Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tố Tâm

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tố Tâm của tác giả Hoàng Ngọc Phách. Quyển tiều thuyết TỐ TÂM ra đời cũng là một việc ngẫu nhiên nghĩa là chưa đinh thời kỳ xuất bản mà xuất bản. Nguyên lúc ông Song An còn ở trường Cao Đẳng Sư phạm, ông thường cùng tôi đàm luận về luân lý giáo dục theo tân học ngày nay. Ông hay đưa tôi xem những điều ông đã sao tập được lúc ông viết quyển tiểu thuyết TỐ TÂM này đưa tôi đọc, tôi cũng phục cái tài trước thuật của ông và biểu đồng tình một vài vấn đề ông phân giải. Tôi khuyên ông đưa đăng vào tập ký yếu của hội Cao đẳng Ái hữu để các bạn cùng bình phẩm, vì trước khi đem in đã nhiều người xem và cũng đồng ý như tôi vậy. Nhưng tác giả vẫn có ý ngần ngại, một là ông không muốn xuất bản tiểu thuyết như ta thường thấy hằng ngày, hai là ông cho rằng quyển TỐ TÂM ra đời khi sớm quá, lại viết theo một lối mới, ta chưa từng xem quen, tất có người hiểu nhầm thì cái hay chưa thấy đâu đã thấy cái dở. Ông xưa nay viết văn thường hay cẩn thận về những điều đó. Về sau bởi những lời quả quyết của các bạn mà ông thuận đem đăng, nhưng tập ký yếu mấy lâu nay vì có một lẽ riêng mà không xuất bản, thành tiểu thuyết đăng dở dang nên phải in thành sách, sợ độc giả đợi chờ, và những tiểu thuyết về tâm lý như quyển TỐ TÂM này không nên để dở chừng câu chuyện. Ấy thế là TỐ TÂM ra đời. TỐ TÂM ra đời chắc có độc giả tự hỏi rằng người ta viết một quyển tiểu thuyết tất phải có một chút mục đích gì về luân lý vậy thì tâm lý tiểu thuyết có liên lạc gì vời đạo xử thế, cách làm người và câu chuyện là chuyện thuộc về ái tình, biết đã bổ ích gì cho giáo dục, đang lúc này bạn thiếu niên ta cần đem hết tâm hồn thờ một chủ nghĩa thiêng liêng về tương lai chủng tộc ?... Ấy đó là điều cần phải giải tỏ cùng độc giả trước khi xem đến quyển TỐ TÂM này : Học thuyết ngày nay không phải là học thuyết tín ngưỡng cho những lý thuyết lập sẵn từ mấy muôn đời để lại cho kẻ hậu sinh, không ai dám xét đến, mà cũng không ai cần xét đến. Học thuyết ấy ông Descartes đã đánh đổ đi từ hơn ba trăm năm nay rồi. Học thuyết bây giờ bất cứ về môn nào cũng phải tìm đến nguyên ủy ; phải dùng câu TẠI LÀM SAO, VĨ NHẼ GÌ để khảo sát lại những điều mà tự xưa ta vẫn công nhận là "bất dịch". Vậy thì luân lý học phải cần đến tâm lý học để xét những điều hành động, những trạng thái trong tâm trí loài người liên tiếp với nhau có mạch lạc, có luật pháp để cho nhà luân lý xét theo đó mà định phương châm, mà đặt những luật chung cho nhân đạo cũng như nhà giải phẫu tách bạch, những cơ quan của thân thể người để cho các y gia biết những bộ máy lưu hành mà chữa bệnh. Cho nên xét luân lý mà không biết tâm lý thì cũng như chữa bệnh mà không biết phủ tạng ở đâu. Vậy thì viết tâm lý tiểu thuyết tức là giải phẫu một câu chuyện đời khuất khúc éo le theo nguồn các luật của tâm lý để độc giả xem đến tự ngẫm nghĩ vào mình. Đại khái như nguyên nhân kia thì phải có kết quả nọ; tính tình ấy thì phải có hành động này v.v... Cho nên xem tâm lý tiểu thuyết phải nhận kỹ những điều phát động đó, phải trông rõ cái dở lẫn với cái hay, tức là những tính tình tương phản xô xát với nhau trong tâm trí con người ta một cách éo le phiền phức. Nếu xem chỉ xem cho biết chuyện thì không bổ ích gì mà có khi thủ hại, vì không phải là lối tiều thuyết chỉ rõ cái hay cái dở ra một cách nhất thiết, nghiễm nhiên là một ông thầy truyền phải làm điều này, phải tránh điều kia, mà nhiều khi không nói rõ tại sao mà làm, tại sao mà tránh. Tâm lý tiểu thuyết không phải là lối chuyện chỉ kết cấu ở cái hy vọng báo ứng, ở điều thưởng phạt huyền vi, để dạy người đời bằng cái họa phúc về việc lành, hay việc ác. Cho nên các độc giả không có lòng tín ngưỡng ấy không lấy làm thỏa óc, mà nhiều khi thủ ích gì. Những tiểu thuyết kết cấu như vậy không phải là không hay, xưa nay biết bao nhiêu quyển đã cảm hóa được lòng người nhờ những tấm gương sáng láng trong chuyện, nhưng ta cứ theo mãi một lối, tưởng cũng thành sáo cũ lắm rồi, mà lối dạy điều dở điều hay bằng cách "truyền lệnh" chỉ mới là một phương diện luân lý giáo dục mà thôi. ° ° ° Độc giả xem quyển TỐ TÂM xin nhớ là một quyển tâm lý tiểu thuyết, không phải là một tấm gương đúc sẵn cho người ta theo. Quyển TỐ TÂM chỉ tách bạch ra những điều éo le phiền phức của một thứ ái tình, ái tình viển vông khuất khúc, làm cho đôi lứa thiếu niên kia phải nhầm lỗi, nhầm lỗi mà không tự biết, để đến lụy mình mà phiền cho gia đình xã hội. Nhầm lỗi những gì cái nguyên nhân, năng lực kết qua ra làm sao ? Tác giả bày tỏ ra rất rõ. Tác giả đã chịu khó thăm dò ở đáy con sông tình kia mà cắm biển, nhắn cùng những bạn thiếu niên đương lảng vảng trên bờ sông, trong khi cần phải để tâm vào những chủ nghĩa cao xa khác, mấy chữ rằng: ĐÂY À GHỀNH CAO, VỰC THẨM ! Ấy đó là công tác giả chép lại chuyện, mà chính đó là nơi độc giả phải lưu tâm. Còn về phần văn chương tư tưởng trong quyển TỐ TÂM này thì cái văn nghiệp của mấy lâu nay tác giả là ông Song An đã đủ giới thiệu cho ông rồi, tôi không phải bình phẩm. Sầm sơn Juillet 1922  LÊ HỮU PHÚC     MẤY LỜI CỦA NGƯỜI CHÉP CHUYỆN Nhiều khi anh em ngồi đàm luận ve tân học ngày nay, ký giả thường nghe nói đến một bậc thanh niên tân tiến có tính tình, văn chương, tư tưởng, thường hay lạm dụng những tài liệu đó đem ra làm việc cho ái tình, ghẹo lòng người nhi nữ, vội thi hành những ý tưởng trong sách hay, những cảnh mình tưởng tượng ra. Có lúc cố ý mà làm, cũng nhiều khi làm mà không tự biết, miễn là tìm được nơi thí nghiệm ý tưởng của mình và lấy được lòng yêu của người mà thôi, nên xảy ra lắm tấn bi kịch, thiệt cho mình mà khổ cho người, quấy rầy đến gia đình, xã hội. Nguyên do những bực có văn chương tư tưởng như vậy, bên cái hy vọng to lớn về việc công ích, thường vẫn hay mơ màng những cảnh tuyệt vời của ái tình, cố tìm cho được một người cùng mình mà đi tới những cảnh mơ màng ấy, không nghĩ cho rằng phàm những cảnh viển vông phảng phất tự ta mơ tưởng mà vẽ ra trên đường đời cũng như giọt sương buổi sáng lóng lánh trên ngọn cây, như ánh sáng buổi chiều thướt tha trên đỉnh núi, xa trông thì đẹp lạ thường, nhưng tìm đến tận nơi thì tan đi hết, không còn thấy gì là đẹp nữa. Cho nên lúc hai người nam nữ rủ nhau mơ màng đi tìm những cảnh ấy chợt gặp một quãng gai góc đầy đường, rẽ nhau lạc lối; hoặc vì lứa đôi trắc trở với người biết trước, hoặc vì duyên nài phận ép với người đến sau, mà diễn nên bi kịch, bởi một nỗi tính tình không hợp với người đến sau đó, hay lòng đã đem gởi đi cho người biết trước kia rồi, không lấy lại được nữa, nên thất vọng, ngã lòng, điều đau đớn đưa ngay đến. Thường cứ bảo tại tạo hóa không cho hưởng hết những cuộc đặt ra để giữ người nhưng lấy lẽ phải mà xét thì phàm việc gì không thường tất không vững. Nếu người cùng mình đi thi hành điều mơ tưởng đó là một bậc thiếu nữ tầm thường, tính tình thấp hẹp, ý tưởng nhỏ nhen, để vào đâu cũng được gặp cảnh nào cũng xong, thì cái hại không là mấy, nhưng gặp một hạng thiếu nữ cũng thích văn chương, cũng có tư tưởng, đã xem được vài chục bộ tiểu thuyết tây đã viết được ít nhiều văn quốc ngữ, tính tình lại rất là đằm thắm, mà thường hay mơ màng những chuyện đâu đâu, ít khi nghĩ đến thực tình thế sự thì thật là bi một "mũi tên tình ái sát nhân" vì bao nhiêu tinh thần đã bị thu hết, bị thứ văn chương hay, tả những tính tình lai láng, bị những ý tưởng lạ bày ra lắm cảnh tuyệt vời, khéo lựa chiều mà dần dần gieo trong lòng người thiếu nữ một thứ tình mài rũa riêng vào một khuôn khổ. Ta nên biết, khi hai người nam nữ yêu nhau, đem đánh vào tinh thần vẫn đau lâu hơn đánh vào thể chất, vì lấy thể chất mà khiến thì cực nồng nàn, nhưng lại chóng tan, mà có thể lấy thể chất nọ thay thể chất kia được, vì thể chất thường giống nhau; tinh thần thì không thể ảnh hưởng tinh thần hành động chậm, nhưng ở lâu, dần dần mà thấm vào gan óc khó gỡ ra được, dù có được cũng để vết về sau, suốt đời cứ vơ vẩn bên mình mãi. Mới đây, ký giả nghe được câu chuyện riêng của bạn vừa kể lại mà bạn là vai chính trong chuyện này, chuyện rất hợp với điều quan sát kể trên kia, nên ký giả chép ra đây, có ý muốn bày ra trước mặt bạn thiếu nên một việc hiển nhiên của tâm tình, liên lạc với nhau, có nguyên nhân, có kết quả. Chuyện tức là một cuộc hành động của các nguồn tâm lý của ái tình, phát hiện ra ngoài rất hợp với nội dung người trong chuyện, vì lúc xét một việc e vế tâm lý phát hiện phải xét đến cả điều liên lạc chung quanh, đại khái như giáo dục ấy, tính chất ấy, tinh thần ấy v.v... Hành động đã hợp với nguyên nhân thỉ tất là phải theo vào một luật, mà việc bày ra không thể là việc lạ thường chỉ là một mối riêng trong một mối khác của tâm lý mà thôi, nên ký giả chép ra đây để các bạn thiếu niên xét đoán, có lẽ cũng bổ ích cho những lúc bạn thiếu niên tự xét đoán đến tính tình mình, tư tưởng mình. Sau nữa, ký giả chép lại chuyện gọi tỏ lòng thương đôi lứa thiếu mến xô nhau vào bể ái, lôi kéo nhau đến nỗi kẻ bị trọng thương, người không cần sống, để đời thiệt mất một người thiếu nữ chung tình. Phàm một người thiếu nữ đã có tính tình đằm thắm biết chịu thiệt mình để khỏi lụy đến người yêu, lại biết thương một bạn gái khác chính là người "kình địch vô tội" của mình là một hạng người ít có, thật đáng quý mà cũng đáng thương. Tính tình ấy dùng vào đâu cũng là bậc trên cả, đem dùng với nhà thì thành con hiếu, đem dùng với nước thì thành tôi ngay, đem dùng vào cảnh vợ chồng đẹp đôi thì thành vợ thuận, vợ thuận tức là mẹ hiền. Nhưng tiếc thay ! Chỉ vì quá mơ màng những ngoài vòng đời, lỡ lầm vào một cuộc tình ái, nên việc đời chếch lệch mà thành như mây tan, như khói tỏa, rút lại không được ích gì, cảnh huống ấy bọn thiếu niên nên lưu ý. Ký giả không có gì thoa vẽ, mà cũng không quen đem đạo đức bình luận ái tình, ký giả xét là xét cái tình trạng của lòng người, chép là chép cái hành động của tâm lý, còn lý luận luân lý phẩm bình xin để phần dư luận. Ký giả chưa đến tuổi biết sáng tạo ra người trong truyện thì chỉ chép lại chuyện là hơn; nếu có bạn nào quá nghiêm mà trách ký giả sao tuổi còn non, người còn trẻ đã vội đem tách bạch những nỗi éo le bí mật của ái tình mà bày cả ra đây thì ký giả xin thưa rằng: nếu những điều quan sát và lý luận kể trên kia là đúng thì lời trách ấy quá nghiêm, nếu mà sai, thì xin biết cho rằng ký giả vì những điều quan sát đó mà chép. Aout 1922  HOÀNG NGỌC PHÁCH *** Tóm tắt Tố Tâm là một tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của Việt Nam, được viết bởi Hoàng Ngọc Phách và xuất bản năm 1922. Tác phẩm kể về câu chuyện tình yêu của hai nhân vật chính là Đạm Thủy và Tố Tâm. Đạm Thủy là một thanh niên trí thức, có tư tưởng tiến bộ, còn Tố Tâm là một cô gái nhà quê, xinh đẹp, ngây thơ. Hai người gặp nhau và yêu nhau say đắm, nhưng vì những rào cản về gia đình và xã hội, họ đã không thể đến được với nhau. Review Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị về mặt văn học và xã hội. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, đặc biệt là vấn đề tình yêu và hôn nhân của giới trẻ. Tác phẩm được viết theo lối văn xuôi trữ tình, trau chuốt, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ của tác phẩm giản dị, gần gũi, dễ hiểu, nhưng cũng không kém phần tinh tế, gợi cảm. Nhân vật chính của tác phẩm là Tố Tâm. Tố Tâm là một cô gái nhà quê, xinh đẹp, ngây thơ, nhưng cũng rất yếu đuối. Cô yêu Đạm Thủy say đắm, nhưng vì những rào cản của xã hội, cô đã không thể đến được với người mình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được những nỗi đau, những bi kịch của Tố Tâm. Tố Tâm là một nạn nhân của xã hội phong kiến, của những hủ tục lạc hậu. Cô là một tấm gương tiêu biểu cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên án những hủ tục lạc hậu, những định kiến xã hội đã gây ra những đau khổ cho người phụ nữ. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Tố Tâm là một tác phẩm tâm lý đầu tiên của Việt Nam, có giá trị về mặt văn học và xã hội. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, đặc biệt là vấn đề tình yêu và hôn nhân của giới trẻ. Tác phẩm được viết theo lối văn xuôi trữ tình, trau chuốt, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ của tác phẩm giản dị, gần gũi, dễ hiểu, nhưng cũng không kém phần tinh tế, gợi cảm. Nhân vật Tố Tâm là một nhân vật được xây dựng thành công, mang đậm tính nhân đạo. Một số nhận xét của độc giả về tác phẩm "Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã lên án những hủ tục lạc hậu, những định kiến xã hội đã gây ra những đau khổ cho người phụ nữ."  "Tố Tâm là một tác phẩm tâm lý xuất sắc. Tác phẩm đã thể hiện được những nỗi đau, những bi kịch của Tố Tâm, một nạn nhân của xã hội phong kiến."  "Tố Tâm là một tác phẩm văn học đáng đọc. Tác phẩm đã mang đến cho tôi những cảm xúc sâu sắc."  Mời các bạn mượn đọc sách Tố Tâm của tác giả Hoàng Ngọc Phách.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hai làng Tà Pình và Động Hía
“Hai làng Tả Phình và Động Hía” kể về tình bạn của một cậu bé người Mán và một cậu bé người Mèo ở vùng cao Tây Bắc vào những năm 1950. Hai làng có mối hiềm khích không sao hóa giải, nhưng tình bạn trong sáng của tuổi thơ đã kết nối tình thân giữa các gia đình, dân tộc anh em trong những năm tháng kháng chiến. Đây là tác phẩm nổi tiếng một thời được nhà văn Bắc Thôn viết trước ngày lên đường ra mặt trận. Đây cũng là tặng vật gửi tặng bạn độc nhỏ tuổi của người chiến sĩ – liệt sĩ, với ước muốn các em thêm hiểu, thêm yêu đất nước, quê hương. *** Hôm nay, tôi kể cho các bạn thân mến câu chuyện Tà Pình và Động Hía. Trước khi vào chuyện, tốt hơn hết là tôi kể ngay cho các bạn một đoạn cần thiết của câu chuyện. Trên các miền rừng núi, người Mèo và người Mán thường ở rất cao. Mãi tận đỉnh núi hay mãi tít mây xanh cũng được. Người ta gọi đó là những rẻo cao hẻo lánh của Tổ quốc chúng ta. Hồi nước ta chưa độc lập, giặc Pháp còn cai trị, nhân dân các bản ít giao thiệp với nhau. Phần vì đường xa lắm dốc, phần vì cũng chẳng có chợ búa, phố phường gì mà buôn bán, trao đổi. Người Mèo với người Mèo đã như vậy. Người Mèo và người Mán lại càng xa nhau hơn nữa. Thường có những chuyện thù hằn hàng mấy đời để lại. Có khi làm lễ ăn thề cúng ma rừng ma núi mà nguyền rủa lẫn nhau. Tà Pình và Động Hía cũng như vậy. Hai làng cách nhau nào có bao xa. Chỉ bốn khoảnh đồi cỏ là đến. Một con ngựa của người Tà Pình thả ra ăn cỏ thuận chân hoặc chú ngựa mải ăn một tí, chỉ một tí thôi là nhảng vó sang đất Động Hía của người Mán. Làng Mèo Tà Pình và làng Mán Động Hía cũng giống như các làng Mèo làng Mán khác, thường có những người cầm đầu. Người cầm đầu làng Mèo gọi là thống lý. Người cầm đầu động Mán thường là dòng họ Lý, họ Triệu, làm vua các người Mán khắp nơi. Trước khi xảy ra câu chuyện tôi sắp kể vào khoảng hai ba đời gì đó, có một con ngựa của nhà thống lý họ Hoàng. Con ngựa này đẹp thật. Trước kia nó không phải là giống ngựa nhà thống lý họ Hoàng. Nó là của một gia đình họ Vừ. Anh ta có con ngựa đẹp nhưng lại không phải là thống lý nên khó giữ ngựa ở trong nhà. Một hôm, ngựa của anh đi qua nhà thống lý họ Hoàng. Thống lý họ Hoàng đang đứng phanh bụng ở trước cửa. Chòm tóc của lão ta đã bạc nhưng người còn rất khoẻ. Lão ta đứng chống háng, ngậm cái tẩu thuốc bào dài dằng dặc, vừa hút thuốc vừa nheo mắt nhìn con ngựa. Thế là ngày mai, lão ta cho người sang “xin”. Anh họ Vừ bụng tiếc của nhưng miệng vẫn phải cười, dắt ngựa sang nhà thống lý họ Hoàng. Lão gật gật gù gù làm ra chiều đon đả, vui mừng. Thống lý trả cho chén tống muối đem về. Từ đó thống lý rất chăm chuốt con ngựa. Chú ngựa tốt số sang nhà thống lý ngày một khoẻ đẹp. Lông hồng mượt như nhung. Thống lý quý con ngựa như vàng. Một hôm con ngựa được thả ra ăn cỏ. Ngựa lững thững, vẫy đuôi. Đầu nó cúi xuống gặm cỏ soàn soạt. Dáng nó cũng đủng đỉnh như con nhà quan vậy. Ngựa ăn cỏ non ngon miệng đi quá cả gốc cây bứa làm ranh giới chia hai làng Tà Pình và Động Hía. Ngựa đạp bừa, nhai nát nương dưa của vua Mán họ Lý ở Động Hía. Cũng là lúc mẹ vua Mán họ Lý đi thăm nương, thấy vậy đỏ mắt lên. Cái mặt nhăn nheo của người già dúm lại. Con mắt quắc lên như nảy lửa. Mẹ vua Mán rút con dao rừng đeo ở cạnh sườn, chém liền hai nhát vào đầu gối vó ngựa sau. Con ngựa co một chân lọc xọc chạy về tàu. Đầu nó gác lên một gióng gỗ nhưng chân không hạ xuống được nữa, máu chảy ròng ròng. Con trai thống lý thấy ngựa bị người chém què, tiếc ngựa khóc lên hu hu. Hắn ta bảo vợ lấy cái nỏ và mũi tên thuốc độc, giắt lên mang tai lần theo vết máu ngựa mà tìm. Lúc bấy giờ mẹ vua Mán chém con ngựa xong cũng chẳng buồn dọn lại dưa, quay về. Chẳng may có chị con gái nhà thường dân ở Động Hía đi hái chè trong rừng vừa tới nơi thì gặp con trai thống lý bên kia cây bứa. Con trai thống lý tì nỏ vào bụng, dán dây và bật tách một cái trúng ngay ngực chị con gái Mán. Chị ta nghiến răng vừa chạy về vừa rút mũi tên ra. Thuốc độc ngấm trong máu, chạy vào tim. Tới khe nước đầu động, chị uống một hụm, rồi cố chạy được tới động thì lảo đảo ngã gục xuống, tay còn nắm chặt mũi tên của người Mèo. Thế là hai làng thù nhau từ đời này qua đời khác chỉ vì cái chuyện giữa nhà thống lý Mèo và nhà vua Mán mà thôi. Cây bứa lâu đời vẫn chưa đổ, giờ nó già cỗi cao chon von. Cho tới năm 1948. Giặc Pháp chiếm dưới chân núi, bắn súng cối lên nương người Mán, nương người Mèo. Có lần liền mấy nương dưa của người Mán bị đạn phá tung lên hỏng cả. Nương thuốc phiện của người Mèo đẹp như những cánh đồng hoa cũng bị nát. Cả hai làng Tà Pình và Động Hía đều không thích thằng Pháp. Mấy lần liền, cán bộ Cụ Hồ lên dạy người Mán đánh giặc giữ làng, tăng gia sản xuất. Thiếu niên Mán tổ chức thành một đội liên lạc. Cán bộ biết câu chuyện thù hằn giữa Tà Pình và Động Hía, đem ra giải thích, khuyên dân Mán nên đoàn kết với người Mèo. Người Mán mới đầu không nghe, sau dần dần cán bộ nói: Cụ Hồ bảo: Kinh, Thổ, Thái, Mán, Mèo, Mường là anh em một nhà. Câu chuyện thù hằn kia không tốt. Đáng lẽ là việc của hai nhà thống lý Mèo và vua Mán là chính, sao lại liên lụy đến dân hai làng. Chồng nghe được cho là phải, về nói với vợ, vợ về nói với con cái. Thiếu niên nghe được cũng đem ra nói với nhau. Ai cũng khen cán bộ nói phải. Làng Mán đã muốn làm lành với làng Mèo, nhưng họ nhà vua Mán không bằng lòng. Người Mán có người nghĩ rằng: Nếu cán bộ vào được làng Mèo mà nói, thì người Mèo cũng hiểu được như người Mán. Rồi sau đó, cán bộ từ làng Mán sang làng Mèo cũng làm như vậy. Nhưng thống lý dòng dõi họ Hoàng lắc đầu quầy quậy. Hắn hút cái tẩu thuốc lá dài, mắt lim dim, nói: - Mán Động Hía mang cán bộ về, sau này cán bộ đem bộ đội lên bênh nó giết người Mèo ta đó. Có lần hắn nói: - Cán bộ khinh người Mèo, đến với người Mán trước. Người ta bàn tán: - Không biết ông thống lý nói có thật không? Hắn nheo mắt, đập cái trôn chén xuống sàn. - Bảo sao? Bảo sao? Thế là mọi người lại im và quá tin lời thống lý, người Mèo lại đuổi cán bộ, chưa muốn làm lành với người Mán. Câu chuyện tôi bắt đầu sau đây, các bạn ạ, nó vào giữa lúc đó. Và, đây mới thật là câu chuyện mà các bạn cần biết kỹ, nó mới là câu chuyên chính mà tôi kể cho các bạn nghe. Mời các bạn đến Tà Pình trước. * * * Buổi sáng. Mặt trời lên ửng đỏ trên các ngọn núi trước mặt. Nhưng ngọn đồi cỏ lau ngút đầu và con đường đá dăm đất đỏ còn ẩm sương sớm. Vừ A Sình tỉnh dậy. Cậu bé mở hai con mất ra đã nghe thấy tiếng xay ngô ù ù. Cậu nhảy tót ra ngoài cửa, lấy tay hứng vòi nước đắp lên mặt. Bỗng nhiên một đàn chim từ mái nhà bay vù vù về phía Động Hía. Vừa bay vừa hót “Chà chích, chà chích”. Sình khoanh tay trước ngực, đứng phưỡn cái bụng phệ trắng hếu ra nhìn. Sình nói một mình: - Nhiều con chim. Sao nó không ở Tà Pình mà lại bay về phía Động Hía? Tao bắt được một con thì thích quá. Nói một mình như vậy, cậu nâng vạt áo lên lau mặt. Nghĩ một lát, cậu vò chỏm tóc như một chiếc áo búp đa nằm trên đầu, chạy thụt ngay vào trong nhà. Mẹ cậu đang xay ngô. Cái váy hàng trăm nếp của bà rung rinh. Bà thấy con đang xách cái lồng chim từ trên vách xuống. Đó là một cái lồng bẫy. Bên trong con chim mồi nhảy lách cách, lách cách. Bà hét lên cho to hơn tiếng cối xay: - Mày đi chơi à, lại bắt con chim à? Sình vừa sửa cái lồng vừa trả lời mẹ: - Tôi đi bắt con chim chứ! - Dề. Mày bắt chim, Tây nó lên mày chạy sao kịp, Sình à? - Tôi chạy kịp chứ. Nó đến Mán Động Hía trước chứ. - Ờ, mày đi cho gần cũng có con chim đấy. Mày đừng sang quá đất Tà Pình. Mán Động Hía nó giết chết đấy. Nó chém cho đấy. Sình chưa nghe hết lời mẹ, cậu xách cái lồng chạy ton ton về phía có đàn chim bay. Bà mẹ buông tay cối, lật đật ra cửa. Thấy con chạy về phía Động Hía, bà dang thẳng hai tay lên trời, cúi gập người xuống, chân giậm bành bạch, bà hét lên: - Sang phía rừng ăn măng này này. Mày sang Mán nó chém chết. Cậu bé nghe mẹ hét, lảng vảng, đi từ từ sang phía rừng măng. Bà mẹ thấy vậy mới yên tâm quay vào, lại xay ngô ù ù. Cậu bé thấy mẹ vào rồi thì len lén, co chân lên thật cao, rón rén quay lại rồi ù té chạy về phía Động Hía. Bà mẹ cứ tưởng con đi về phía rừng ăn măng nên không nhìn ra nữa. Sình chạy khuất một khoảnh đồi. Cậu yên trí đi từ từ. Miệng cậu chúm lại hót sáo theo tiếng chim. Con chim mồi trong lồng cành cạch nhảy hót theo. Đi được một quãng thì đã vắng tanh. Bờ cỏ lặng lẽ như một nơi bỏ hoang từ lâu đời. Con chim hú hò nào bỗng dưng kêu bạn giữa ban ngay làm cho cậu bắt đầu sợ. Cậu lẩm bẩm một mình: - Thằng Mán nó chém tao thì tao chết à? Tiếng chim trong lồng lại hót lên “chà chích, chà chích”. Tiếng chim trong vắt như khêu gợi làm cho cậu chúm mồm hót theo. Rồi cậu lẩm bẩm: - Tao thấy nó thì tao chạy chứ. Con chim nó bay về phía ấy mà. Nó chỉ ở gần vườn chè của thằng Mán thôi. Thế là Sình lại đi. Cây bứa đã sờ sờ trước mắt. Cây bứa từ mấy đời trước là cái mốc ngăn cách hai láng Tà Pình và Động Hía bây giờ vẫn còn. Cậu bé dừng ngay lại, nhìn quanh. Mấy cây thâm thấp ngay cạnh đường là chỗ Sình có thể treo lồng chim được rồi. Cậu chuẩn bị lạt và buộc lồng chim lên một cành cây. Cậu mở ngăn bẫy ra, rồi thử mấy cái. Cửa lồng vẫn tốt. Cậu liền ngồi núp vào một bụi cây dại. Mồm hót sáo theo tiếng chim. Con chim mồi cũng hót theo. Mấy con chim nghe thấy tiếng hót, từ trên cành cao nhảy dần xuống thấp. Trống ngực Sình đập thình thình. Nhưng lũ chim chẳng vào lồng cho. Chúng cứ nhảy loanh quanh. Bỗng dưng “cách” một cái. Không phải lũ chim dại dột đã mắc cạm của Sình mà chính con chim mồi đã nhoi ra từ lúc nào. Sợi dây buộc chân làm vướng cánh nên nó chỉ nhảy chứ không bay được. Con chim nhảy xuống mặt đường, cố vươn cánh lên mà bay. Cái chân nó chỉ bổng lên chút ít rồi lại sà xuống. Cậu bé Mèo hoảng hốt. Từ trong bụi cây, cậu nhảy xổ ra đuổi con chim. Mấy lần cậu lao cả thân cậu xuống bờ cỏ mà đuổi nhưng con chim chưa bị nắm trong tay cậu. Nó vẫn loạng choạng chưa cất nổi cánh. Cậu vừa đuổi vừa vồ, vừa nói một mình: - Mày bay à, tao bắt mày, tao bắt được mày. Con chim thoắt chốc bỗng lao sang bên kia cây bứa. Thôi thế là đất Động Hía rồi. Sình bỗng dưng thừ người ra. Cậu xoa xoa cái bụng: “Tao sang bắt chim à? Thằng Mán nó chém tao chết. Tao mất chim thì tao tiếc lắm.” Sình định bước bạo sang. Nhưng rồi cậu không dám: Con chim bay loạng choạng vài khúc nhỏ, rồi nằm nép mình trong một bụi cây. Mời các bạn đón đọc Hai làng Tà Pình và Động Hía của tác gải Bắc Thôn.
Mùa Thu Hoạch Xương
Haiti và Cộng hòa Dominicana, hai quốc gia láng giềng trên cùng một hòn đảo vùng Ca-ri-bê, năm 1937, Amabelle sống cuộc đời bình lặng của một cô hâu gái người Haiti cho cô chủ Valencia, một gia đình Dominicana thuợng luu. Cuộc sống thường nhật của cô và chàng trai đồng hương Sebastien hẳn sẽ tiếp tục trôi qua trên những ngọn đồi giữa những cánh đồng mía nếu độc tài Trujillo không bắt đầu cuộc thảm sát "Cây mùi tây" nhắm vào người Haiti ở Dominicana. Bị đẩy vào một cuộc vuợt biên đầy nguy hiểm, Amabelle buộc phải đối mặt với việc lựa chọn giữa mất mát và sống còn, giữa những bóng đen trong quá khứ và tương lai. Quan trọng hơn, liệu cô có đủ dũng cảm để tiếp tục sống như một trong "những người trở về từ cõi chết" trên chính quê hương của mình? "Nhưng tôi muốn mọi người biết rằng tôi hiểu. Tôi nhìn thấy tất cả những thứ đó. Chỉ có điều tôi đã tưởng rằng chúng sẽ không nhìn thấy tôi. Tôi những tưởng rằng chúng sẽ không tìm ra tôi. Chỉ đến khi Mimi và Sebastien bị bắt đi thì tôi mới nhận ra rằng dòng sông máu đã chảy tới trước cửa nhà mình, rằng nó vẫn luôn ầm ào chảy ngay trong nhà của tất cả chúng tôi." *** Kế ấy, Jephthah hiệp lại hết thảy dân Gilead, giao chiến cùng Ephraim. Người Gilead chiếm hết những chỗ cạn để vượt sông Jordan dẫn vào Ephraim. Và khi một người Ephraim sống sót nào nói rằng, “Xin để cho tôi đi qua”, thì những người Gilead nói rằng : “Ngươi có phải người Ephraim chăng ?” Nếu anh ta nói, “Không,” chúng bèn nói cùng người đó rằng, “Thế thì, hãy nói ‘Shibboleth.’” Nếu người đó nói “Sibboleth”, vì anh ta không thể phát âm chính xác chữ đó được, chúng sẽ bắt và giết họ tại chỗ cạn của sông Jordan. Khi đó, đã có bốn mươi ngàn người Ephraim bị sát hại. Kinh Judges 12:4-6 Dâng kính lên người, Metrès Dlo, Bà mẹ của Những dòng sông Amabelle Désir *** T ên anh ấy là Sebastien Onius. Gần như đêm nào anh cũng đến để dập tắt cơn ác mộng mà tôi luôn thấy về cái ngày cha mẹ tôi chết đuối. Trong lúc tôi kháng cự lại giấc ngủ, anh thì thầm bảo “nằm yên trong lúc anh đưa em trở lại.” “Trở lại đâu?” Tôi hỏi mà không cảm thấy môi mình động đậy. Anh trả lời, “Anh sẽ đưa em trở lại hang đá phía bên kia con suối.” Tôi loạng choạng rướn người về phía anh, gắng gượng để đứng lên. Anh giúp tôi giữ thăng bằng với những đầu ngón tay dài mà cong, những ngón tay sống động trườn mò về phía tôi. Tôi bám vào người anh, đầu tôi suýt chạm tới giữa vòm ngực anh. Anh đẹp một cách hào sảng trong ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu thốt nốt, mặc dù gương mặt đen bóng của anh đầy rãnh sẹo đan xen do những thân mía để lại. Cánh tay anh lớn bằng cả vòng đùi tôi. Chúng là những thanh thép, tôi luyện bởi bốn năm thu hoạch mía. “Nhìn em này,” anh vừa nói vừa nâng mặt tôi lên bằng bàn tay rộng lớn hình bát úp, nơi lòng bàn tay đã mất đi chỉ tay do những con dao chặt mía. “Em ngời sáng như một ngọn đèn lồng Giáng sinh, ngay cả với làn da màu tro tàn của gỗ vụn trong mưa.” “Đừng nói với em kiểu đó,” tôi lẩm bẩm trong lúc vẫn đang giằng co với bóng đen của giấc ngủ. “Nói chuyện kiểu này làm em thấy trần trụi.” Anh đưa bàn tay vuốt ve dọc theo lưng tôi. Lòng bàn tay thô ráp và chai sần của anh day miết như muốn bào mòn da thịt tôi, trong khi chiếc vòng đeo tay làm từ những hạt cà phê màu vàng của anh lăn qua lăn lại và mơn trớn sống lưng tôi mềm mại. “Hãy cởi váy ngủ của em ra,” anh gợi ý, “và thực sự trần trụi đi. Khi đã trút bỏ hết rồi, em sẽ biết rằng mình đang hoàn toàn tỉnh táo và anh có thể ngắm nhìn em trong vui sướng.” Nói rồi, anh lướt về phía bên kia phòng và quan sát mọi cử động của da thịt tôi trong lúc tôi cởi bỏ áo quần. Anh ở trong một góc phòng cách xa ngọn đèn, một vùng tối nơi anh nhìn thấy tôi rõ hơn là tôi thấy anh. “Sẽ tốt cho em nếu em hiểu và tin rằng anh luôn ở gần bên em ngay cả khi mắt em không thể nhìn thấy anh,” anh nói. Câu nói này khiến tôi bật cười lớn, quá lớn vào thời khắc nửa đêm. Bây giờ thì tôi đã hoàn toàn khỏa thân và tỉnh táo. Tôi nhanh chóng ngã vào vòng tay anh với bộ váy ngủ còn vướng quanh mắt cá chân. Với thân hình gầy gò như anh hay nói, tôi sợ mình sẽ dễ dàng gãy làm đôi và biến mất. Tôi sợ phải sống nhút nhát, tách biệt, và lạnh lẽo. Tôi sợ rằng mình sẽ ngừng tồn tại khi anh không ở đó. Tôi như một hòn cuội ở biển hút ngược màu sắc của mình vào bên trong và không còn trong trẻo nữa một khi bị mang ra ngoài ánh nắng mặt trời và rời xa bọt sóng. Khi anh không ở đó, tôi sợ tôi sẽ không còn biết ai và cũng chẳng còn ai biết tôi. “Quần áo em che đậy đâu chỉ da thịt em,” anh nói. “Chúng biến em thành một thứ đồng phục gò bó. Bây giờ em mới là em bằng xương bằng thịt.” Tôi hoặc phải ở trong một cơn ác mộng, hoặc không ở bất kỳ nơi nào cả. Nếu không, tôi chỉ trôi lơ lửng trong những ký ức này, xót xa cho tôi của quá khứ, và hơn hết là cho tôi của hiện tại. Nhưng những đau buồn này tôi để dành khi không có anh ở bên. “Hãy nhìn khuôn mặt nhỏ nhắn hoàn hảo của em này,” anh nói, “dáng hình nhỏ nhắn hoàn hảo của em, cơ thể nhỏ nhắn hoàn hảo của em, một người thiếu nữ đang lớn với nước da đen thăm thẳm. Tất cả các gam màu tối hiện hữu trong em, những thứ chúng ta nhìn thấy và không nhìn thấy, cái thiện và cái ác.” Anh lướt tay trên người tôi nhẹ tựa lông hồng, như thể anh cũng sợ rằng tôi sẽ tan biến đi mất. “Mọi thứ trên khuôn mặt em đều nằm đúng chỗ,” anh nói, “mũi em cũng nằm ở vị trí của nó.” “Ôi, wi1, thật thê thảm biết bao,” tôi đáp, “nếu mũi em nằm ở dưới gan bàn chân.” 1 Ừ, đúng. Tiếng Creole ở Haiti. Lần này thì chính anh là người bật cười. Nhìn gần hơn, tiếng cười làm khuôn mặt anh nhăn lại và hai vai anh nhấp nhô lên xuống không đều nhịp. Tôi không bao giờ dám chắc rằng anh đang cười hay vừa cười vừa khóc, mặc dù tôi chưa bao giờ thấy anh khóc. Tôi choàng tay qua người anh và chìm lại vào giấc ngủ. Anh sẽ biến mất trước khi tia nắng ban mai đầu tiên đượm mùi sả ló dạng. Nhưng tôi vẫn cảm nhận được sự hiện diện của anh ở đó trong căn phòng vuông vức nhỏ bé của mình. Tôi có thể ngửi thấy mùi mồ hôi anh, đặc quánh như mật mía khi anh phải vắt sức quá nhiều. Tôi vẫn có thể nếm náp khuôn miệng anh, với phần lợi thẫm màu cà tím có vị ngọt nhầy của sữa dê đun nóng đến quyện đường và mùi của những củ khoai tây màu vàng mù tạt. Tôi cảm nhận những móng tay thô dày của anh vun đôi má tôi lên cao, và vòng đeo tay của anh cứa vào hai hõm nhỏ bên dưới xương gò má để lại một giọt máu khô hình trăng khuyết hoàn hảo. Tôi tận hưởng cách lưỡi anh âu yếm lần theo huyết mạch trên sống lưng tôi và để lại những đường ẩm ướt, những dấu tay hằn mờ trên hông tôi nơi anh bám vào quá chắc, có lẽ trong những giây phút khi anh cảm thấy tôi đang tuột dần đi. Và tôi vẫn có thể đếm những hơi thở của anh, đôi khi gấp gáp hơn cả nhịp tim anh. Khi còn là một đứa trẻ, tôi thường dành hàng giờ chơi đùa với cái bóng của mình, trò chơi mà cha tôi luôn cảnh báo rằng sẽ khiến tôi gặp ác mộng, những cơn ác mộng nơi ta thấy những giọng nói xoáy thành cơn lốc đủ sắc cầu vồng và nghe những vật với đủ hình thù kỳ dị trỗi dậy cất tiếng nói khẳng định chính mình. Chơi đùa với bóng của mình giúp tôi, một đứa con một, cảm thấy bớt cô đơn. Mỗi khi tôi có bạn chơi cùng, tôi đều cảm giác họ không có thật hay không hiện diện. Tôi coi họ chỉ như vật thế chỗ cho cái bóng của tôi. Và trong quãng đời sau này, tôi còn gặp nhiều cái bóng khác. Đôi khi Sebastien Onius bảo vệ tôi khỏi những cái bóng. Đôi khi anh lại là một trong số đó. *** Edwidge Danticat (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1969) là một tác giả có hai quốc tịch Haiti và Hoa Kỳ, người có những tác phẩm văn học nhấn mạnh cuộc sống của người phụ nữ và mối quan hệ của họ. Những trải nghiệm cuộc sống của riêng bà đã cung cấp nền tảng và cảm hứng cho các tác phẩm của bà. Truyện ngắn và tiểu thuyết của bà tập trung vào các chủ đề mang tính chất tuần hoàn như di dân, tình dục, giới tính và lịch sử . Cha mẹ của bà đã di cư đến New York mà không đem theo bà đi và bà lớn cùng với cô chú của mình. Trong những năm sớm của cuộc đời, bà bị ảnh hưởng bởi lối kể chuyện của người Haiti và phát triển mối quan tâm đến việc viết lách. Khi được 12 tuổi, bà sống cùng với ba mẹ mình tại Brooklyn nhưng không cảm thấy thoải mái khi phải thích nghi với lối sống và văn hóa của thành phố này và chỉ tìm thấy sự bình yên trong các tác phẩm văn học. Sau khi nhận được bằng tốt nghiệp về văn hóa tiếng Pháp tại Học viện Barnard, bà còn nhận được bằng Bậc thầy Nghệ thuật khi, với luận đề của bà, xây dựng những nền tảng của tiểu thuyết đầu tay của bà Hơi thở, Ánh mắt, Kỷ niệm. Bà đạt được những thành công chưa từng có như một người viết truyện ngăn và tiểu thuyết bằng những tác phẩm nhận được những lời khen từ giới phê bình. Bà cũng là một người đấu tranh các vấn đề ảnh hưởng đến người Haiti ở trong và ngoài nước. Với những trải nghiệm như một người có hai quốc tịch Haiti và Hoa Kỳ, bà viết về một trong những nền văn hóa ít nổi bật nhất trong văn hóa Hoa Kỳ sử dụng phong cách mang tính chất thơ và sôi nổi. Tác phẩm của bà đã được dịch sang một số ngôn ngữ như tiếng Hàn, tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển. Bà được xem xét một cách rộng rãi như là một trong những tác giả tài năng nhất của Hoa Kỳ hiện nay. Vào năm 1994, bà đã xuất bản tiểu thuyết đầu tiên mang tên Hơi thở, Ánh mắt, Kỷ niệm dựa trên luận đề su tốt nghiệp của bà có tiêu đề Sự chuyển của tôi trong lửa - một tiểu thuyết rút gọn. Các truyện ngắn của bà đã được xuất bản trong 25 tạp chí định kỳ và đã được tập hợp trong một số lần. Tác phẩm đã được chuyển dịch sang các ngôn ngữ khác nhau như tiếng Nhật, tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Thụy Điển. Bà là một giáo viên về sáng tác sáng tạo tại Đại học New York và Đại học Miami. Bà cũng làm việc trong một số dự án về nghệ thuật Haiti và các phim tài liệu về Haiti. Các tác phẩm đã được xuất bản của bà là: The Farming of Bones (1998) The Book of the Dead (1999) Behind the Mountains (2002) Brother, I'm Dying (2007) Ghosts (2009) Create Dangerously: The Immigrant Artist at Work (2010) Claire of the Sea Light (2013) Quality Control (2015), cuốn truyện ngắn mới nhất của bà Mời các bạn đón đọc Mùa Thu Hoạch Xương của tác giả Edwidge Danticat.
Tiếng Gọi Vĩnh Cửu
A-na-tô-li I-va-nốp (sinh năm 1928) - nhà văn Nga nổi tiếng, người được giải thưởng Quốc gia Liên Xô, đã hoạt động trong nền văn học Xô-viết hơn 30 năm. Tên tuổi ông gắn liền với việc khai thác dưới góc độ văn học vùng Xi-bi-ri cùng với lịch sử và hiện tại của nó. I-va-nốp sinh ra và lớn lên tại làng Sê-mô-na-i-kha thuộc miền đông Ca-dắc-xtan. «Ở đó đời sống Xi-bi-ri và con người Xi-bi-ri vẫn đi theo nề nếp của mình», - sau này ông đã viết về làng quê của mình như vậy. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp khoa báo chí trường đại học tổng hợp, ông đã làm việc một số năm tại các tòa soạn các báo huyện ở vùng Xi-bi-ri, Viễn Đông và đã từng đi nhiều nơi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông xuất bản năm 1956. Tiếp đó là các tiểu thuyết lớn: «Bóng đen biến mất giữa ban ngày», «Tiếng gọi vĩnh cửu» (1970) rất nổi tiếng ở Liên Xô và ở nước ngoài. Hầu hết các tác phẩm của ông đều được đưa lên màn ảnh, các bộ phim vô tuyến truyền hình nhiều tập dựa theo cốt truyện các tiểu thuyết của ông đã đạt được thành công lớn. Sự việc diễn ra trong cuốn sách này bao gồm gần nửa thế kỷ cuộc sống của một làng quê Xi-bi-ri-từ đầu thế kỷ đến năm 1942, năm thứ hai trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống bọn phát-xít Hít-le. A-lếch-xan-đrơ Ốp-tsa-ren-cô, một nhà ngữ văn học lớn của Liên Xô đã viết về cuốn tiểu thuyết «Tiếng gọi vĩnh cửu»: «...chúng ta ngập vào trong thế giới của những xung đột cực kỳ gay gắt, những tình huống vô cùng căng thẳng, những đụng độ về trí tuệ, tinh thần và thể lực ác liệt nhất. Ở đây những khát vọng sôi lên sùng sục, những con người của những niềm tin khác nhau mâu thuẫn với nhau phải dùng đến cả đại bác, tiểu liên, súng máy, súng ngắn, súng lục, nắm đấm và cả hàm răng nữa. Ở đây người ta cũng cảm thấy hơi thở của sự diệt vong gần ngang như hơi thở của sự sống... bởi vì có một thế giới đang sụp đổ và một thế giới khác đang ra đời...» *** Vào một ngày tháng Sáu năm 1908, trong phòng hỏi cung của sở hiến binh thành phố Tôm-xcơ có hai người: dự thẩm La-khơ-nốp-xki, chừng ba mươi lăm tuổi, chiếc mũi tẹt lúc nào cũng như láng mỡ, và cai ngục Cô-xô-rô-tốp, một gã đàn ông vẻ ngoài khó coi với chiếc quai hàm bạnh ra bè bè. La-khơ-nốp-xki ngồi sau bàn làm việc uống nước chè, mình chỉ mặc một chiếc sơ-mi lót trong. Trời nóng nực, áo khoác ngoài nhà binh treo trên lưng ghế tựa. Cô-xô-rô-tốp đứng phục dịch, khăn vắt ngang tay, trông hắn chẳng khác gì một tên hầu bàn ở các quán ăn. La-khơ-nốp-xki đặt chiếc cốc không xuống khay, lên tiếng: - Ta có xem bản báo cáo của anh gửi cấp trên. Anh muốn xin về nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki phải không? - Thưa ngài, đó là điều con vẫn mơ ước từ thời trẻ đấy ạ. - Mơ ước - đó là điều rất tốt. Mơ ước của con người cần phải được thực hiện. - Dạ, ngài có lần đã hứa, nếu con lập được công, ngài sẽ giúp. - Được, được, ta sẽ nói hộ. Cho anh đi thì hơi tiếc, nhưng cũng phải khen thưởng anh vì sự phục vụ tận tụy và trung thành. - La-khơ-nốp-xki đẩy chiếc khay với bộ ấm chén sang một bên. - Thôi, bây giờ ta lại bắt đầu với mấy người đồng hương từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ của anh... Làm thế nào mà anh chộp được chúng thế? - Dạ, thưa ngài Ác-nôn-đơ Mi-khai-lô-vích, hôm đó con đang đi đến rạp xem xi-nê. Khi đi ngoài phố, bao giờ con cũng chú ý quan sát xung quanh, xem có gì đáng khả nghi không? Con đang nhìn thì bỗng thấy từ một ngõ hẹp ngay trước mặt có hai người bước ra, rồi vội vã đi thẳng. Con nghĩ: có cái gì đáng nghi lắm... Vừa lúc đó, một đứa ngoái nhìn lại. Con ngạc nhiên nhận ra đó là Pi-ốt Pô-li-pốp. Đồng hương! Thế còn người đi với hắn là ai? Thôi đúng là An-tôn Xa-vê-li-ép rồi! Hai đứa hồi năm chín trăm linh năm, linh sáu đã bị giam ở nhà tù Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Lúc đó con làm cai ngục ở đấy. Con nghĩ, không biết chúng đến Tôm-xcơ để làm gì? Và thế là con thổi còi... - Thôi, được rồi, khá lắm. Dẫn từng đứa một vào đây. La-khơ-nốp-xki khoác chiếc áo nhà binh lên vai, châm lửa hút. Khói thuốc bay ra ngoài phòng theo lỗ thông hơi của chiếc cửa sổ bịt bằng lưới thép. Chưa đầy hai phút sau, Cô-xô-rô-tốp đã đẩy An-tôn Xa-vê-li-ép vào phòng. An-tôn mặc chiếc áo vét-tông nhàu nát, mấy túm tóc màu bạch kim rủ lòa xòa trước trán dưới vành mũ lưỡi trai. Đôi mắt trong và rất sáng nhìn La-khơ-nốp-xki đầy vẻ hằn học, cau có. Tên dự thẩm rít một hơi thuốc, bước đến bên cạnh An-tôn, hất đầu chỉ hai cặp giấy dày cộp nằm trên bàn, cười gằn: - Tôi vừa mới hỏi xin hồ sơ cá nhân của anh và Pô-li-pốp ở sở hiến binh Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về đấy. Thế nào, bây giờ thì còn khăng khăng ngoan cố nữa không?   * * *   Gần một tháng trước đây, An-tôn Xa-vê-li-ép vừa tròn 18 tuổi. Và cũng đúng vào ngày sinh, anh tổ chức lễ cưới. Vợ anh là Li-da Da-kha-rô-va, con gái ông Nhi-can-đrơ Da-kha-rốp, một đảng viên Đảng xã hội, quê ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Ông đã hy sinh hồi tháng Ba năm 1905 trong một chuyến vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki. An-tôn, sinh ra và lớn lên ở làng Mi-khai-lốp-ca nhỏ bé thuộc xã San-ta-ra, cách Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ chừng trăm rưởi véc-xta1. Cha của cậu, Xi-lan-chi Xa-vê-li-ép, rất nghèo, như ở Mi-khai-lốp-ca người ta thường nói, «nghèo hơn cả con chó của cố đạo». Câu đó có nghĩa gì, không bao giờ An- tôn có thể hiểu được, vì ở Mi-khai-lốp-ca vốn không có nhà thờ, không có cố đạo, và lẽ dĩ nhiên, không có cả chó của cố đạo. An-tôn lớn lên như một đứa trẻ lêu lổng, thường hay đánh đập hai em trai là Phê-đô và I-van. Tất cả trẻ con làng Mi-khai-lốp-ca đều sợ cậu chết khiếp. Chưa ai biết An-tôn rồi sẽ lớn lên thành người như thế nào, thì mùa xuân năm 1904, Mi-tơ-rô-phan, em ruột của Xi-lan-chi, làm nghề thợ mộc, từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về thăm làng Mi-khai- lốp-ca. - Này chú Mi-tơ-rô-phan, chú đưa thằng An-tôn ra thành phố một thời gian nhé? - người anh hỏi. - Có thể chú dạy nghề cho nó. Ở nhà tôi và mẹ nó chịu không làm sao bảo được nó. Thằng bé sẽ hỏng mất thôi. Nghe nói hình như còn kết bạn với bọn chuyên ăn trộm ngựa, được chúng dạy cho cờ bạc. Ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ An-tôn rất thích, nhưng không chịu học nghề thợ mộc. Suốt ngày cậu lang thang khắp các phố, làm quen với bọn du côn, đánh bạc với chúng, tìm cách móc túi những người say rượu nằm lăn lóc các quán, và nhiều lần bị đánh nhừ tử. Rồi bỗng nhiên cậu bỏ tất cả những trò đó và trở nên say mê bẫy chim ở các cánh rừng xung quanh thành phố, đưa ra chợ bán hoặc đổi lấy bánh quế cho Pi-ốt Pô-li-pốp, con trai một chủ hiệu buôn ở gần đấy. Bản thân An-tôn không ưa của ngọt, bao nhiêu bánh cậu đều cho Li-da có đôi chân thon thả, «con lão khổ sai» - như người ta thường gọi cô. Cô bé Li-da này, người gầy đét như một bộ xương, đầu gối nhọn hoắt và cặp lông mày đen rất dài, lúc đó chừng mười bốn tuổi, nhà ở cùng phố với chú Mi-tơ-rô-phan. Bà mẹ cô hình như bị bệnh lao, ho quanh năm suốt tháng, làm việc ở nhà máy xà-phòng. An-tôn quan tâm đến Li-da chỉ vì cô là con gái của một người tù khổ sai. «Cũng hay, không biết vì sao mà người ta bắt ông ta đi đày, - cậu nghĩ, - chắc có lẽ vì đâm chết ai đó». Một lần, An-tôn đem điều này ra hỏi Gri-gô-ri, con trai cả của chú Mi-tơ-rô-phan làm nghề đốt lò ở đề-pô xe lửa. Anh cao lớn, xương xẩu, đôi mắt to, người bao giờ cũng sặc mùi khói và bồ hóng. Gri-gô-ri là một thanh niên rất vui nhộn, thường hay cho An-tôn đi theo câu cá, và nói chung, đối xử với cậu thân mật, bình đẳng như với một người bạn cùng lứa tuổi. - Con người muốn tìm sự thật nên bị tống đi đày khổ sai, - Gri-gô-ri nói. Anh chăm chú nhìn An-tôn rồi tiếp thêm: - Ông ấy, cha của Li-da, là đảng viên Đảng Xã hội. - Đảng Xã hội là cái gì? - Là cách mạng. - Thế cách mạng là cái gì? Gri-gô-ri phá ra cười, và không hiểu sao, anh lại nháy mắt nhìn An-tôn: - Thế nào, lạ lắm phải không? Rồi anh cũng sẽ biết được thôi. Mọi cái đều có lúc của nó. Ít lâu sau, An-tôn biết được rằng cả Gri-gô-ri, cả chú Mi-tơ-rơ-phan, thậm chí cả bà thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na cũng là những người cách mạng, mặc dù họ tìm mọi cách để giấu kín, không cho An-tôn biết điều này. Và khi thấy An-tôn đã biết hết mọi chuyện, suýt nữa họ bắt cậu phải trở về với bố mẹ ở làng Mi-khai-lốp-ca. Găng nhất là thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na. Nếu không có Gri-gô-ri, chắc chắn An-tôn đã phải về rồi. - Cha ạ, con thật không hiểu cha muốn gì?! - một lần, Gri-gô-ri đã to tiếng với cha. Anh túm lấy bộ quân bài của An-tôn vừa bị thím U-li-a-na tước được vứt trên bàn, lắc lắc trong không khí. - Cha muốn để cho An-tôn cứ đi theo con đường này à? Càng để lâu thì càng khó chữa đấy. Cha phải hiểu rằng, vào cái tuổi này, ma quỷ nào biết nó muốn gì. Toàn những chuyện khác thường! Cho nên, cần phải tìm cách giúp đỡ An-tôn! Và ngay trong ngày hôm đó, chỉ nửa giờ sau, trong lúc nhận tài liệu bí mật từ tay liên lạc viên tại một ga xép ở ngoại ô thành phố, Gri-gô-ri - anh thanh niên Gri-gô-ri bao giờ cũng sôi nổi, không biết chán nản là gì, người đã phản đối việc gửi trả An-tôn về làng Mi-khai-lốp-ca, - đã bị cảnh sát bắn trọng thương. Chiều hôm đó anh tắt thở trên tay An-tôn, chỉ kịp nói mấy lời: - An-tôn, nếu anh đi tìm sự thật, thì nhà tù, khổ sai và, có thể, cả cái kết cục như thế này... sẽ đợi anh... Anh có dám đi không? - Đi! - Không sợ à? - Không! - Tốt lắm... - Tôi cũng sẽ trở thành người như chú! - Tôi tin... Chẳng bao lâu sau, An-tôn đã được nếm mùi tù ngục lần đầu tiên. Cả anh, cả Li-da, cả Pi-ốt Pô-li-pốp, - mặc dù Pi-ốt là con trai của một chủ hiệu khá giàu có. Dần dần, An-tôn và Pi-ốt trở nên thân nhau. Tình bạn của họ chỉ bị có một điều duy nhất làm cho vẩn đục: từ bao giờ không biết, cả hai người đều đã thầm yêu Li-da. Không hiểu cô gái có cái gì làm cho anh chàng Pi-ốt phải say mê? Li-da không xinh, chỉ có đôi mắt của cô là đẹp, đôi mắt hơi xanh như làn nước suối, bao giờ cũng lấp lánh một thứ ánh sáng vừa sống động, vừa bồn chồn. An-tôn yêu cô vì sự táo bạo đến liều lĩnh của cô, mặc dù nhìn bề ngoài thì không thể kết luận như vậy được. Mới 14-15 tuổi, cô đã nhiều lần đến Tôm-xcơ và chuyển tài liệu mật, thậm chí cả vũ khí nữa, từ đấy về. Về phía Li-đa, cô đối xử với An-tôn và Pi-ốt bao giờ cũng như nhau; và mãi cho tới tận thời gian gần đây cũng không biết được là cô thích ai hơn. Trong thâm tâm, An-tôn cho Pi-ốt có nhiều lợi thế và triển vọng hơn, đặc biệt là từ sau ngày ở tù ra. Họ bị bắt vào cuối tháng Mười năm 1905, tất cả gồm bốn người: An-tôn, Li-da, Pi-ốt và I-van Mi-khai-lô-vích Xu-bô-tin - người lãnh đạo tổ chức Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga ở thành phố Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ, một nhà hoạt động cách mạng có nhiều kinh nghiệm. Cùng với cha của Li-da, ông vừa mới vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki về mấy tháng trước đây. Các đồng chí kiếm cho ông được giấy tờ hợp pháp mang tên Cu-dơ-ma Tsúc-kin, và bố trí cho làm chân rửa bát ở bếp nhà lao Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Làm việc ở đây, ông tích cực chuẩn bị cho những người tù chính trị vượt ngục. Vào một ngày tháng Mười, trong thời gian bãi công, những người công nhân đường sắt, - sau cái chết của Gri-gô-ri, tổ chức ở đây do cha anh, Mi-tơ-rô-phan, lãnh đạo, - đã tổ chức một cuộc biểu tình chính trị lớn chưa từng thấy và phá được nhà tù. Những đại đội Cô-dắc và quân đội chính quy chỉ mấy phút sau được điều đến để giải tán đám biểu tình, và toàn bộ những người tổ chức cuộc phá ngục đã bị bắt. Ngày hôm đó, Tsúc-kin - Xu-bô-tin trao cho An-tôn và Pi-ốt Pô-li-pốp một nhiệm vụ chiến đấu thật sự. Từ sáng, An-tôn cần phải đến một ga xép vắng vẻ để nhận từ tay ông già công nhân đường sắt một túi đạn và trước mười giờ phải mang đến chỗ hẹn trong rừng ở ngoại ô thành phố. Đây là số đạn dự trữ. Trong trường hợp cần thiết, Pi-ốt Pô-li-pốp sẽ chuyển số đạn đó vào thành phố cho tổ xung kích. Pô-li-pốp là học sinh trung học. Mặc bộ đồng phục học sinh, anh dễ dàng mang đạn đi trong thành phố mà không gây sự nghi ngờ. Nhưng An-tôn lại tự ái vì anh không những không được chọn vào tổ xung kích đi phá nhà tù, người ta cũng không tin tưởng giao cho anh mang đạn vào thành phố. Vì vậy, từ ga xép, anh đến thẳng địa điểm tập trung của tổ xung kích.   Mời các bạn đón đọc Tiếng Gọi Vĩnh Cửu của tác giả Anatoli Ivanốp.
Miền Đất Dấu Yêu
Tặng các bạn thích các chuyện tình lãng mạn nhẹ nhàng để qua thời gian stay home chán ngắt trong mùa dịch Covid-19. (Truyện này Sẻ dịch đã lâu và đăng trên trang nhà, định edit xong rồi mới phổ biến ebook. Nhưng bây giờ, tình hình bận rộn và lửa nhiệt tình đã khô cạn nên thôi đành bỏ cuộc.) Nếu các bạn bỏ qua cho một số lỗi khi dịch vội vàng thì đây là một chuyện tình rất dễ thương, đủ để giải trí cho một buổi chiều rảnh rỗi. *** Những lời hứa ngọt ngào… Những mưu chước thâm hiểm… Summer mắt tím chỉ là một cô bé khi cô nghe những lời hứa hẹn ngọt ngào… em sẽ lớn lên, cô gái mùa hè, và rồi anh sẽ đến và đưa em về nhà… Bây giờ cô đã trở thành một vẻ đẹp kiêu hãnh và đã về nhà an toàn giữa những ngọn đồi hoang dã ở vùng biên giới Texas,… ở nhà cùng Slater McLean, một chủ trại đẹp trai khao khát nỗi đam mê trong sự hăng hái ngây thơ của cô… Nhưng một phụ nữ thâm hiểm đã quyết định tiêu diệt tình yêu của họ, chiếm đoạt khỏi Slater những mẫu đất giàu có nhất của vùng Texas. Một phụ nữ với một vũ khí bí mật : một bức thư sẽ khiên Summer ô nhục mãi mãi… *** Dorothy Garlock là một trong những tác giả bestseller của NEW YORK TIMES, USA TODAY, WASHINGTON POST... Với trên 50 tác phẩm chủ yếu viết về mảnh đất miền Tây hoang đã được dịch sang 18 thứ tiếng, xuất bản ở 36 quốc gia cùng 20 triệu bản in trên toàn thế giới, Dorothy Garlock được mệnh danh là “Tiếng nói của đất mẹ Mỹ - The voice of America’s heart”. Bà đã đạt được hơn 21 giải thưởng danh giá trong sự nghiệp văn chương đồ sộ của mình. *** Ngày thứ Sáu cuối cùng cũng đến. Nó theo sau năm ngày khốn khổ nhất trong cuộc đời của Summer. Hôm nay, vào buổi trưa, nàng sẽ bắt chuyến xe khách sẽ đưa nàng rời khỏi Hamilton mãi mãi. Vào lúc sợi nắng đầu tiên của bình minh vươn đến, nàng ngồi dậy và thay quần áo rồi ngồi bên cạnh cửa sổ. Sau đó, nàng ăn điểm tâm, để lại chiếc khay ngoài hành lang, nàng đóng gói lại hành lý và quay về ô cửa sổ, nơi nàng có thể nhìn thấy Jesse, gã sẽ đến và đưa nàng đến trạm xe khách.   Jesse đã ghé thăm nàng hai lần trong năm ngày vừa qua. Nàng nghĩ nàng sẽ mất trí nếu không có những cuộc ghé thăm của gã. Gã là một người khác biệt hoàn toàn với những gì mà thoạt đầu nàng đã tin. Nàng phát hiện ra gã là một người thật cô độc. Nàng có thể hiểu bằng cách nào Ellen thu phục được nhiều tình yêu và lòng trung thành đến thế từ gã. Cho dù gã không kể với nàng, nàng biết cái chết của Ellen đã cho gã tự do để yêu Sadie. Gương mặt gã thường có nét cười, mang vẻ thiết tha khi gã nói về chị ấy và Mary.   Gã kể với Summer đôi chút về kế hoạch của gã về tương lai. Slater, gã giải thích, giờ đã là chủ nhân của Rocking S. Hắn chắc chắn rằng đó là cách toà sẽ phân xử, vì Slater là người thừa kế duy nhất còn sống trong chừng mực bất kỳ ai biết. Khi mọi thứ đã ổn định, gã và Sadie sẽ kết hôn và bắt đầu xây dựng một nơi chốn ở đâu đó.   “Slater sẽ muốn ông ở lại.” Summer nói.   “Đã đến lúc tôi bắt đầu xây dựng thứ gì đó cho riêng mình,” là lời đáp đơn giản của gã.   Summer tựa đầu vào thành cửa sổ. nàng biết mỗi inch của con đường bên dưới, mỗi mắt gỗ trên vách toà nhà đối diện. Nàng chẳng có gì khác để làm trong năm ngày trống trải ngoại trừ nhìn chằm chằm ra ngoài ô cửa sổ. Nàng không bước ra khỏi phòng, chỉ gặp người chủ khách sạn một lần và đó là khi hắn đặt chiếc khay bên ngoài cánh cửa và nàng nghĩ hắn đã đi rồi, những hắn đang đứng ngoài hành lang đợi nàng ra ngoài để có thể nhìn thoáng qua nàng. Không hiểu sao, vẻ dâm đãng của hắn khiến nàng cảm thấy tội lỗi và không trong sạch.   Bóng đổ trên toà nhà đối diện nói với nàng rằng sẽ không còn lâu nữa đến khi mặt trời ở trên đỉnh đầu. Nàng bắt đầu cảm thấy lo âu. Jesse đã nói gã sẽ đến đây và gã sẽ làm, nàng tự nhủ. Tuy vậy, thời gian như bị kéo dài trong lúc nàng quan sát. Nỗi lo âu khiến nàng xoắn chiếc khăn tay vòng vòng trên những ngón tay, và ngay lúc nàng nhìn thấy gã quành vào góc phố và hướng đến khách sạn, chiếc khăn đã ướt đẫm. Với một cảm giác hết sức nhẹ nhõm, nàng đứng lên và đội nón, ghim nó cẩn thận vào mái tóc bới cao của nàng để gió sẽ không hất nó bay khỏi đầu. Jesse chưa lên ngay và nàng đoán gã sắp xếp với người chủ khách sạn. Nàng lấy tiền mà Slater đã đưa cho nàng ra sẵn và đợi.   “Summer?” Giọng của Jesse.   Nàng mở khoá cửa, “Hello, Jesse.”   “Tiền khách sạn đã được trả rồi, hãy cất tiền của cô đi. Cô sẽ cần nó. Tôi đã có vé cho cô đến Austin, và Bill nói ông ấy sẽ coi chừng cho cô. Đi thôi, ông ấy đang đón khách rồi.” Khi Summer phản đối chuyện tiền nong, gã nói, “Ồ, để sau đi. Sadie và tôi có lẽ sẽ sang Austin. Chúng tôi có thể tìm thấy cô ở đâu?”   “Tôi quyết định sử dụng tên của mẹ tôi. Wheeler. Tôi sẽ để lại lời nhắn tại trạm bưu điện.”   Summer hếch cằm cao lên một chút và vươn thẳng lưng khi họ đi bộ vào trong ánh nắng ban trưa. Jesse nhấc rương hành lý lên vai và đặt một bàn tay bên dưới khuỷu tay nàng. Khi họ đến trạm xe khách, nàng nhận thức rõ về những đôi mắt hiếu kỳ đuổi theo sau họ, và gương mặt nàng bừng cháy. Nàng buộc bản thân chuyển ánh mắt khỏi con đường đầy bụi và nhìn thẳng về phía trước, gương mặt nàng dịu xuống, những cảm xúc như đã bị chôn nén bên trong nàng.   Bill, người đánh xe đã đưa nàng và John Austin đến Hamilton, đang đợi bên cạnh chiếc xe khách. Ông đón hành lý của Summer từ Jesse và nhấc nó lên cho người phụ lái để ràng chúng vào giá để hành lý.   Vì đã đến lúc phải ra đi, Summer muốn níu chặt lấy Jesse. Đọc được suy nghĩ của nàng, vẻ đau đớn trên gương mặt nàng, gã siết chặt cánh tay nàng và khom xuống thì thầm trấn an :   “Rồi sẽ tốt đẹp thôi mà, Summer. Nhớ nhé, nếu mọi thứ chẳng ra sao, hãy viết cho đại uý Slane tại pháo đài. Ông ấy sẽ gởi cho tôi. Nào, cô sẽ làm điều đó chứ?”   Chiến đấu kềm lại nước mắt, nàng gật đầu. “Cám ơn ông.” Nàng thì thầm qua đôi bời môi run rẩy.   Jesse xoay người và nhấc nàng vào trong khoang hành khách, gương mặt của chính gã cũng đang khoác một chiếc mặt nạ để che dấu cảm xúc. Summer ngồi xuống bên cạnh một phụ nữ Mexican ôm một em bé đang ngọ nguậy. Khoang xe đã đầy hành khách; ba người đàn ông và một phụ nữ ngồi bên cạnh người phụ nữ đang ôm đứa bé. Những người đàn ông có vẻ cáu kỉnh vì sự chậm trễ, và nhìn chằm chằm vào nàng với vẻ bực bội. Chiếc roi ngựa quất vun vút, khoang xe tròng trành và bắt đầu lăn bánh. Summer, ngồi ở phía sau cùng, chú mục vào Jesse cho đến khi không còn nhìn thấy gã nữa. Đường mòn chuyển vào một khúc quanh, một đám mây bụi tung mù phía sau họ, và để lại thị trấn phía sau lưng.   Có vẻ như với Summer, nàng chỉ có một mình trong một thế giới cô đơn. Thật ra, nàng chưa bao giờ từng thấy cô độc như nàng đã trải qua năm ngày vừa qua. Trên đường rời khỏi Piney Woods, nàng có John Austin để chăm sóc. Trong chuyến xe tương tự họ đã đi đến Hamilton tìm Sam McLean. Họ đã tìm thấy ông, thật vậy, Sammer chua xót nghĩ.   Sức nóng thiêu đốt bên trong khoang xe. Summer gỡ nón để quạt mát bản thân và luồng gió nhẹ tạo ra đã giúp làm đứa bé im lặng. Nàng cầu nguyện rằng dạ dày của nàng sẽ giữ yên được. Bình thường vào buổi trưa nó sẽ dịu xuống, nhưng hôm nay, nàng đã quá lo lắng khi chờ đợi Jesse đến mức nàng đã lên tục nuốt xuống để giữ cho miệng nàng không lấp đầy nước miếng.   Nàng quan sát những ngọn đồi đang mờ dần nhường chỗ cho màu sắc của ánh dương và bầu trời; quan sát thảo nguyên mênh mông trải dài đến vô tận. Nàng nhìn chằm chằm trở lại đường mòn cho đến khi ánh mặt trời bắt lấy giọt nước ở khoé mắt nàng. Một con đại bàng chuyển động theo đường xoắn ốc bay vút lên trời, vươn thẳng đến vầng thái dương cho đến khi nó chỉ là một chấm nhỏ trong khoảng không bao la. Ồ! để trở thành một cánh chim bằng!   Phần tồi tệ nhất trong nỗi đau của nàng bị vùi sâu phía sau tâm trí và nàng cương quyết không để nó nổi lên bề mặt. Rồi sẽ có tất cả thời gian, bên lề những ảo tưởng, để hành hạ nàng, nhắc nhở nàng.   Họ làm băn toé nước băng ngang qua một con lạch nông và lăn bánh vào trong một điểm dừng. Vì trời quá nóng, Bill nói họ sẽ mất thêm vài phút sau khi những con ngựa mới được móc vào, nếu như có ai muốn được ra ngoài xe. Mọi người đều xuống xe ngoại trừ Summer. Nàng ngồi và đợi, hầu như không nhận thức được rằng lưng váy nàng đã ướt sũng mồ hôi và một dòng suối nhỏ đã chảy giữa đôi bờ ngực. Người phụ nữ Mexican ẵm đứa bé đã mang cho nàng một môi nước. Summer uống một cách khao khát, tham lam và cám ơn người phụ nữ bằng những từ đẫm lệ.   Chiếc xe lăn bánh trở lại, Bill khua vun vút chiếc roi và hét vang với nhóm người mệt mỏi để bắt kịp những phút đã mất. Buổi chiều chậm trôi. Không ai nói chuyện. Đứa bé đã ngủ. Chiếc xe giống như một lò lửa. Summer cảm thấy đầu nhẹ bẫng, giông như nàng đang trôi nổi. Chuyến xe đày ải khiến mọi inch trên con đường để lại dấu vết cơ thể đau nhức của nàng. Nàng tựa đầu ra phía sau và nhắm mắt, trí óc nàng quá kiệt sức để có thể suy nghĩ.   Khi chiếc xe chậm lại và đến một điểm dừng, nàng không bận tâm nhấc đầu lên hoặc mở mắt ra cho đến khi giọng nói của người đàn ông ngồi đối diện bùng nổ.   “Giờ đến chuyện quái gì nữa đây? Chúng ta không bao giờ đi đến nơi với tốc độ như thế này.”   Summer nhìn ra ngoài cửa sổ, nheo nheo mắt lại, nghĩ rằng nàng nhìn thấy Jack đang ngồi trên con ngựa màu nâu đỏ to lớn và nói chuyện với người đánh xe. Nàng chớp mắt vài lần và nhìn lần nữa. Ông ấy vẫn ở đó. Với một ngày cực nóng như hôm nay, trên chuyến xe nóng hầm hập này, nàng cảm thấy một cơn rùng mình ớn lạnh đến mức phải nghiến chặt quai hàm để giữ cho đôi hàm răng nàng không khua lách cách. Làm sao điều này có thể xảy ra? Ông ấy không thể biết nàng ở trên chuyến xe này được. Nàng lùi sâu vào trong chỗ ngồi, giữ chiếc nón phía trước như thể để che gương mặt nàng khỏi ánh mặt trời. Nàng cảm thấy chiếc xe đu đưa khi Bill nhảy xuóng khỏi chỗ ngồi trên cao, nghe thấy tiếng cánh cửa khoang hành khách mở ra.   “Thưa cô,” Bill đang nói với nàng, “Jack đây nói rằng ông ấy đến để mang cô ra khỏi xe.”   “Không! Tôi đã trả tiền vé của tôi rồi. Tôi sẽ đến Austin.”   “Điều đó tuỳ thuộc vào cô, thưa cô, cho dù cô muốn đi hay ở lại.” Bill nói cương quyết, và đóng sầm cánh cửa.   Một vài phút trôi qua, và cánh cửa mở ra lần nữa. Jack đứng đó nhìn xuống Summer. Nàng muốn chết cho xong.   “Summer, hãy ra ngoài ngay, để những cư dân này còn đi tiếp. Tôi đến để mang cô về và tôi sẽ không rời đi mà không có cô.”   “Không! Tôi sẽ không ra đâu. Ông không có quyền can thiệp vào.”   “Quỷ thật, không, ông không có quyền. Cô gái không phải đi nếu cô ấy không muốn.” Lời nói vang đến từ một người đàn ông bên trong chuyến xe.   Jack phớt lờ ông ta. “Tôi sẽ bớt được cả đống rắc rối nếu cô chịu bước ra. Hãy làm điều đó, hoặc là những cư dân đây sẽ phải đợi cùng với cô.”   “Hãy để tôi một mình, Jack. Tôi sẽ không trở lại đâu, vì thế hãy đi đi và để tôi một mình.” Cơn giận và sự bẽ mặt khiến nước mắt tuôn chảy như suối từ mắt nàng.   Jack bước lui và ra hiệu cho Bill rời khỏi xe. Khi họ quay lại đối mặt với nhau, khẩu súng lục của Jack chỉa thẳng vào bụng ông ấy.   “Cái gì… cái gì thế này?”   “Tôi chắc chắn rất ghét làm điều này, Bill, nhưng chẳng còn cách nào khác hết. Có một người đàn ông đang đến chỉ còn cách đây vài dặm. Cậu ấy ở trên một chiếc xe thồ, bị xóc nảy ngang qua những vệt lún bánh xe và những lỗ chó thảo nguyên từ hai giờ trước khi trời rạng đông. Cậu ấy có hai lỗ đạn trên người, vài rẻ xương sườn bị gãy và đôi bàn tay chẳng thể tự ăn được trong một tuần. Cậu ấy đang đến để gặp cô gái đó và ông sẽ không đi đâu hết cho đến khi cậu ấy đến đây.”   “Ông biết là ông đang đưa bản thân vào rắc rối khi chỉa một khẩu súng vào tôi, Jack. Công việc của tôi là đưa chuyến xe này đến Austin. Nếu cô gái bé nhỏ đó và người đàn ông của cô ấy hục hặc thì đó chuyện của họ. Pháp luật có thể giáng xuống khó khăn thật sự trên ông đấy, Jack, vì tội đã chặn chuyến xe.”   “Vậy thì cứ làm đi, bởi vì tôi sẽ chặn xe ông ở đây cho đến khi Slater đến. Không lâu lắm đâu. Tôi đã thấy đám bụi mù của họ kia rồi.”   “Các ông đang làm gì vậy? Băng ngang vùng quê ư? Đó là một chuyến đi địa ngục.”   Jack cười toe toét. “Hãy nói người phụ xe kéo chiếc xe đến chỗ bóng râm trong lúc chúng ta đợi.” Với khẩu súng của mình, ông ra hiệu về hướng cây hồ đào trải rộng mà một trong số chúng vươn dài theo con đường không chút bóng mát.   “Kéo xe qua bên dưới bóng cây đi, Gus. Chúng ta sẽ đợi một lúc nếu quý cô này không đổi ý, thế thôi. Các hành khách có thể bước ra ngoài và duỗi chân tay.”   Người phụ xe nghiêng người qua để gọi Summer, rồi hét lại với Bill. “Người phụ nữ nói không, Bill.” Chiếc xe di chuyển đến bóng râm.   “Phụ nữ chết tiệt! Rất mừng là tôi đã không cưới ai.” Bill nguyền rủa, lấy chiếc mũ đầy bụi của ông ta xuống và đập đập nó vào đùi.   “Điều đó sẽ không kéo dài đâu, Bill. Ông và Slater sẽ phải dịu xuống thôi. Hẳn là có gì đó sai với cái miệng của cậu ấy rồi. Chưa bao giờ nghe nhiều lời nguyền rủa như thế tuôn ra từ nó trước đây. Cơn choáng của cậu ấy đã bị nén lại kể từ khi cậu ấy nghe được chính Jesse đã đặt cô ấy lên chuyến xe khách. Chuyến đi xóc này chẳng làm cho tâm trạng của cậu ấy tốt lên được chút nào, ngay cả khi chúng tôi đã cố định sợi dây treo trên chiếc xe thồ và đặt chiếc giường lông vũ vào đó.”   Ba người đàn ông và người phụ nữ ra khỏi xe, để lại Summer một mình với người phụ nữ có đứa bé. Những cánh cửa để mở và luồng gió nhẹ có phần làm mát họ đôi chút. Summer lau gương mặt nàng bằng chiếc khăn tay ướt sũng. Người phụ nữ giơ một bàn tay rụt rè chạm vào đầu gối nàng. Hành động thương cảm ấy khiến nàng ngước đầu lên. Jack không có quyền bắt họ phải đợi như thế này, khi cho rằng nàng sẽ đổi ý. Nàng đã bảo ông như thế. Nàng nhìn quanh để có thể thấy ông và nghĩ rằng hẳn là nàng đã mất trí. Có phải Jack đang chỉa súng vào người đánh xe không? Chúa lòng lành, ông ấy đã làm thế! Điều gì đang xảy ra? Thế giới điên hết rồi sao?   “Jack! Jack, ông đang làm cái gì thế?” Nàng trèo ra khỏi xe, gần như vấp ngã vì vội vàng. “Hãy để ông ấy đi. Ông không có quyền giữ ông ấy! Để tôi nói…”   Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Trở Về của tác giả Dorothy Garlock.