Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tố Tâm

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tố Tâm của tác giả Hoàng Ngọc Phách. Quyển tiều thuyết TỐ TÂM ra đời cũng là một việc ngẫu nhiên nghĩa là chưa đinh thời kỳ xuất bản mà xuất bản. Nguyên lúc ông Song An còn ở trường Cao Đẳng Sư phạm, ông thường cùng tôi đàm luận về luân lý giáo dục theo tân học ngày nay. Ông hay đưa tôi xem những điều ông đã sao tập được lúc ông viết quyển tiểu thuyết TỐ TÂM này đưa tôi đọc, tôi cũng phục cái tài trước thuật của ông và biểu đồng tình một vài vấn đề ông phân giải. Tôi khuyên ông đưa đăng vào tập ký yếu của hội Cao đẳng Ái hữu để các bạn cùng bình phẩm, vì trước khi đem in đã nhiều người xem và cũng đồng ý như tôi vậy. Nhưng tác giả vẫn có ý ngần ngại, một là ông không muốn xuất bản tiểu thuyết như ta thường thấy hằng ngày, hai là ông cho rằng quyển TỐ TÂM ra đời khi sớm quá, lại viết theo một lối mới, ta chưa từng xem quen, tất có người hiểu nhầm thì cái hay chưa thấy đâu đã thấy cái dở. Ông xưa nay viết văn thường hay cẩn thận về những điều đó. Về sau bởi những lời quả quyết của các bạn mà ông thuận đem đăng, nhưng tập ký yếu mấy lâu nay vì có một lẽ riêng mà không xuất bản, thành tiểu thuyết đăng dở dang nên phải in thành sách, sợ độc giả đợi chờ, và những tiểu thuyết về tâm lý như quyển TỐ TÂM này không nên để dở chừng câu chuyện. Ấy thế là TỐ TÂM ra đời. TỐ TÂM ra đời chắc có độc giả tự hỏi rằng người ta viết một quyển tiểu thuyết tất phải có một chút mục đích gì về luân lý vậy thì tâm lý tiểu thuyết có liên lạc gì vời đạo xử thế, cách làm người và câu chuyện là chuyện thuộc về ái tình, biết đã bổ ích gì cho giáo dục, đang lúc này bạn thiếu niên ta cần đem hết tâm hồn thờ một chủ nghĩa thiêng liêng về tương lai chủng tộc ?... Ấy đó là điều cần phải giải tỏ cùng độc giả trước khi xem đến quyển TỐ TÂM này : Học thuyết ngày nay không phải là học thuyết tín ngưỡng cho những lý thuyết lập sẵn từ mấy muôn đời để lại cho kẻ hậu sinh, không ai dám xét đến, mà cũng không ai cần xét đến. Học thuyết ấy ông Descartes đã đánh đổ đi từ hơn ba trăm năm nay rồi. Học thuyết bây giờ bất cứ về môn nào cũng phải tìm đến nguyên ủy ; phải dùng câu TẠI LÀM SAO, VĨ NHẼ GÌ để khảo sát lại những điều mà tự xưa ta vẫn công nhận là "bất dịch". Vậy thì luân lý học phải cần đến tâm lý học để xét những điều hành động, những trạng thái trong tâm trí loài người liên tiếp với nhau có mạch lạc, có luật pháp để cho nhà luân lý xét theo đó mà định phương châm, mà đặt những luật chung cho nhân đạo cũng như nhà giải phẫu tách bạch, những cơ quan của thân thể người để cho các y gia biết những bộ máy lưu hành mà chữa bệnh. Cho nên xét luân lý mà không biết tâm lý thì cũng như chữa bệnh mà không biết phủ tạng ở đâu. Vậy thì viết tâm lý tiểu thuyết tức là giải phẫu một câu chuyện đời khuất khúc éo le theo nguồn các luật của tâm lý để độc giả xem đến tự ngẫm nghĩ vào mình. Đại khái như nguyên nhân kia thì phải có kết quả nọ; tính tình ấy thì phải có hành động này v.v... Cho nên xem tâm lý tiểu thuyết phải nhận kỹ những điều phát động đó, phải trông rõ cái dở lẫn với cái hay, tức là những tính tình tương phản xô xát với nhau trong tâm trí con người ta một cách éo le phiền phức. Nếu xem chỉ xem cho biết chuyện thì không bổ ích gì mà có khi thủ hại, vì không phải là lối tiều thuyết chỉ rõ cái hay cái dở ra một cách nhất thiết, nghiễm nhiên là một ông thầy truyền phải làm điều này, phải tránh điều kia, mà nhiều khi không nói rõ tại sao mà làm, tại sao mà tránh. Tâm lý tiểu thuyết không phải là lối chuyện chỉ kết cấu ở cái hy vọng báo ứng, ở điều thưởng phạt huyền vi, để dạy người đời bằng cái họa phúc về việc lành, hay việc ác. Cho nên các độc giả không có lòng tín ngưỡng ấy không lấy làm thỏa óc, mà nhiều khi thủ ích gì. Những tiểu thuyết kết cấu như vậy không phải là không hay, xưa nay biết bao nhiêu quyển đã cảm hóa được lòng người nhờ những tấm gương sáng láng trong chuyện, nhưng ta cứ theo mãi một lối, tưởng cũng thành sáo cũ lắm rồi, mà lối dạy điều dở điều hay bằng cách "truyền lệnh" chỉ mới là một phương diện luân lý giáo dục mà thôi. ° ° ° Độc giả xem quyển TỐ TÂM xin nhớ là một quyển tâm lý tiểu thuyết, không phải là một tấm gương đúc sẵn cho người ta theo. Quyển TỐ TÂM chỉ tách bạch ra những điều éo le phiền phức của một thứ ái tình, ái tình viển vông khuất khúc, làm cho đôi lứa thiếu niên kia phải nhầm lỗi, nhầm lỗi mà không tự biết, để đến lụy mình mà phiền cho gia đình xã hội. Nhầm lỗi những gì cái nguyên nhân, năng lực kết qua ra làm sao ? Tác giả bày tỏ ra rất rõ. Tác giả đã chịu khó thăm dò ở đáy con sông tình kia mà cắm biển, nhắn cùng những bạn thiếu niên đương lảng vảng trên bờ sông, trong khi cần phải để tâm vào những chủ nghĩa cao xa khác, mấy chữ rằng: ĐÂY À GHỀNH CAO, VỰC THẨM ! Ấy đó là công tác giả chép lại chuyện, mà chính đó là nơi độc giả phải lưu tâm. Còn về phần văn chương tư tưởng trong quyển TỐ TÂM này thì cái văn nghiệp của mấy lâu nay tác giả là ông Song An đã đủ giới thiệu cho ông rồi, tôi không phải bình phẩm. Sầm sơn Juillet 1922  LÊ HỮU PHÚC     MẤY LỜI CỦA NGƯỜI CHÉP CHUYỆN Nhiều khi anh em ngồi đàm luận ve tân học ngày nay, ký giả thường nghe nói đến một bậc thanh niên tân tiến có tính tình, văn chương, tư tưởng, thường hay lạm dụng những tài liệu đó đem ra làm việc cho ái tình, ghẹo lòng người nhi nữ, vội thi hành những ý tưởng trong sách hay, những cảnh mình tưởng tượng ra. Có lúc cố ý mà làm, cũng nhiều khi làm mà không tự biết, miễn là tìm được nơi thí nghiệm ý tưởng của mình và lấy được lòng yêu của người mà thôi, nên xảy ra lắm tấn bi kịch, thiệt cho mình mà khổ cho người, quấy rầy đến gia đình, xã hội. Nguyên do những bực có văn chương tư tưởng như vậy, bên cái hy vọng to lớn về việc công ích, thường vẫn hay mơ màng những cảnh tuyệt vời của ái tình, cố tìm cho được một người cùng mình mà đi tới những cảnh mơ màng ấy, không nghĩ cho rằng phàm những cảnh viển vông phảng phất tự ta mơ tưởng mà vẽ ra trên đường đời cũng như giọt sương buổi sáng lóng lánh trên ngọn cây, như ánh sáng buổi chiều thướt tha trên đỉnh núi, xa trông thì đẹp lạ thường, nhưng tìm đến tận nơi thì tan đi hết, không còn thấy gì là đẹp nữa. Cho nên lúc hai người nam nữ rủ nhau mơ màng đi tìm những cảnh ấy chợt gặp một quãng gai góc đầy đường, rẽ nhau lạc lối; hoặc vì lứa đôi trắc trở với người biết trước, hoặc vì duyên nài phận ép với người đến sau, mà diễn nên bi kịch, bởi một nỗi tính tình không hợp với người đến sau đó, hay lòng đã đem gởi đi cho người biết trước kia rồi, không lấy lại được nữa, nên thất vọng, ngã lòng, điều đau đớn đưa ngay đến. Thường cứ bảo tại tạo hóa không cho hưởng hết những cuộc đặt ra để giữ người nhưng lấy lẽ phải mà xét thì phàm việc gì không thường tất không vững. Nếu người cùng mình đi thi hành điều mơ tưởng đó là một bậc thiếu nữ tầm thường, tính tình thấp hẹp, ý tưởng nhỏ nhen, để vào đâu cũng được gặp cảnh nào cũng xong, thì cái hại không là mấy, nhưng gặp một hạng thiếu nữ cũng thích văn chương, cũng có tư tưởng, đã xem được vài chục bộ tiểu thuyết tây đã viết được ít nhiều văn quốc ngữ, tính tình lại rất là đằm thắm, mà thường hay mơ màng những chuyện đâu đâu, ít khi nghĩ đến thực tình thế sự thì thật là bi một "mũi tên tình ái sát nhân" vì bao nhiêu tinh thần đã bị thu hết, bị thứ văn chương hay, tả những tính tình lai láng, bị những ý tưởng lạ bày ra lắm cảnh tuyệt vời, khéo lựa chiều mà dần dần gieo trong lòng người thiếu nữ một thứ tình mài rũa riêng vào một khuôn khổ. Ta nên biết, khi hai người nam nữ yêu nhau, đem đánh vào tinh thần vẫn đau lâu hơn đánh vào thể chất, vì lấy thể chất mà khiến thì cực nồng nàn, nhưng lại chóng tan, mà có thể lấy thể chất nọ thay thể chất kia được, vì thể chất thường giống nhau; tinh thần thì không thể ảnh hưởng tinh thần hành động chậm, nhưng ở lâu, dần dần mà thấm vào gan óc khó gỡ ra được, dù có được cũng để vết về sau, suốt đời cứ vơ vẩn bên mình mãi. Mới đây, ký giả nghe được câu chuyện riêng của bạn vừa kể lại mà bạn là vai chính trong chuyện này, chuyện rất hợp với điều quan sát kể trên kia, nên ký giả chép ra đây, có ý muốn bày ra trước mặt bạn thiếu nên một việc hiển nhiên của tâm tình, liên lạc với nhau, có nguyên nhân, có kết quả. Chuyện tức là một cuộc hành động của các nguồn tâm lý của ái tình, phát hiện ra ngoài rất hợp với nội dung người trong chuyện, vì lúc xét một việc e vế tâm lý phát hiện phải xét đến cả điều liên lạc chung quanh, đại khái như giáo dục ấy, tính chất ấy, tinh thần ấy v.v... Hành động đã hợp với nguyên nhân thỉ tất là phải theo vào một luật, mà việc bày ra không thể là việc lạ thường chỉ là một mối riêng trong một mối khác của tâm lý mà thôi, nên ký giả chép ra đây để các bạn thiếu niên xét đoán, có lẽ cũng bổ ích cho những lúc bạn thiếu niên tự xét đoán đến tính tình mình, tư tưởng mình. Sau nữa, ký giả chép lại chuyện gọi tỏ lòng thương đôi lứa thiếu mến xô nhau vào bể ái, lôi kéo nhau đến nỗi kẻ bị trọng thương, người không cần sống, để đời thiệt mất một người thiếu nữ chung tình. Phàm một người thiếu nữ đã có tính tình đằm thắm biết chịu thiệt mình để khỏi lụy đến người yêu, lại biết thương một bạn gái khác chính là người "kình địch vô tội" của mình là một hạng người ít có, thật đáng quý mà cũng đáng thương. Tính tình ấy dùng vào đâu cũng là bậc trên cả, đem dùng với nhà thì thành con hiếu, đem dùng với nước thì thành tôi ngay, đem dùng vào cảnh vợ chồng đẹp đôi thì thành vợ thuận, vợ thuận tức là mẹ hiền. Nhưng tiếc thay ! Chỉ vì quá mơ màng những ngoài vòng đời, lỡ lầm vào một cuộc tình ái, nên việc đời chếch lệch mà thành như mây tan, như khói tỏa, rút lại không được ích gì, cảnh huống ấy bọn thiếu niên nên lưu ý. Ký giả không có gì thoa vẽ, mà cũng không quen đem đạo đức bình luận ái tình, ký giả xét là xét cái tình trạng của lòng người, chép là chép cái hành động của tâm lý, còn lý luận luân lý phẩm bình xin để phần dư luận. Ký giả chưa đến tuổi biết sáng tạo ra người trong truyện thì chỉ chép lại chuyện là hơn; nếu có bạn nào quá nghiêm mà trách ký giả sao tuổi còn non, người còn trẻ đã vội đem tách bạch những nỗi éo le bí mật của ái tình mà bày cả ra đây thì ký giả xin thưa rằng: nếu những điều quan sát và lý luận kể trên kia là đúng thì lời trách ấy quá nghiêm, nếu mà sai, thì xin biết cho rằng ký giả vì những điều quan sát đó mà chép. Aout 1922  HOÀNG NGỌC PHÁCH *** Tóm tắt Tố Tâm là một tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của Việt Nam, được viết bởi Hoàng Ngọc Phách và xuất bản năm 1922. Tác phẩm kể về câu chuyện tình yêu của hai nhân vật chính là Đạm Thủy và Tố Tâm. Đạm Thủy là một thanh niên trí thức, có tư tưởng tiến bộ, còn Tố Tâm là một cô gái nhà quê, xinh đẹp, ngây thơ. Hai người gặp nhau và yêu nhau say đắm, nhưng vì những rào cản về gia đình và xã hội, họ đã không thể đến được với nhau. Review Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị về mặt văn học và xã hội. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, đặc biệt là vấn đề tình yêu và hôn nhân của giới trẻ. Tác phẩm được viết theo lối văn xuôi trữ tình, trau chuốt, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ của tác phẩm giản dị, gần gũi, dễ hiểu, nhưng cũng không kém phần tinh tế, gợi cảm. Nhân vật chính của tác phẩm là Tố Tâm. Tố Tâm là một cô gái nhà quê, xinh đẹp, ngây thơ, nhưng cũng rất yếu đuối. Cô yêu Đạm Thủy say đắm, nhưng vì những rào cản của xã hội, cô đã không thể đến được với người mình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được những nỗi đau, những bi kịch của Tố Tâm. Tố Tâm là một nạn nhân của xã hội phong kiến, của những hủ tục lạc hậu. Cô là một tấm gương tiêu biểu cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên án những hủ tục lạc hậu, những định kiến xã hội đã gây ra những đau khổ cho người phụ nữ. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Tố Tâm là một tác phẩm tâm lý đầu tiên của Việt Nam, có giá trị về mặt văn học và xã hội. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, đặc biệt là vấn đề tình yêu và hôn nhân của giới trẻ. Tác phẩm được viết theo lối văn xuôi trữ tình, trau chuốt, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ của tác phẩm giản dị, gần gũi, dễ hiểu, nhưng cũng không kém phần tinh tế, gợi cảm. Nhân vật Tố Tâm là một nhân vật được xây dựng thành công, mang đậm tính nhân đạo. Một số nhận xét của độc giả về tác phẩm "Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã lên án những hủ tục lạc hậu, những định kiến xã hội đã gây ra những đau khổ cho người phụ nữ."  "Tố Tâm là một tác phẩm tâm lý xuất sắc. Tác phẩm đã thể hiện được những nỗi đau, những bi kịch của Tố Tâm, một nạn nhân của xã hội phong kiến."  "Tố Tâm là một tác phẩm văn học đáng đọc. Tác phẩm đã mang đến cho tôi những cảm xúc sâu sắc."  Mời các bạn mượn đọc sách Tố Tâm của tác giả Hoàng Ngọc Phách.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mặt Trái Thần Tượng
Ấn phẩm "Mặt trái của thần tượng" của tác giả John O'hara, sách do dịch giả Phan Thị Thanh chuyển sang Việt ngữ, được nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1974. Ấn bản đang lưu giữ tại Quán Sách Mùa Thu có tình trạng rất đẹp, sách nguyên bìa gáy, ruột đẹp, lõi sách chắc chắn. Sách dày 84 trang. Nhìn chung, tác phẩm" Mặt trái của Thần Tượng'' là một thành công. Đó là câu chuyện tình tay ba giữa Charley, Mildred và Hubert. O'Hara đã sắp xếp rất khéo léo, nhất là hình ảnh một Charley giàu sang, cả thế giới biết danh, nhưng buồn nản thay, chính lúc thế giới đang đón tiếp ông, lại là lúc ông ra đi vĩnh viễn. Con người và cuộc đười của Hubert với những thay đổi, thăng trầm, cũng đã làm say mê độc giả không ít.  Người ta có thể thắc mắc về những nhân vật trong truyện: họ có thật ngoài đời không? Qủa là có, họ là hình ảnh trung thực của những người làm nghệ thuật chuyên nghiệp. O'Hara Ward để vạch trần những xấu xa của con người, để gửi gắm tâm sự của ông thời niên thiếu. Ông dùng một Martin Ruskin làm tiêu biểu cho sự xảo nguyệt của con người. Và nhân vật Charley được dựng lên để bộc lộ những lo âu, trắc ẩn, phập phồng dưới lớp vỏ giàu sang, phú quí bên ngoài. Trong" mặt trái của thần tượng O'Hara đã vạch trần những  tranh giành quyền lực, địa vị, những áp lực kinh tế, cùng sự phân chia giai cấp và lối sống đã khiến Holly wood tách rời và khác hẳn với những người khác. Ông cũng đã phân tách và tỏ ra thông cảm với nổi cô đơn, nhất là sự trống vắng về tình cảm mà những nghệ sĩ phải gánh chịu.  *** Người đời có thể biết lúc nào là lúc chúng ta đang cố gắng để biến đổi ta thành một con người khác. Sự biết trước này sẽ giúp ngăn chặn một số người chân chánh đang đi dần vào chỗ xấu xa ; nhưng đồng thời lại không thể lôi kéo những kẻ bất chánh trở nên lương thiện. Phải chờ đến lúc bốn mươi tuổi, mới biết được ta thuộc loại người nào, và sở dĩ ta biết được là nhờ ở nhận xét của những người chung quanh – của những người trong gia đình, bạn bè, kẻ thù và ngay cả những người chưa tiện quen biết. Đồng ý là họ có thể lầm lẫn khi nhận xét về ta, nhưng đó là ý kiến riêng của họ và là nhận xét cuối cùng khó thay đổi, vì họ không đủ kiên nhẫn để phán xét dựa trên những sự thật. Nhưng nếu ta là họ để nhận xét một cá nhân khác, ta cũng sẽ có những nhận xét hoàn toàn tuyệt đối và thiếu kiên nhẫn giống như họ vậy. Mời các bạn đón đọc Mặt Trái Thần Tượng của tác giả John O'Hara & Phan Thị Thanh (dịch).
Cánh Hoa Rực Lửa
Cánh Hoa Rực Lửa, nguyên tác THE INN OF THE SIXTH HAPPINESS của Alan Burgess, bản dịch của NGUYỄN NHƯỢC NGHIỄM, bìa NGUYỄN ĐỒNG, ấn phẩm thứ 43 của nhà xuất bản Trẻ, ấn hành lần thư nhứt 1000 bản tại nhà in riêng của nhà xuất bản, không có bản đặc biệt. Vào những năm 1930 hỗn loạn, cô hầu bàn người Anh Gladys Aylward theo ơn gọi của Thiên Chúa đã mưu cầu đến Trung Hoa để truyền giáo. Vượt qua khó khăn về tài chánh cùng những rối ren thời cuộc lúc bấy giờ, không màng đến hiểm nguy, cô đã đến một vùng đất hẻo lánh, nghèo nàn lạc hậu tại miền Hoa Bắc. Cùng với bà Jeannie Lawson - một nhà truyền giáo kỳ cựu - họ bèn mở một khách điếm tên Lục Phúc. Khách điếm ngoài mục đích dùng làm nơi tá túc cho tha nhân thì còn là nơi chốn để họ rao tin mừng cho mọi người sau bữa ăn chiều. Dần dà, với một đức tin mãnh liệt, cùng tấm lòng chân ái và nghị lực phi thường, Gladys đã được tất cả dân bản xứ đều hết lòng tin yêu. Đồng thời cũng nẩy sinh một mối tình giữa cô và Lân – một sĩ quan Hán lai Hà Lan rất lạnh lùng. Khi chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ, cũng là lúc Gladys nhận ra đâu là mối phúc hạnh thứ sáu để cô phải hoàn thành một sứ mệnh vô cùng cam go mà Chúa ban. *** Alan Burgess (1 tháng 2 năm 1915 – 10 tháng 4 năm 1998) là một phi công và tác giả của Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh , người đã viết một số cuốn sách tiểu sử và phi hư cấu giữa những năm 1950 và 1970. Ông đã viết tiểu sử của Gladys Aylward, và Flora Sandes, và đồng viết cuốn tự truyện của Ingrid Bergman . [3] Bergman đóng vai Gladys Aylward trong phim The Inn of the Sixth Happiness dựa trên tiểu sử của Burgess. Alan Burgess từng phục vụ trong Lực lượng Không quân Hoàng gia trong Thế chiến thứ hai, Burgess tiếp tục viết Đường hầm dài nhất: Câu chuyện có thật về cuộc đào tẩu vĩ đại trong Thế chiến thứ hai, câu chuyện về " Cuộc đào thoát vĩ đại ". Mời các bạn đón đọc Cánh Hoa Rực Lửa của tác giả Alan Burgess & Nguyễn Nhược Nghiêm (dịch).
Những Tham Vọng Sụp Đổ
Không có gì khiến cho Pietro Monatti gớm ghiếc bằng một thái độ sống bị chi phối bởi những tính toán cùng những động lực độc đoán của lòng vị kỷ. Chàng căm ghét những biểu hiện thường tình của tính ích kỷ, đó là do sự khinh miệt mang tính bản năng đối với những điều ti tiện nhỏ nhen của hạng người chỉ biết có mình, đó cũng là do lòng ngưỡng mộ cũng mang tính bản năng không kém đối với những hành vi và ý đồ cao cả, hơn thế nữa, đó cũng là một số kinh nghiệm khốn khổ buổi thiếu thời tạo nên. Quả thật những kinh nghiệm này đã giúp Pietro tin chắc rằng mình có một ý thức đầy trăn trở và nghiêm ngặt đến độ sẵn sàng từ chối một hành vi thuần túy tự tư tự lợi, và (khác hẳn với mọi người do bản tính ích kỷ tự nhiên chỉ biết xử sự tốt đẹp do tính toán hoặc sức mạnh của ý chí) chàng cũng tin chắc mình có xu hướng tự nhiên thiên về đức hy sinh, lòng trung hậu, tính vị tha cùng tất cả những đức hạnh cao cả của con người. Khám phá đó là kết quả của một cuộc khủng hoảng dai dẳng và điều đáng kể hơn, đó còn là nguyên tắc đem lại một loạt hạnh phúc. Bởi vì khi đã tạo cho mình một sự nhất quán và chỉnh đốn cuộc sống của mình theo những bình diện phù hợp với tính cách của mình Pietro cuối cùng đã tìm được một sự bình yên trong tinh thần giúp chàng đạt tới sự thành công trong công việc và tạo được những mối quan hệ tốt đẹp. *** Chung quanh ngôi nhà, trong vòng rào tối tăm và trần trụi như một nghĩa địa không có nấm mồ, ngọn gió đói khát vì thiếu bụi rậm và cây cối để lay động cứ quất vào các mô đất biến dạng của các bồn hoa. Andréa vừa rảo bước vừa ngước mắt nhìn bầu trời. Ngọn gió khô ran vẫn là là sát mặt đất. Những tia chớp lặng lẽ và ở tít trời xa thỉnh thoảng lóe lên cho thấy những lớp mây chồng chất lên nhau, bất động và lơ lửng trên các khu vườn và nhà cửa. Những bức màn màu nhựa thông, những bức màn làm nên từ những ngọn đồi trùng điệp, chúng toát ra một vẻ tĩnh lặng đến bi thảm giữa một cảnh trí xôn xao, dao động. Trái lại, cứ mỗi lần tia chớp lóe lên, người ta có thể nhận ra trên nền trời lấp lánh và vỡ vụn, những ngọn cây đen lay động, những chiếc lá quay cuồng, những cành cây vặn vẹo và gãy rời ra dưới sức mạnh hung hãn của gió. Ghì chặt túi xách vào người. Andréa băng qua khu vườn, vượt cổng rào và đi vào con đường dốc nhỏ. Trước khi đến nhà Marie-Louise, nàng đã quyết định sẽ trở về nhà ngay, nơi Pietro đang đợi nàng. Nàng tuân theo kế hoạch này, nhưng từ giờ phút này trở đi, đó là vì một sự trung thành máy móc hơn là một sự cần thiết, về nhà hay đến một nơi nào khác cũng thế thôi. Lâu đài của những kế hoạch trong đầu nàng đã sụp đổ, với nàng chỉ còn lại cơn điên đầy kiêu hãnh đã hoạch định nên nó, cơn điên đó giờ đây trở nên mãnh liệt và khốc liệt hơn bao giờ cả, nó dẫn nàng tới một sự nổi loạn tột cùng. Stefano sợ mình tự tử, nàng nghĩ thế, vì thế anh ta muốn đoạt lấy khẩu súng, nhưng anh ta lầm, anh ta lầm to. Nàng đi khoảng mươi mười hai thước thì một chiếc tắc xi vượt qua nàng và dừng lại cách đó mấy bước, dưới tán lá thấp của một cây to rì rào xao động trong gió, trước cổng một ngôi nhà. Andréa dồn bước để kịp thế chỗ người khách sắp bước xuống. Đó là một bà đứng tuổi, bà ta đội một cái khăn ngắn màu tía và mặc một chiếc áo dạ hội in hoa khá dài. Bà ta cao và gầy, với mái tóc hoa râm hơi ngả màu xanh do tác dụng của thuốc nhuộm, đôi mắt xanh nhớn nhác và có phần khó chịu, chìm khuất trong những nếp nhăn, mũi to, miệng rộng và cổ với những đường gân nổi rõ dưới làn da héo hon đầy phần sáp. Andréa đứng trên vỉa hè đợi bà ta trả tiền. Nàng thấy bà ta nghiêng người, chúi mũi vào đồng hồ tính tiền rồi rút ví ra và lấy ra một đồng tiền trao cho anh tài xế sau khi đã kiểm tra cẩn thận bên trong. Anh này nhìn đồng hồ tiền và bảo mình không đủ tiền thối. Bà ta đáp giọng chua lét rằng mình không thể để cho anh ta phần còn lại được. - Các người giống nhau cả, bà ta vừa nói vừa nhìn anh tài xế bằng ánh mắt lờ đờ và chăm chú. Mấy chú bao giờ cũng bảo không có tiền để tiện nhét túi những gì không phải của mình. Anh tài xế vội lộn tung các túi của mình và chìa ra trong lòng bàn tay mấy xu anh ta vừa nhặt nhạnh được. Bà ta không tin. - Không thể được. Nếu chú là người lương thiện thì chú phải hiểu rằng tôi không hề muốn cho chú hai lia tiền boa chứ! Bà ta lắc đầu. Mắt bà ta ánh lên niềm xác tín không gì lay chuyển nổi, đồng thời với niềm hi vọng là có thể đi tới chỗ thà không có tiền còn hơn chịu điều bất công là phải trả thừa tiền. Bây giờ Andréa hết kiên nhẫn nên can thiệp. Nàng lục túi xách lấy ra món tiền nhỏ ghi trên đồng hồ bước đến và dằn mạnh món tiền vào tay người tài xế. - Đây là số tiền bà này phải trả anh, nàng bảo. Còn bây giờ đẩy nhanh lên nào, đến đường Gracques. Và không buồn chú ý đến thái độ sững sờ giận dữ của bà ta, nàng leo lên xe và kéo cửa đánh sầm một tiếng. - Đường Gracques? Xong ngay! Anh tài xế nhanh nhẹn nói. Chiếc tắc xi bắt đầu chạy. Người đàn bà như hoàn hồn lại. Bà ta giơ tay. - Dừng lại, bà ta hét lên như tuân theo một ý nghĩ chợt nảy ra. Dừng lại, bằng không tôi ghi số xe đấy! Người đàn ông đáp lại mệnh lệnh này bằng cách đưa mấy ngón tay chạm vào mũi. Trong thời gian xe chạy, Andréa không nghĩ ngợi gì đến Marie-Louise, Stefano cũng không, càng không nghĩ đến chuyện gì sắp xảy ra, nhưng lại nghĩ đến bà già keo kiệt đã không giải quyết nổi hai lia tiẹn boa. Nàng ngạc nhiên về thái độ của chính mình, về cử chỉ đẹp đầy phù phiếm và mỉa mai sau bao biến cố mà nàng đã trải qua. Bởi lẽ, đương nhiên là nàng đã thực hiện một cử chỉ đẹp khi trả tiền tắc xi cho người đàn bà vận đồ dạ hội kia. Còn chuyện giết Marie-Louise thì sao? Đó cũng là một cử chỉ đẹp, cũng giá trị như cử chỉ vừa rồi. Rặt những cử chỉ đẹp! Dường như đó là những ý nghĩ buồn bã nhất mà nàng có được. Còn buồn hơn những ý nghĩ đã đẩy nàng tới chỗ giết Marie-Louise. Mặt khác cơn cuồng nộ của nàng rồi cũng dịu đi. Nàng chỉ cần gợi lên cái quá khứ gần đây nhất để vững tin rằng mình không chỉ thực hiện một cử chỉ đẹp mà còn cả một công trình chính nghĩa. Khi mở túi xách lấy tiền trả, nàng trông thấy khẩu súng của mình. Rồi ngước mắt lên cửa sổ phòng mình, nàng thấy bóng Pietro lay động một cách háo hức sau mấy thanh cửa lá sách rồi biến mất. Tất cả lòng thù hận cùng tình cảm vỡ mộng chợt tan biến, nhường chỗ cho lòng thương xót đối với chính mình. Đó không phải là lòng thương hại có giá trị an ủi, vỗ về. Đó là một lòng thương hại lạnh lùng, như ánh trăng soi rọi trên khung cảnh hoang tàn vì ngập lụt. Nàng nhìn lại trọn cuộc đời mình, và cả số phận đã dẫn dắt nàng đến hiện tại tai ương này, nhưng nàng lại không thoát khỏi điều ghi nhận vô bổ đó. Toàn bộ sự việc cùng một lúc vừa công bằng lại vừa bất công. Đầu cúi thấp, cổ họng khô ran, mắt ráo hoảnh, nàng băng qua khu vườn. Nàng chỉ ngẩng đầu lên khi trông thấy cửa nhà mình. Pietro đã ở ngưỡng cửa chào nàng với một cử chỉ hài lòng và ngay lúc nàng đến phòng ngoài, chàng đã âu yếm choàng tay qua người. - Thế nào? Chuyện đó diễn biến ra sao? Hết sức xúc động, chàng xiết chặt trong đôi tay, nhìn nàng không chán mắt với nụ cười thỏa mãn và kiêu hãnh... Nét mặt xanh nhợt, Andréa hơi né đầu ra sau. - Mọi chuyện tốt đẹp, nàng vừa nói vừa chăm chú nhìn chàng thanh niên. Nhưng còn chờ gì nữa? Hãy về phòng em đi! Hơi bối rối vì vẻ xanh xao và giọng nói đó, Pietro buông nàng ra và theo chân nàng về phòng. Đến nơi, Andréa bước tới tủ và đối diện tấm gương nghiêng, nàng chậm rãi cởi mũ. Pietro ngồi vào ghế bành gần cửa sổ, nhìn nàng đang sửa soạn lại mớ tóc, ngắm mình trong gương với một vẻ chăm chú đầy tư lự và đưa tay sờ lên khóe miệng: cuối cùng nàng quay lại và chậm rãi đến ngồi trên giường. - Em mệt, nàng bảo, em không muốn nói gì cả. Em đi nằm đây, anh hãy đến bên em và nói tất cả những gì anh muốn nói. Nàng giả bộ ngáp và nằm ngửa ra, một cánh tay kê đầu, mắt nhìn lên trần nhà. Càng lúc càng ngạc nhiên Pietro đến ngồi bên nàng. Mời các bạn đón đọc Những Tham Vọng Sụp Đổ của tác giả Alberto Moravia & Huỳnh Phan Anh (dịch).
Bùi Thị Xuân
Bùi Thị Xuân là con của Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, người thôn Xuân Hòa, một thôn nằm về phía đông Phú Phong (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền bà vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp, nữ công khéo, chữ viết đẹp, nhưng thích làm con trai, thích múa kiếm đi quyền. Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà Trưng. Còn những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang cử án tề mi thì Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí. Lúc nhỏ đi học thường mặc áo con trai. Lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ trong sách mà mặc. Năm 12 tuổi, Bùi Thị Xuân đến trường học chữ. Bị đùa cợt, Bùi Thị Xuân cả thẹn, vung quyền đánh vào mặt hai người sanh sự rồi trở về nhà. Từ ấy bỏ học chữ, ở nhà chuyên học võ. Từ khi bỏ học văn thì đêm đêm có một lão bà đến dạy. Dạy từ đầu hôm đến gà gáy lần thứ nhất thì bà lão lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao. Suốt ba năm trời, trừ những khi mưa gió, đêm nào bà lão cũng đến cũng đi đúng giờ giấc. Dạy quyền, dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao thì cột hai bao cát nơi chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ rồi đổi bao to dần, cuối cùng mới nhảy chân không. Còn nhảy xa thì ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi ngoài bụi, níu đọt uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy. Đêm học ngày tập, đến 15 tuổi thì tài nghệ đã điêu luyện. Theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hòa thì đó là bà cao tổ của ông Hương mục Ngạc, một võ sư trứ danh ở An Vinh thời Pháp thuộc. Sau khi luyện tập võ nghệ thuần thục, Bùi Thị Xuân bèn rủ một số chị em khác trong vùng đến nhà mình luyện quyền múa kiếm. Đệ tử của bà ban đầu còn ít, dần dần lên đến vài chục người. Tài nghệ đã tinh mà cách đối xử, cách dạy dỗ lại đứng đắn nên Bùi Thị Xuân được chị em kính yêu, quý trọng. Trong số đệ tử xuất sắc có bà Bùi Thị Nhạn. Năm 1771, Bùi Thị Xuân lúc 20 tuổi đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. *** Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Đào Trinh Nhất Tác Phẩm gồm có: Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Lịch Sử Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học gồm có: Vương Dương Minh Vương An Thạch Chu Tần Tinh Hoa Mời các bạn đón đọc Bùi Thị Xuân của tác giả Đào Trinh Nhất.