na nhưng ẩn chứa bên trong là một người đàn bà - nói thế nào cho đúng nhỉ ? - đúng là dâm đãng vô độ - nhưng từ này là từ tiêu cực chỉ để chỉ phụ nữ lăng loàn - còn từ điển của chúng ta chẳng có một từ nào để thể hiện cái gọi là “bản chất tình dục mạnh mẽ” của một người phụ nữ. Vậy mới thấy Việt Nam và cả phương Đông nói chung vẫn còn kì thị phụ nữ lắm lắm, và cái quan điểm này như một cái bẫy trói chặt người phụ nữ Á đông vào một khuôn khổ ngàn đời là lúc nào cũng phải “thuỳ mị”, “kín đáo”...mới là người phụ nữ đích thực . Nữ chính trong Chiếc Chìa Khóa ở trong 1 cái bẫy như vậy đó, nàng xinh đẹp và tràn đầy sức sống, bản thân nàng nhận thấy mình “hiếu dâm”, nhưng nàng không biết phải làm sao, vì đó là bản năng cửa nàng, nàng cũng rất đau khổ vì nàng là con nhà gia giáo, yêu chồng nhưng chồng lại khiến nàng không thỏa mãn, một mặt nàng khao khát ái tình, mặt khác lại luôn tỏ ra nết na thuỳ mị và ghê tởm mọi hành động ái tình mà chồng bày ra. Người chồng yêu vợ và hiểu vợ đã bày ra trò viết nhật ký, tuy bề ngoài là giấu diếm nhưng lại cố tình để chìa khoá cho vợ nhìn thấy và mở đọc, rồi người vợ muốn đáp lại chồng và muốn giải phóng bản thân, cũng ghi nhật ký để bày tỏ với chồng những ước muốn thầm kín của mình... Chuyện nếu chỉ có vậy thì cũng còn dễ hiểu , nhưng câu chuyện đã vượt quá xa sự hiểu biết tầm thường của mình về ái tình nam nữ, khiến mình cảm thấy bệnh hoạn và không thực. Mặc dù trước giờ đã đọc nhiều sách Nhật, biết về văn hóa Nhật tuy cũng là văn hoá Á đông nhưng rất khác biệt với Việt nam hay Trung hoa, nhưng motif cuốn sách này quả thực là quá quá khác biệt ???? đến nỗi mình không hiểu ông chồng lẫn bà vợ nghĩ gì khi bày ra trò chơi ái tình như vậy. Mình có nên kể ra mọi trò ấy ở đây không nhỉ ? Hay là cứ úp mở để mọi người tìm đọc cho hấp dẫn nhỉ ? Hehe, dù sao cốt chuyện cũng bình thường thôi, chỉ có văn tả thực hơi sock tí, dâm thư chỉ dành cho trẻ em trên 25 tuổi nha. *** Tanizaki Jun’ichirō (24/7/1886 - 30/7/1965) là một thiên tài văn chương với một văn nghiệp đồ sộ. Ông là người kể chuyện có duyên nhất trong những cây viết tiền chiến, nội dung các tác phẩm của ông phần nhiều khai thác cảnh sống hoan lạc, đồi phế của xã hội cũ đang suy tàn và miền sâu thẳm phong kín của địa ngục nội tâm con người muôn thuở. Văn chương Tanizaki vừa thâm trầm, cổ kính, vừa bóng bẩy, diễm tình, vừa đồi phế bệnh hoạn nhưng không kém phần tinh tế. Một số tác phẩm Tình Khờ Xâm mình (1910) Chữ Vạn (1928) Truyện Shunkin (1933) Con mèo, Shōzō và hai người đàn bà (1936) Chiếc Chìa Khóa (Hai cuốn nhật ký) (1956) Nhật ký giả điên (1961) Mong Manh Hoa Tuyết Nhật Ký Già Si ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Chìa Khóa của tác giả Tanizaki Junichiro.
Bóng Tối Thời Con Gái
Nhã Ca tên thật là Trần Thị Thu Vân, sinh năm 1939 tại Huế. Từ 1960 chuyển vào sống tại Saigon. Xuất hiện lần đầu trên tạp chí Hiện Đại số ra mắt với 3 bài thơ: Bài Nhã Ca Thứ Nhất, Ngày Tháng Trôi Đi và Thanh Xuân, bút hiệu Trần Thy Nhã Ca đã để lại một ấn tượng sâu sắc.           Thực ra, Nhã Ca đã có thơ, văn đăng từ rất sớm, trên tờ Văn Nghệ Học Sinh của Lê Bá Thảng, khoảng giữa thập niên 1950, với bút hiệu khác. Khi đó, nhà thơ Trần Dạ Từ, người bạn đời của bà sau này, phụ trách phần bài vở.   Trong 15 năm, từ 1960 đến ngày 30-4-1975, bà đã xuất bản 36 tác phẩm. Hai lần được trao giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc. Lần thứ nhất, năm 1965 với thi phẩm “Nhã Ca Mới”. Lần thứ hai, 1966, với truyện dài “Đêm Nghe Tiếng Đại Bác”.  Nhã Ca Mới ấn hành năm 1964 với Nguyên Sa đề tựa, Dương Nghiễm Mậu viết bạt, Nghiêu Đề vẽ bìa, Duy Thanh, Nguyễn Trung vẽ chân dung, Đằng Giao, Cù Nguyễn, Viên Linh vẽ phụ bản. Tập thơ đã được trao giải Thi Ca Toàn Quốc. Trong số các tác phẩm của Nhã Ca, “Giải Khăn Sô Cho Huế” viết về biến cố tết Mậu Thân 1968 tại Huế, đã khiến bà bị nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội giam cầm một thời gian và đưa bà - nữ tác giả duy nhất - vào danh sách 10 “Biệt kích văn hóa” ác ôn nhất ở Miền Nam Việt Nam cùng với Mai Thảo, Duyên Anh, Chu Tử, Nguyễn Mạnh Côn, v.v… Sau đó,  Nhã Ca được mô tả  thành "nhân vật phản diện" trong tiểu thuyết điệp báo đăng nhiều kỳ trên báo Công An, rồi được in thành sách, dựng thành phim "Vụ Án Hồ Con Rùa". Bà là nhà văn miền Nam đầu tiên và sớm nhất có tác phẩm được dịch qua 2 ngoại ngữ Pháp và Anh. Đó là các cuốn “Đêm Nghe Tiếng Đại Bác” được Liêu Trương dịch sang tiếng Pháp với nhan đề “Le cannon tonnent la nuit” và cuốn “Đoàn Nữ Binh Mùa Thu” được Barry Hilton dịch sang tiếng Anh với tựa đề “The Short Times”. Từ tháng 9-1988, bà cùng chồng là nhà thơ Trần Dạ Từ và các con rời Việt Nam sang Thụy Điển, nhờ sự can thiệp của P.E.N International và sự bảo lãnh trực tiếp của Thủ Tướng Thụy Điển Ingvar Karlsson. Từ 1992, định cư tại California, tiếp tục viết văn làm báo, cùng chồng sáng lập và điều hành hệ thống Việt Báo Daily News tại Hoa Kỳ. *** NĂM tôi mười bẩy thì chị Hiền lấy chồng. Chị Hiền lấy anh Thân, một giáo sư tư thục. Anh Thân người Bắc, hơi già so với tuổi chị Hiền, nhưng được cái dáng điệu nhanh nhẹn, trẻ trung. Dĩ nhiên tôi cũng ở chung với anh chị, vì chúng tôi không còn bố mẹ. Anh Thân cũng là người mồ côi sớm giống như chị em chúng tôi. Anh di cư vào đây một mình, có một ít chú bác nhưng cũng ít liên lạc. Cuộc sống chung của chúng tôi vì thế cũng dễ chịu. Hai chị em tôi vốn sống đùm bọc nhau từ nhỏ. Tôi không nhìn thấy mặt thầy mẹ tôi bao giờ nhưng theo chị Hiền thì tôi giống mẹ tôi lắm ; còn chị thì giống thầy tôi. Tôi cũng nghĩ như vậy vì hai chị em tôi đều không giống nhau cả về khuôn mặt cũng như tâm tính. Tuy nhiên không phải vì thế mà chúng tôi ít thương yêu nhau. Tôi thương và hết sức nghe lời chị Hiền. Mặc dầu tôi đã mười bẩy tuôi, nhưng đối với chị, tôi còn như một con bé lên mười, lên mười hay lên chín cũng vậy. Chị Hiền có một tính dễ làm tôi khó chịu là không hay nói. Mỗi khi tôi có lỗi, chị chỉ lạnh lùng với tôi và cử chỉ lạnh nhạt đó làm tôi đau đớn còn hơn những vết roi quất. Nhưng từ năm tôi mười bảy và chị lập gia đình với anh Thân rồi thì chị dịu dàng với tôi hơn. Anh Thân cũng rất vui tính. Có lẽ anh cũng rất thương mến tôi nhưng ít khi có dịp biểu lộ tình thương ấy vì tôi đã lớn… Ngày trước, khoảng hai năm trước đó, khi quen và yêu chị Hiền, anh vẫn thường dẫn tôi đi ăn kem, đi xi nê, hoặc tới thăm các bạn bè của anh, nhưng bây giờ thì không. Nhiều lúc, tôi cũng thấy là tôi đã mất luôn chị Hiền, vì chị là một người vợ tốt, thích chiều chuộng chồng và để hết tâm trí vào gia đình. Ngôi nhà chúng tôi ở có hai phòng ở dưới và một căn gác nhỏ phía sau. Kiểu nhà thông thường ở Sàigòn, nhưng sang được một căn ở khu sạch sẽ, yên tĩnh như khu chúng tôi ở không phải là dễ. Tôi chiếm căn gác phía sau và sống một mình hầu như riêng biệt trên đó. Sự riêng biệt cũng nhiều khi làm tôi tủi thân, nhất là khi chị Hiền mang thai. Khi nghe tin chị có thai, tôi thấy tình thương còn lại ở chị Hiền dành cho tôi như mất thêm đi một nửa. Có điều đặc biệt là từ đó anh Thân thường hay vắng nhà hơn trước. Nhưng chị Hiền không buồn. Chị nói với tôi là anh ấy cần phải làm việc nhiều hơn vì sắp làm cha. Gia đình, trong những ngày chị Hiền mang thai, có phần vui vẻ hơn. Anh Thân, chị Hiền đều có vẻ rạng rỡ và tôi chắc anh chị đều vui vẻ thật tình. Anh Thân có nhiều bạn lắm. Thường thường chủ nhật họ hay kéo lại nhà ăn uống, hội họp, bởi chị Hiền làm thức ăn khéo léo nên các buổi hội họp rất vui. Với lại tính anh Thân vốn cởi mở, yêu thích bè bạn. Nhưng tôi thì không thích những ồn ào đó. Trong khi dưới nhà ăn uống vui vẻ, tôi rúc đầu trên căn gác đọc tiểu thuyết. Tôi cũng rất thích viết văn và ưa trở thành văn sĩ. Tôi tập viết đủ loại nhưng tôi không thành công về mặt này. Cuối cùng tôi xoay ra tập vẽ và muốn trở thành một họa sĩ. Thật bất ngờ, tôi có vẻ thành công hết sức về mặt này. Anh Thân cũng như chị Hiền đều không đề ý tới những việc tôi làm. Lần đầu tiên trông thấy một bức tranh bột màu trên căn gác của tôi, anh ngạc nhiên, hỏi : - Hạnh vác bức tranh này ở đâu về vậy ?   Mời các bạn đón đọc Bóng Tối Thời Con Gái của tác giả Nhã Ca.
Thả Mồi Bắt Bóng
Nhà văn Võ Văn Trực sinh năm 1936 tại làng Hậu Luật, tỉnh Nghệ An. Cầm bút từ những năm sáu mươi, ông viết nhiều thể loại: thơ, văn, bút ký và biên khảo. Tác giả nhiều tập thơ trong đó có Trăng phù sa, được giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội năm 1983; nhưng chính hai cuốn tiểu thuyết Chuyện làng ngày ấy (viết năm 1990, in ra bị tịch thu ngay, được nhà xuất bản Lao Động tái bản tại Hà Nội năm 2005, và báo Văn Học California in nhiều kỳ và xuất bản thành sách năm 2006) và cuốn Vết sẹo và cái đầu hói, (nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, in năm 2006) đã gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. *** Nhà văn Võ Văn Trực, người được mệnh danh là “Nhà văn của làng quê”, những câu chuyện ông viết ra khiến người ta không khỏi khâm phục. Đôi khi, nói đến các nhà văn, người ta nghĩ tới những con người bay bổng, lãng mạn, thi vị hóa cuộc đời này, nhưng Võ Văn Trực lại là con người của cuộc đời chân thực, lầm lũi và vạm vỡ khác thường. Nhà văn Võ Văn Trực, một nhà văn có sự nghiệp sáng tác trải rộng trên các địa hạt thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian đã qua đời ngày 5/4/2019 tại Hà Nội sau thời gian lâm bệnh.   Giải thưởng: Giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội với tập thơ Trăng phù sa năm 1983; Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội về thơ (1976 - 1980) và bút ký (1981 - 1985); Giải thưởng Bộ Giao thông Vận tải với tập bút ký Đèo lửa đèo trăng năm 1987.  Các tác phẩm tiêu biểu: Người anh hùng đất Hoan Châu (1976); Trăng phù sa (1983); Tiếng ru đồng nội (1990); Ngày hội của rạng đông (1978); Hành khúc mùa xuân (1980); Trận địa quê hương (1972); Chú liên lạc đội Xích vệ (thơ thiếu nhi - 1971); Câu chuyện những dòng sông (1983); Chuyện làng ngày ấy (1993); Hương trong vườn bão (1995); Vè Nghệ Tĩnh (in chung - 1962); Kho tàng ca dao xứ Nghệ (in chung - 1996); Đèo lửa đèo trăng (1987); Những dấu chân lịch sử (1985); Truyền thuyết núi Hai Vai (1990); Nắng sáng trời ngoại ô (1979); Những thi sĩ dân gian (1996).  Mời các bạn đón đọc Thả Mồi Bắt Bóng của tác giả Võ Văn Trực.
Chuyện Làng Ngày Ấy
Cùng tác giả Cọng rêu dưới đáy ao Câu chuyện chân thực và xúc động về làng quê Việt Nam thời kỳ cải cách ruộng đất *** Nhà văn Võ Văn Trực, người được mệnh danh là “Nhà văn của làng quê”, những câu chuyện ông viết ra khiến người ta không khỏi khâm phục. Đôi khi, nói đến các nhà văn, người ta nghĩ tới những con người bay bổng, lãng mạn, thi vị hóa cuộc đời này, nhưng Võ Văn Trực lại là con người của cuộc đời chân thực, lầm lũi và vạm vỡ khác thường. Nhà văn Võ Văn Trực, một nhà văn có sự nghiệp sáng tác trải rộng trên các địa hạt thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian đã qua đời ngày 5/4/2019 tại Hà Nội sau thời gian lâm bệnh.   Giải thưởng: Giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội với tập thơ Trăng phù sa năm 1983; Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội về thơ (1976 - 1980) và bút ký (1981 - 1985); Giải thưởng Bộ Giao thông Vận tải với tập bút ký Đèo lửa đèo trăng năm 1987.  Các tác phẩm tiêu biểu: Người anh hùng đất Hoan Châu (1976); Trăng phù sa (1983); Tiếng ru đồng nội (1990); Ngày hội của rạng đông (1978); Hành khúc mùa xuân (1980); Trận địa quê hương (1972); Chú liên lạc đội Xích vệ (thơ thiếu nhi - 1971); Câu chuyện những dòng sông (1983); Chuyện làng ngày ấy (1993); Hương trong vườn bão (1995); Vè Nghệ Tĩnh (in chung - 1962); Kho tàng ca dao xứ Nghệ (in chung - 1996); Đèo lửa đèo trăng (1987); Những dấu chân lịch sử (1985); Truyền thuyết núi Hai Vai (1990); Nắng sáng trời ngoại ô (1979); Những thi sĩ dân gian (1996). *** - Bác Chắt Kế đã về! - Bác Chắt Kế đã về!   Lũ trẻ chúng tôi đang chăn trâu dưới đồng Lao thì cái tin ấy truyền đến. Lời truyền chỉ thì thầm từ tai đứa này qua tai đứa khác, không thành tiếng, nhưng truyền đi rất nhanh. Chỉ chốc lát là tất cả chúng tôi sững sờ, bỏ mọi cuộc chơi. Đứa đang chơi khăng, bỏ hồn củ lăn long lóc. Đứa đang chơi “dọn cỗ thi”, bỏ vầy và cỏ gà, cỏ sữa trong lòng nón. Đứa đang tắm cho nghé cũng bỏ mặc đấy. Tất cả đúng túm tụm lại, bàn tán với những vẻ mặt đầy quan trọng: - Bác Chắt Kể về thật rồi à? - Về thật! Nhật thua Tây thua thì bác Chết Kế mới được về chú? - Sao hôm qua bang Trân vào nhà tao bắt nộp lúa tạ? - Trốn về thì sao? - Nếu bác Chắt Kế về thật thì ta sắp sung sướng rồi! Một đứa nhỡ mồm suýt reo to bị thằng Bá giơ tay bịt chặt mồm lại: - Chết! Chết! Mày lau chau nói ra, mất cái đội nón như chơi! Bỗng ông tuần Chư từ xa đi tới, chúng tôi xì xào: “Ông tuần Chư là người của nó”, rồi lảng mỗi đứa một nơi. Thằng Bá làm ra vẻ đàn anh, nhảy nhóc lên lưng trâu, hát nghêu ngao một bài đồng dao: Nghé bông hay là nghe hoa Như cà mới nở Ở nghé nghé ... Cả lũ chúng tôi cùng giong trâu hát theo. Đàn trâu nối nhau từ cánh đồng Lao thanh thả đi về cổng làng. Bụng đói meo mà sao tôi cảm thấy vui sướng đến thế, ngồi trên lưng trâu cứ ngỡ như mình bay theo ngọn gió nồm cùng với những đám mây nhuộm vàng ráng chiều... Bác Chắt Kế về rồi! Thế là mình sắp được đi học, sắp được tập hát tập múa, sắp được ăn chung ở chung với bạn bè cùng lứa tuổi trong làng. Còn gì sung sướng hơn. Sao làng mình có bác Chắt Kế mà làng khác lại không có. Thế làng mình đánh được Tây được Nhật thì làng khác cũng đánh được chứ? Bác Chắt Kế là người của thiên hạ chứ đâu có phải của riêng làng mình? Trong ý nghĩ trẻ thơ, tôi tưởng tượng bác Chắt kế như vị thần của một ngôi miếu thâm u cổ thụ nào đó được thế giới thần linh phải ra để cứu dân khổ đau. Tôi chưa hề một lần nào được thấy bác, được gặp bác. Tôi chỉ nghe lõm bõm về bác trong khi người lớn trò chuyện với nhau. Nhất là một buổi sáng, chao ơi cái buổi sáng ấy tôi nhớ mãi. Cụ Tú Vệ làng Kẻ Sụm xuống chơi với ông tôi. Hai cụ uống rượu và nói chuyện đến tận mặt trời đứng bóng. Gọi là uống rượu chứ thật ra đạm bạc lắm, rượu chỉ vừa một nậm với một con cá rô đặt trong đĩa sứ vẽ hình cây trúc. Hai cụ nâng chén bạch định lên môi nhấp rồi lại đặt xuống. Hai cụ cầm đũa gây gây con cá gắp từng tí một. Tôi có cảm giác hai cụ uống vờ và ăn vạ. Đến khi cụ Tú Vệ cắp ô ra về, con cá mới hết một nửa và rượu cũng chỉ hết lưng nậm. Hai cụ đó thanh bạch quá chừng, hình như chỉ cốt dùng rượu làm cái cớ để giãi bày thế sự, chứ không cần sự hưởng thụ xô bồ vật chất... Sở dĩ hôm đó tôi được chứng kiến một cách kỹ càng “tiệc rượu” của cụ Tú Vệ với ông tôi là vì tôi vờ đứng bên cạnh hầu điều đóm để nghe chuyện bác Chắt Kê. Tôi chắp nhặt từng mẩu vụn vặt, rồi đi kể cho bạn bè mục đồng nghe. Tôi thêm thắt, xâu chuỗi lại, tưởng tượng thêm và trong tâm trí tôi hình thành một bác Chắt kế của chuyện cổ tích, của thần thoại. Ở cánh đồng phía tây làng tôi có một cái giếng hình bàn chân khổng lồ, gọi là giếng Thần. Từ xưa từ xưa người ta truyền lại rằng có một vị thần gánh núi đi qua và bàn chân dẫm lõm xuống thành cái giếng. Bao nhiêu chuyện kể huyền ảo và kỳ vĩ về cái giếng này... Trong kho tàng chuyện kể ấy, có chuyện “thanh gươm cố Kế”. Cố Kế là cụ thân sinh bác Chất Kế, một lần đi vận động phong trào Văn Thân từ Yên Thành về, qua giếng Thần, Thần hiện lên và trao cho thanh gươm, đêm ấy bà thân sinh có mang rồi đẻ ra bác Chắt Kế. Các cụ đồ trong làng bảo rằng bác Chắt Kế là người của thần linh sai phái xuống để cứu nhân độ thế. Từ mười lăm mười sáu tuổi, bác đã tham gia các hoạt động của “hội kín”. Năm 1927, bác đứng ra thành lập chi bộ Thanh Niên Cách Mạng Đông Chí Hội của làng tôi. Bác đi khắp bốn phương trời, vào Tây Cống, sang Xiêm La, tới Hương Cảng, sang Luangprabang, đến Nông Pênh... Rồi bác bị đi đày ở Lao Bảo, Ban Mê Thuột... Lao Bảo là nơi đâu? Ban Mê Thuột là nơi đâu? Nghe nói đó là những chốn ma thiêng nước độc, chứa đầy những quỷ sứ có sừng, răn đỏ mào, rết mắt xanh. Bác Chắt Kế bị ném vào địa ngục ấy và chịu đựng muôn nghìn cực hình. Bác bị xẻo thịt, bị dẫm chân lên lưỡi cày nướng đỏ, bị tuột cật nứa, bị ném vào ổ rắn độc... Bác vẫn không chết bởi vì bác có phép thiêng của Thần ban cho. Ôi những cái địa danh Lao Bảo, Ban Mê Thuột rùng rợn đến thế mà kích thích trí tưởng tượng, lòng khao khát của tuổi thơ biết bao. Khi nào mình được đặt chân tới đó để nhìn tận mắt cảnh địa ngục trần gian - nơi bác Chắt Kế, người của làng mình, đã từng chống chọi với diêm vương, quỷ sứ? Có phải bác là con đại bàng trong truyện cổ đã tung cánh làm đổ vỡ bao nhiêu thành lũy lao tù để trở về với làng xóm, với bà con thân thuộc... Hôm nay bác đã về làng thật rồi ư? Chắc chắn lần này mình sẽ tìm kỳ được để nhìn thấy bác.  Một buổi sáng, tôi vừa giong trâu ra khỏi cổng thì gặp một người đàn ông lạ mặt bước vào. Người ấy trạc năm mươi tuổi, mặc bộ quần áo xanh bạc màu. Cha tôi vồn vã chạy ra tiếp. Tôi linh cảm: đây là bác Chắt Kế! Đúng là bác Chắt Kể thật. Bác ấy vào nhà mình chơi, tôi cảm thấy như ai trao cho mình niềm vinh dự bất ngờ. Mấy người hàng xóm cũng chạy sang hỏi thăm ríu rít. Tôi cột trâu vào gốc cau, chạy vào buồng, chăm chú nhìn qua lỗ phèn để thấy rõ bác Chắt Kể là người như thế nào: vâng trán rộng, mắt sáng, tóc chải ngược điểm hoa râm. Quả thật là gương mặt của một người thông minh khác thường. Trong câu chuyện trao đi đổi lại giữa bác với bà con làng xóm, tôi không hề nghe ai nói đến việc đánh Nhật đuổi Tây. Tôi chi thấy gương mặt bác rạng rỡ, tươi cười, hỏi thăm chuyện mùa màng, đồng áng. Từ người trung niên đến cụ già đều trả lời bác với thái độ lễ phép, kính trọng. Mọi người đang vui vẻ trò chuyện, bỗng ông mõ từ ngõ xồng xộc đi vào báo có bang Trân cùng mấy tên lính đã đến cổng làng. Thoắt một cái, bác Chắt kế lần ra cửa sau, sang nhà bên cạnh, rồi đi biệt. Tôi nhảy lên lưng trâu, hát nghêu ngao lững thững ra đồng. Ngày hôm sau, hôm sau, rồi hôm sau nữa... không hề thấy bác Chắt kế trong làng. Con đại bàng ấy lại bay tới phương nào?...  Mời các bạn đón đọc Chuyện Làng Ngày Ấy của tác giả Võ Văn Trực.