Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Em

Bạn sẽ làm gì khi một cô nhà văn xinh đẹp, gợi cảm bước vào hiệu sách nơi bạn làm việc? Joe Goldberg đã làm cái điều mà bất cứ ai trong tình cảnh đấy cũng sẽ làm: Google tên của cô.  Chỉ có một Guinevere Beck duy nhất ở thành phố New York này, người sở hữu một tài khoản Facebook và viết Tweet gần như mỗi ngày. Joe biết được mọi thứ mà anh cần biết về cô: bạn cô ấy chỉ gọi cô ấy là Beck, cô ấy học Đại học Brown, sống trên phố Bank và sẽ đi đến một quán bar ở Brooklyn tối nay để kiếm tìm một cuộc hẹn “ngẫu nhiên” hoàn hảo.  Từ kẻ đeo bám trở thành bạn trai, Joe biến mình thành người đàn ông hoàn hảo của Beck, đồng thời lặng lẽ dùng mọi cách – kể cả giết người - loại bỏ những chướng ngại vật, sắp xếp những sự kiện để Beck luôn “an toàn” trong vòng tay anh.  Cuốn tiểu thuyết là một cú tát giáng thẳng vào thực tế thời đại kỹ thuật số siêu kết nối; là lời cảnh tỉnh rằng bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể dễ dàng bị theo dõi và thao túng bởi một kẻ vô hình. *** EM (YOU) là cuốn tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim và có thể xem trên Netflix. Nhưng ngay cả với những ai đã xem qua bộ phim này, cuốn tiểu thuyết này vẫn rất đáng đọc, vì nó một lần nữa tái hiện bầu không khí mê hoặc mà điên rồ, thậm chí còn sắc nét hơn của câu chuyện. Ngay cả khi đã biết được các tình tiết sẽ diễn ra, cuốn sách vẫn mới mẻ và hấp dẫn để đọc đến trang cuối cùng. EM bắt đầu câu chuyện của mình tại một hiệu sách, nơi Joe - nhân vật chính - làm việc, gã là một kẻ bán sách. Và rồi Beck - một cô gái tóc vàng bước vào, xinh đẹp như một quả đào chín mọng, nàng là một nhà văn trẻ. Joe đã yêu Beck ngay từ cái nhìn đầu tiên, và anh đã lên kế hoạch cưa cẩm cô như bất kỳ chàng trai nào phải lòng một cô gái. Như xem cô ấy đăng gì trên Twitter, tìm hiểu xem cô ấy nhà ở đâu, tò mò bạn trai cũ của cô ấy là ai, kết thân với các cô bạn gái thân của cô ấy… EM sẽ dễ dàng đánh lừa các độc giả ngây thơ ở những chương đầu tiên khi nghĩ rằng đây là khởi đầu của một chuyện tình lãng mạn. Một anh chàng bán sách tinh tế thật đẹp đôi với một cô nàng nhà văn trẻ ngọt ngào. Mà thực ra đúng là đã có một chuyện tình nở hoa trong cuốn sách, nồng nàn men say như rượu ủ lâu năm. Tác giả Caroline Kepnes đã dùng những lời lẽ đầy mật ngọt để kể câu chuyện của mình. Như một viên kẹo của mụ phù thuỷ, quá sặc sỡ, quá thơm tho, không thể cưỡng lại. Nhưng khi lớp bọc đường bên ngoài đã trôi đi hết, sẽ dần lộ ra lõi nhân bên trong là kịch độc. Hoá ra loài hoa ái tình ấy là hoa ăn thịt, rượu quý ấy cũng đã hoà lẫn với độc dược tự bao giờ. Joe có lẽ là mẫu bạn trai ao ước của nhiều cô gái khi tinh tế, dịu dàng, sẵn sàng làm bánh kếp bằng cái muôi đỏ vì bạn gái mình thích thế. Joe kéo Beck ra khỏi những mối quan hệ xấu như gã bạn trai tồi, cô bạn thân muốn kiểm soát. Joe thúc đẩy Beck làm việc mà cô cần phải làm - thực sự viết cho xong một cuốn sách thay vì viết Twitter mỗi giờ và email mỗi ngày cho những chuyện chẳng ra đâu vào đâu. Joe muốn bảo bọc Beck và làm cho cuộc sống của cô tốt hơn. Nhưng ấy là khi Joe không trộm điện thoại để đọc các email của Beck. Lẻn vào nhà cô để thó một món đồ riêng tư làm kỷ niệm. Tốt nhất là Joe đừng có một cái lồng - theo đúng nghĩa đen - dưới tiệm sách của mình, nơi gã bảo vệ những cuốn sách quý và cả người cần hắn bảo bọc. Bởi ranh giới giữa bảo bọc và giam cầm đôi khi rất mong manh. Nhẹ nhàng ở các chương đầu, nhưng nhịp điệu càng về sau càng nhanh dần, khiến người đọc khó lòng bỏ cuốn sách xuống trước khi biết được kết thúc cuối cùng. Như thể họ đang là Beck, cũng đang gấp rút bỏ chạy khỏi một bóng ma rình rập, hay vẫy vùng thoát khỏi một cái lồng. Họ nóng lòng muốn được biết kết thúc của chính mình trong cuộc đào thoát ấy, hay chính xác hơn là kết thúc của Beck. Và nếu trốn thoát, có lẽ họ thầm dặn lòng sẽ không bao giờ bước chân vào một cái hiệu sách nào nữa, hoặc chớ có yêu một gã bán sách. *** Em bước vào hiệu sách, một tay giữ trên cánh cửa để chắc chắn cửa không bị đóng sầm lại. Em mỉm cười, có phần ngượng nghịu vì xinh đẹp quá, móng tay em trơn nhẵn và em đang mặc một chiếc áo len cổ chữ V màu be, rất khó đoán em có đang mặc áo ngực hay không nhưng tôi nghĩ rằng em hoàn toàn không mặc gì ở bên trong cả. Em trông “ngoan” tới mức cực kỳ khêu gợi, đôi môi em khẽ lẩm bẩm với tôi “chào anh” trong khi phần lớn mọi người chỉ lướt qua, nhưng có phải thật em không, trong chiếc quần bò màu hồng trễ cạp, kiểu vải sợi gai màu hồng như trong truyện Mạng nhện của Charlotte, và em ơi em từ đâu đến? Em đơn giản và hoàn hảo, như cô nàng Natalie Portman bé bỏng của tôi trong đoạn cuối của bộ phim Closer, khi cô - với vẻ mặt ngây thơ - đi cùng thằng cha xấu tính người Anh về nhà ở Mỹ. Em “đến nhà” của tôi, cuối cùng thì em cũng đến, vào một buổi sáng thứ Ba, lúc 10:06. Mỗi ngày tôi đi từ nhà ở Bed-Stuy đến hiệu sách tại phía Đông1 thành phố này. Mỗi ngày tôi kết thúc ca làm, gói ghém đồ đi về mà chưa bao giờ thấy một ai như em. Nhìn em xem: hôm nay em bước vào thế giới của tôi. Tôi chợt thấy rùng mình và muốn uống một viên thuốc rối loạn lo âu, nhưng thuốc lại đang ở dưới tầng mà thực ra tôi cũng không muốn uống viên thuốc ấy. Tôi không muốn đi xuống. Tôi muốn ở đây để tập trung ngắm em cắn những móng tay trần, không sơn màu của mình và quay đầu sang trái; à không, em đang cắn cái mảng màu hồng kia, mở to đôi mắt, quay sang bên phải; à lại không nữa, em không thích đọc sách tiểu sử, không đọc cả sách self-help (may quá, tạ ơn Chúa), và đi chậm lại đôi chút khi tới kệ chứa tiểu thuyết.   Tuyệt. Tôi để cho em biến mất sau những kệ sách – Tiểu thuyết xếp theo vần từ F tới K. Em không phải kiểu các “nữ thần” bất an về bản thân mà phải đi tìm kiếm Faulkner vì em sẽ không bao giờ đọc hết cũng như không bao giờ nên bắt đầu đọc sách của ông; sách của Faulkner khó nhằn và có khả năng sẽ làm đông cứng đêm hứng tình của em, nếu sách cũng có thể đông cứng được. Faulkner chỉ có duy nhất một giá trị là để thuyết phục em hãy nhập vai vào cuộc tình một đêm khi em thề rằng em không bao giờ chơi kiểu qua đường ấy. Nhưng em sẽ không phải kiểu con gái như thế đâu. Em không thuộc tầng lớp sẽ đọc Faulkner và với chiếc quần bò trễ cạp kia của em thì em thừa tiệc tùng ham vui cho những cuốn sách của Stephen King nhưng lại quá thiếu thời thượng để đọc những cuốn của Heidi Julavits… cuối cùng em sẽ mua sách của tác giả nào đây? Em hắt xì hơi một cái, ầm lên, và tôi tưởng tượng ra ngay sự ồn ã của em khi em ở trên giường. “Chúa phù hộ!”2 tôi nói toáng lên.   Em khúc khích cười và quay lưng lại, cô nàng dâm đãng này. “Anh cũng thế nhé, anh bạn.” Anh bạn. Em đang thả thính tôi, và nếu tôi là cái loại mất dạy hay lên Instagram, tôi sẽ chụp lại những tấm thẻ từ F đến K, chỉnh màu thật đẹp rồi viết lên đó: “F--K3, tuyệt quá, tôi đã tìm thấy em.”   Bình tĩnh nào Joe. Bọn con gái không thích kiểu con trai táo bạo như thế đâu. Tôi phải tự nhắc bản thân mình như thế. Cảm ơn Chúa đã đưa một khách hàng khác đến và thật khó để đọc vị thằng cha này với cuốn sách chẳng có gì bất ngờ của Salinger trên tay gã – thật thế, việc này vẫn luôn luôn chẳng dễ dàng gì. Thằng cha này, gì đây nhỉ, phải đến ba mươi sáu tuổi rồi, mà chỉ đọc đến Franny và Zooey thôi sao? À không, hãy nhìn vào thực tế chút đi. Hắn ta sẽ không đọc nó. Đấy chỉ là cuốn đặt lên trên để che đi cuốn sách của Dan Brown đang nằm dưới đáy giỏ mà thôi. Thời gian làm việc ở hiệu sách đã giúp tôi hiểu rằng phần lớn mọi người trên thế giới này cảm thấy tội lỗi khi thể hiện con người thật của bản thân. Tôi lấy cuốn sách của Dan Brown cho vào túi trước, như thể nó là ấn phẩm ấu dâm và bảo thằng cha kia rằng Franny và Zooey chỉ là đồ bỏ. Hắn ta chỉ gật đầu, còn em vẫn ở trong khu vực F-K bởi vì tôi vẫn thấy chiếc áo len màu be của em thấp thoáng sau những kệ sách. Nếu em kiễng chân lên một chút, tôi sẽ có thể nhìn thấy chút bụng của em hở ra. Nhưng em lại không làm thế. Em lấy một cuốn sách và ngồi xuống ghế, xem ra em định sẽ ngồi ở đấy cả tối. Có thể như thế sẽ giống Natalie Portman trong phim Where the Heart Is, bộ phim chuyển thể không thành công từ cuốn sách của Billie Letts – thuộc chiếu trên so với thể loại phim đó – và tôi sẽ tìm thấy em ở tâm điểm của bóng đêm. Chỉ có điều, em sẽ không có bầu còn tôi thì không phải là thằng khốn kiếp trong bộ phim ấy. Tôi sẽ đến, ngả vào em và nói, “Xin lỗi làm phiền quý cô, nhưng chúng ta đang gần sát sạt vào nhau đấy,” và em sẽ ngẩng lên, mỉm cười, “Đâu có, em đâu có sát sạt gần.” Em hít một hơi và thì thào. “Em đang rất đón chờ anh mà. Anh bạn.” “Này!” Salinger-Brown càu nhàu. Hắn vẫn còn ở đây sao? Hắn vẫn còn ở đây. “Tôi lấy hóa đơn được chưa?” “À phải, xin lỗi nhé.” Hắn giật lấy hóa đơn từ tay tôi. Không phải hắn ta ghét tôi đâu. Hắn ta ghét chính bản thân hắn đó. Nếu mọi người đều có thể tự chăm sóc cảm xúc cá nhân thì phòng dịch vụ chăm sóc khách hàng sẽ vận hành dễ dàng hơn nhiều. “Mày biết không, thằng nhóc? Mày cần phải vượt qua bản thân mày. Mày chỉ làm việc ở một hiệu sách thôi. Mày không xuất bản những cuốn tiểu thuyết này. Mày không hề viết sách và nếu mày có tí ti gì gọi là khá khẩm trong việc đọc sách thì có thể mày đã chẳng làm việc ở một hiệu sách như thế này. Vì thế, hãy bỏ ngay cái thái độ đánh giá người khác ở trong mắt mày và chúc tao một ngày tốt lành đi!” Thằng cha kia có thể nghĩ ra bất cứ cái gì trên đời để nói với tôi nhưng hắn vẫn chỉ là một thằng khốn nạn không dám thừa nhận mình mua sách của Dan Brown. Em xuất hiện với nụ cười từa tựa Portman, rõ là em đã nghe thấy tiếng thằng chó chết kia vừa nói. Tôi nhìn em. Em nhìn thằng kia và hắn thì vẫn đang đợi tôi. “Chúc ông một ngày tốt lành, thưa ông.” Tôi nói và hắn biết thừa rằng tôi cũng chẳng có lòng thành gì, thái độ dành cho một người lạ thì chỉ đến thế thôi. Khi hắn đi rồi, tôi gào toáng lên với hắn nhưng thực ra là để em nghe cho rõ: “Đọc Dan Brown vui nhé ông ơi!” Em đi tới, cười ngặt nghẽo, và cảm ơn Chúa, lúc này đang là buổi sáng, chúng ta đang chết cứng trong một buổi sáng mà không có ai quanh đây làm phiền chúng ta cả. Em đặt cái giỏ đựng sách lên quầy thanh toán và hỏi khẽ: “Thế anh sẽ phán xét cả em nữa phải không?” “Anh là thằng khốn nạn phải không?” “Ừm… không sao, em đoán đó chỉ là do tâm trạng nhất thời của anh thôi.” Em thật ngọt ngào. Em biết cách nhìn thấy phần tốt đẹp nhất bên trong mỗi người. Em đang khen tôi. “Thật ra…” Tôi nói, tôi nghĩ tôi nên im lặng và tôi cũng muốn im lặng, nhưng em lại ra hiệu cho tôi, muốn tôi nói tiếp. “Thằng cha đó chính là lý do mà những con quái thú không nên biến mất.” Em chăm chú nhìn tôi. Em có vẻ tò mò khiến tôi muốn biết nhiều hơn về em, nhưng vì tôi không thể hỏi nên tôi tiếp tục nói. “Ai cũng luôn luôn muốn đấu tranh cho những điều tốt đẹp hơn, gầy đi năm cân, đọc thêm năm cuốn sách, đi đến bảo tàng, mua một đĩa nhạc cổ điển để nghe và thích thú tận hưởng nó. Nhưng thực ra những gì người ta mong muốn ở sâu thẳm bên trong là ăn bánh donut, đọc tạp chí và mua những đĩa nhạc pop. Còn sách á? Quên nó đi. Hãy mua Kindle. Em có biết tại sao Kindle lại thành công như thế không?” Em phá lên cười và lắc đầu, em đang lắng nghe tôi ở chính cái đoạn mà phần lớn mọi người khác sẽ tỏ ra chán nản và tiếp tục cúi đầu vào điện thoại. Nhìn em thật xinh đẹp khi em hỏi, “Là tại vì sao cơ?” “Anh sẽ cho em biết tại sao. Internet đã mang phim khiêu dâm đến tận nhà…” Tôi mới dùng từ phim khiêu dâm, thật là một từ ngu xuẩn, nhưng em vẫn yên lặng lắng nghe, em đúng là một cô nàng búp bê đáng yêu đấy. “Thế là em không cần ra ngoài và nỗ lực để có được nó nữa. Em sẽ không cần phải nhìn thẳng vào mắt của cậu con trai ở quầy hàng, người mà bây giờ đã biết em thích xem các cô gái bị tét mông khi ở trên giường. Nhìn thẳng vào mắt nhau là thứ khiến chúng ta trở thành con người trong xã hội văn minh.” Đôi mắt như hai hạt hạnh nhân của em nhìn tôi và tôi nói tiếp, “Em đã bị lộ tẩy rồi.” Em không đeo nhẫn cưới trên tay, còn tôi tiếp tục nói, “Con người mà.” Trông em rất kiên nhẫn, còn tôi thì lẽ ra phải im đi nhưng tôi lại không thể làm thế được. “Và Kindle ý mà, Kindle mang đến tất cả những thứ mà em cần phải nỗ lực mới có được khi em đọc, tức là làm chính xác như những gì mà Internet đã làm với phim khiêu dâm. Không cần phải gò bó hay cân đối cái gì nữa. Em có thể đọc tiểu thuyết Dan Brown cả ở nơi công cộng lẫn những chốn riêng tư. Và thế là văn minh nhân loại kết thúc. Nhưng…” “Lúc nào cũng có một chữ NHƯNG nhỉ,” em nói và tôi đoán em đến từ một gia đình giàu sang phú quý, nơi mà những con người thân thiện thường trao cho nhau những cái ôm yêu thương và nắm tay hát quanh đống lửa trại. “Nhưng khi không còn chỗ nào để mua các bộ phim hoặc mua album, tất cả sẽ quay trở lại với sách. Khi những tiệm bán băng đĩa biến mất, những thằng mọt sách đứng trông tiệm băng đĩa, đọc lại những câu thoại của Tarantino, chiến đấu vì Dario Argento và ghét những người thuê phim Meg Ryan về xem cũng sẽ không còn nữa. Loạt hành động đó, tức là sự tương tác giữa người bán và người mua, là một sự tương tác hai chiều rất quan trọng mà loài người chúng ta có được. Tất nhiên em không thể giao tiếp hai chiều như thế mà lại không bao giờ hiểu nhầm, em hiểu ý anh chứ?” Tôi cũng không biết liệu em có hiểu được ý tôi không nhưng em đã không bảo tôi ngừng lại giống như tất cả mọi người vẫn làm, em chỉ gật đầu. “Hừm.” “Đấy thấy không, tiệm băng đĩa thực sự là một nơi rất công bằng. Nó mang đến sức mạnh cho mấy thằng mọt sách – Người ta thực sự mua Taylor Swift sao? – mặc dù sự thật là mấy thằng đó sẽ “xóc lọ” với hình Taylor Swift khi về nhà.” Đừng nói đến Taylor Swift nữa. Chẳng biết em đang cười với tôi hay đang cười vào mặt tôi nữa? “Dù sao thì...” Tôi nói, và tôi định sẽ im lặng nếu em bảo tôi làm thế. “Dù sao thì?” Em hỏi, và em muốn tôi nói tiếp. “Vấn đề là thế này, mua một vật dụng gì đó là một trong những điều cực kỳ cơ bản mà chúng ta làm. Thằng cha lúc nãy không đến đây để mua Dan Brown hay Salinger. Thằng cha đó tới đây để thú tội.” “Thế anh là linh mục à?” “Không. Anh là nhà thờ.” “Amen.” Em nhìn xuống giỏ sách của em và tôi như một kẻ cô độc loạn trí khi cũng nhìn vào chiếc giỏ. Điện thoại của em. Em không nhìn thấy, nhưng tôi nhìn thấy. Tôi như vỡ lẽ ra. Chiếc điện thoại có ốp bảo vệ màu vàng. Điều này chứng tỏ em chỉ tự chăm sóc bản thân khi mọi thứ bắt đầu đi quá giới hạn. Tôi cược là em chỉ uống thuốc khi cơn cảm lạnh kéo dài tới ngày thứ ba. Tôi cầm điện thoại của em lên và giả vờ đùa. “Em lấy trộm cái này của gã kia phải không?” Em lấy lại điện thoại của mình và cẩn trọng nói. “Em và chiếc điện thoại này…” Em nói. “Em là một người mẹ tồi.” Mẹ. Em thật sự là gái hư, đúng thế đấy. “Ừ.” Em mỉm cười và bây giờ tôi có thể chắc chắn em không mặc áo lót bên trong. Em lấy những cuốn sách ra khỏi giỏ, đặt giỏ lên sàn nhà và nhìn tôi như thể tôi không có khả năng đánh giá bất cứ điều gì mà em làm từ khoảng cách xa như thế. Núm vú của em nổi lên trên áo. Em đã không che chắn chúng lại cẩn thận. Em thấy đám kẹo dẻo xoắn mà tôi để ở quầy thanh toán. Em chỉ tay vào đó như thể em đang đói lắm. “Em lấy một cái được không?” “Được.” Tôi nói, và tôi có cảm giác như mình đã bón cho em ăn vậy. Tôi cầm cuốn sách đầu tiên của em lên, Kỳ nghỉ không thể tin được4 của tác giả Spalding Gray5. “Thú vị đấy!” Tôi nói. “Phần lớn mọi người đều hiểu được những đoạn độc thoại của ông ấy. Đây là một cuốn sách tuyệt hay, nhưng không phải là kiểu sách mà mọi người đi loanh quanh xem xét và mua, đặc biệt là một phụ nữ trẻ không có ý định tự sát giống như số phận của tác giả.” “Ồ, đôi khi chúng ta sẽ có cảm giác muốn vùi mình ở một nơi nào đó tăm tối, anh hiểu cảm giác đó chứ?” “Ừ.” Tôi nói. “Anh hiểu chứ.” Nếu chúng tôi còn ở thời thiếu niên, hẳn là tôi sẽ hôn em mất. Nhưng hiện tại, tôi đang trong bộ dạng của một nhân viên bán hàng, đeo một cái bảng tên trên ngực và chúng ta đã đi quá thời điểm vàng của thanh xuân rồi. Những bước đi trong đêm không phù hợp với lúc ban ngày, khi ánh nắng vẫn đang chảy trên cửa sổ. Chứ chẳng nhẽ tiệm sách lại phải tăm tối mới đúng ư? Tự chú thích với bản thân: Cần bảo ông Mooney làm chỗ này tối om lại. Bằng rèm cửa. Hoặc bất cứ cái gì. Tôi cầm cuốn sách thứ hai của em lên, Những Nhân Vật Tuyệt Vọng6, tác phẩm của một trong những tác giả yêu thích nhất của tôi, Paula Fox. Đây là một dấu hiệu tốt, nhưng cũng có thể em mua nó bởi em đọc được trên một trang blog ngu xuẩn nào đấy rằng tác giả là bà ngoại của Courtney Love. Tôi không dám chắc chắn rằng em mua Paula Fox bởi vì em thật sự phù hợp với tác giả này, hay là bị ảnh hưởng từ khẳng định trong bài luận của Jonathan Franzen.   Em sờ tay vào ví tiền. “Bà ấy là một tác giả tuyệt vời đúng không? Nếu bảo bà ấy không xứng đáng thì giết em đi còn hơn, bất kể bài luận của Franzen có viết gì về bà ấy đi nữa, anh công nhận không?” Cảm ơn Chúa. Tôi mỉm cười. “Bờ biển phía Tây7.”   Em quay mặt nhìn đi hướng khác. “Em chưa có dịp đến đó.” Tôi nhìn em và em giơ hai tay lên trời như đầu hàng. “Đừng bắn em nhé.” Em khúc khích cười và tôi mong rằng em cũng đang ham muốn. “Khi nào có dịp em sẽ đọc Bờ biển phía Tây, còn Những Nhân Vật Tuyệt Vọng thì em đã đọc cả tỉ lần rồi. Cuốn này em mua cho một người bạn.” “Ừ.” Tôi đáp, và những chiếc đèn đỏ nhấp nháy tín hiệu nguy hiểm trong lòng tôi. Cho một người bạn. “Có thể việc này sẽ chỉ lãng phí thời gian thôi. Anh ấy sẽ chẳng đọc đâu. Nhưng ít ra thì tác giả cũng đã bán được thêm một cuốn sách rồi, phải không ạ?” “Phải.” Có thể anh ta là anh trai, hoặc bố hay gã hàng xóm đồng tính của em, nhưng tôi biết anh ta là bạn của em. Tôi quệt ngón tay vào máy tính. “Tổng cộng là ba mươi mốt đô-la lẻ năm mươi mốt.” “Ôi trời ơi, nhiều thế cơ. Đó, đấy chính là lý do Kindle thống trị thế giới đấy.” Em nói trong khi mở chiếc ví màu hồng da lợn hiệu Zuckerman ra và đưa tôi chiếc thẻ thanh toán, mặc dù em có đủ tiền mặt trong ví để trả cho chỗ này. Em muốn tôi biết tên của em và tôi thì không ngốc đến nỗi không đoán được ý đó, nên tôi quẹt thẻ của em và để cho sự yên lặng giữa hai chúng tôi tự dưng trở nên ầm ĩ - đó là lý do hôm nay tôi đã không bật nhạc và tôi cũng không thể nghĩ ra bất cứ thứ gì để nói. “Xong rồi đây.” Tôi đưa cho em tờ hóa đơn. “Cảm ơn anh.” Em khẽ lẩm nhẩm trong miệng. “Hiệu sách này thật tuyệt.” Em ký vào hóa đơn với cái tên Guinevere Beck. Tên em như một bài thơ và bố mẹ em có lẽ là những kẻ ngớ ngẩn, giống phần lớn những cặp bố mẹ khác trên đời này. Guinevere? Làm ơn đi. “Cảm ơn, Guinevere.” “Anh gọi em là Beck được rồi. Guinevere nghe hơi dài và tức cười lắm, anh có thấy thế không?” “Beck à, em không giống cái tên của em chút nào. Mà này, album Midnite Vultures8 tuyệt thật đấy.”   Em cầm lấy túi đựng sách của mình lên, mắt vẫn không rời khỏi tôi bởi vì em muốn tôi biết em đang nhìn tôi đắm đuối. “Chắc chắn rồi, Goldberg.” “Đừng, gọi anh là Joe được rồi. Goldberg nghe hơi dài và tức cười lắm, em có thấy thế không?” Chúng tôi phá lên cười và dường như em cũng muốn biết tên tôi y như cách tôi muốn biết tên em vậy, hoặc là em chẳng buồn để ý đến cái thẻ tên gắn trên áo tôi. “Em có chắc là em không muốn lấy cuốn Bờ biển phía Tây luôn bây giờ không?” “Nghe có vẻ điên rồ nhưng quả thực là em đang tiết kiệm. Em sẽ để nó vào danh sách đọc lúc dưỡng già.” “Ý em là danh sách những việc nhất định phải làm?” “Không không, không phải. Hai cái này là hoàn toàn khác nhau. Danh sách đọc lúc dưỡng già là một danh sách những thứ anh dự định đọc và xem khi anh vào ở trong viện dưỡng lão ấy. Danh sách việc nhất định phải làm giống như là… như là đến thăm Nigeria hay nhảy khỏi máy bay vậy. Còn danh sách đọc lúc dưỡng già giống kiểu đọc cuốn Bờ biển phía Tây, xem Pulp Fiction và nghe album mới nhất của Daft Punk cơ.” “Anh không thể tưởng tượng ra được lúc em ở trong viện dưỡng lão.” Em đỏ mặt. Em như Charlotte trong truyện Mạng nhện của Charlotte vậy, còn tôi thì thật sự muốn được yêu em. “Anh không định chúc em một ngày tốt lành sao?” “Chúc em ngày tốt lành, Beck.” Em mỉm cười. “Cảm ơn anh, Joe.” Em đã không đến đây vì những cuốn sách, Beck ạ. Em không cần thiết phải gọi tên tôi. Em cũng không cần phải mỉm cười, hay lắng nghe hay đối xử tử tế gì với tôi cả. Nhưng em đã làm như thế. Chữ ký của em còn ở trên tờ hóa đơn đây. Đây không phải một giao dịch chuyển khoản và cũng không phải là một mã số ghi nợ. Cái này hoàn toàn thật. Tôi ấn ngón tay cái vào đoạn mực còn tươi trên tờ hóa đơn và dấu mực từ chữ ký Guinevere Beck của em in hằn trên ngón tay tôi rồi. Mời các bạn đón đọc Em của tác giả Caroline Kepnes & Hoài Anh (dịch) & Trà Fiew (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chuông Gọi Hồn Ai - Ernest Hemingway
Ernest Hemingway (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo người Mỹ. Ông từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, sau đó ông được biết đến qua "Thế hệ đã mất", nhận được giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và giải Nobel văn học năm 1954. Hemingway để lại ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc qua nguyên lý tảng băng trôi, văn phong của ông được mô tả bởi sự kiệm lời nhưng có nhiều tầng ý nghĩa, phải suy nghĩ thật sâu mới có thể hiểu hết được những gì tác giả gửi gắm. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay được coi là những tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ. Từ nhỏ Hemingway đã không thích học đàn mà thích đấu võ quyền Anh, bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn. Ngay từ khi còn học ở trường trung học, ông đã bắt đầu viết văn và tham gia vào các hoạt động báo chí của trường. Năm 1917, ông rời trường trung học và thay vì đi học đại học ông tời thành phố Kansas làm phóng viên cho tờ báo Star. Nhưng nghề phóng viên không hấp dẫn ông được lâu, do ưa thích mạo hiểm Hemingway đã tình nguyện đăng ký vào Hội đồng thập tự Hoa Kỳ và qua miền bắc nước Ý là tài xế xe cứu thương. Năm 1918, khi chưa tròn 19 tuổi ông bị thương nặng ở chân trong khi đag cõng một người lính Ý mang tới địa điểm chỉ huy. Ông được chữa trị tại bệnh viện Milan và được tưởng thưởng huy chương anh dũng. Những trải nghiệm trong cuộc chiến này đã cung cấp cho ông những hiểu biết để viết nên tác phẩm "Giã từ vũ khí" (1929), một tiểu thuyết nổi danh nhất đề cập tới chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông trở lại Hoa Kỳ sinh sống và tiếp tục viết văn. Nhưng ông cùng một số nhà văn khác tự nhận mình là "thế hệ lạc lõng" - từ để ám chỉ một thế hệ sau chiến tranh, đặc biệt là các nhà văn trẻ khi cuộc sống và niềm tin của họ đã bị tổn thương vì chiến cuộc, vì các tham lam vật chất đang dần dần trở nên một thực tại khiến cho cuộc sống hóa vô nghĩa. Trong thời gian làm phóng viên tại Paris, Ernest Hemingway đã đi khắp châu Âu, phỏng vấn các nhân vật danh tiếng như Lloyd George, Clemenceau và Mussolini… rồi vào năm 1925, cuốn tiểu thuyết quan trọng đầu tiên của Hemingway được xuất bản tại New York với tên là "Trong thời đại của chúng ta" (In Our Time). Cũng vào thời gian này, nhiều thú vui như trượt tuyết, coi đấu bò rừng, đi câu cá và đi săn… đã là từng phần của cuộc sống của ông và từ đó tạo nên nền móng của các cuốn tiểu thuyết sau này. Năm 1950, Hemingway xuất bản cuốn sách "Qua sông và vào trong rừng" nhưng không gây dấu ấn với độc giả. Năm 1952, cuốn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, giúp ông nhận được giải thưởng báo chí danh giá Pulitzer năm 1953. Năm 1954 ông được viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel văn học vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và Biển Cả". Thời gian này người ta vẫn thấy ông đầy sức sống nhưng thực tế ông không hạnh phúc. Hemingway đã phải dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, ông bị ám ảnh vì cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Tháng 7 năm 1961, ông thức dậy sớm và tự sát bằng một khẩu súng săn tại một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho. Ông ra đi mà không để lại lời trăn trối nào ngoài hình ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà ông đã sáng tạo ra. • Các Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Việt Nam Ông già và biển cả (2000) Chuông nguyện hồn ai (Chuông gọi hồn ai) (2001) Giã từ vũ khí (2001) Hạnh phúc ngắn ngủi của Mác Cômbơ (2003) Truyện ngắn - Ernest Hemingway (2004) Truyện cực ngắn của Ernest Hemingway (2004) Hội hè miên man (2004)  *** “Chuông gọi hồn ai" là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Tây Ban Nha chống lại bọn phát xít Franco bảo vệ chế độ cộng hòa, một cuộc chiến kéo dài từ năm 1936 tới năm 1939. Nhân vật chính là Robert Jordan, một chiến sĩ người Mỹ chiến đấu trong Lữ đoàn quốc tế, tham gia cuộc chiến tranh vĩ đại chống lại sự bành trướng toàn cầu của chủ nghĩa phát xít. Trong kế hoạch tấn công nhằm giải phóng một vùng lãnh thổ Tây Ban Nha của Sư đoàn số 14 do tướng Golz người Nga chỉ huy, Robert Jordan được lệnh phối hợp với một nhóm du kích đặt mìn phá hủy một cây cầu để chặn viện binh và đường rút chạy của quân địch. Anh lên đường đến Villaconejos để tổ chức kế hoạch tấn công cây cầu. Tại đây, khi gặp cô du kích Tây Ban Nha xinh đẹp tên là María, mối tình sâu nặng và đồng điệu trong một lý tưởng chung giữa anh và cô nảy nở. Tình yêu đó đã giúp cho hai người nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa của cuộc sống và công việc họ đang làm. Nhưng bỗng Robert Jordan nhận thấy bọn phát xít đã đánh hơi được kế hoạch của cuộc tấn công và đang ráo riết tập trung quân bố trí phản kích. Anh cử ngay Andrés mang báo cáo về Ban chỉ huy Sư đoàn đóng ở Navacerrada đề nghị thay đổi kế hoạch tác chiến và cho ngừng ngay việc phá hủy cầu. Thế nhưng thật không may, do nhiều trắc trở và tính quan liêu của nhiều sĩ quan, lẽ ra đoạn đường chỉ cần đi trong ba giờ, Andret phải mất cả một ngày. Khi bức thư của Robert Jordan đến tay Gôndơ thì đã quá muộn, những chiếc máy bay ném bom đầu tiên mở màn cho trận đánh đã quần đảo trên bầu trời. Robert Jordan đành cho nổ mìn phá cây cầu theo kế hoạch đã định và dẫn đội du kích rút lui. Dọc đường, bom đạn quân thù khiến anh bị gãy chân, vết thương quá nặng, anh quyết định từ giã đồng đội và người yêu, ở lại ngọn đồi bên cạnh chiếc cầu bị phá nhằm chiến đấu cầm chân địch cho đội du kích rút lui an toàn. (Sau này cuộc chiến chống Phát Xít thất bại và tướng Franco cai trị đến tận sau Thế Chiến Thứ 2; thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Tây Ban Nha.) • Giá Trị Tác Phẩm Thông qua nội dung miêu tả hoạt động của một nhóm du kích quân địa phương dưới sự giúp đỡ của một chiến sĩ cộng hòa người Mỹ, “Chuông gọi hồn ai" một mặt ca ngợi cuộc kháng chiến kiên cường của dân tộc Tây Ban Nha vì hòa bình tự do, mặt khác phản ánh tinh thần quốc tế cao quý của các chiến sĩ thuộc Lữ đoàn quốc tế đã cùng nhân dân Tây Ban Nha chiến đấu bảo vệ chính nghĩa, dập tắt ngọn lửa hung bạo của chiến tranh đang tràn ngập khắp nơi. Tác phẩm hé lộ mẫn cảm nhanh nhạy của tác giả trong việc nắm bắt vấn đề trọng tâm của nhân loại trong những năm 1930 của thế kỷ 20, đó là nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa phát xít. Nó là lời tố cáo đanh thép tội ác man rợ của bọn Franco, lên tiếng đấu tranh chống lại chủ nghĩa phát xít khi nó vừa trỗi dậy. Đồng thời, bằng cách nhìn, cách nghĩ mới mẻ, Hemingway còn cố gắng giải quyết mối quan hệ giữa nhân dân và lịch sử cũng như những vấn đề về sự sống, cái chết, tình yêu, chỗ đứng và trách nhiệm của mỗi con người trong xã hội mà thực tế cuộc cách mạng Tây Ban Nha đã đặt ra. Về mặt nghệ thuật, “Chuông gọi hồn ai" là đỉnh cao phong cách trữ tình của Hemingway, một phong cách đã in đậm trong nhiều tác phẩm của tác giả như Mặt trời cũng mọc (The sun also rises, 1926), Giã từ vũ khí (A farewell to Arms, 1929), Ông già và biển cả (The old man and the sea, 1952)... Tác phẩm cố gắng đi sâu vào miêu tả vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật, thể hiện được những con người cá nhân có nhiều suy tư, có cá tính, gây ấn tượng mạnh mẽ, biết hy sinh cuộc sống riêng tư cho lý tưởng hoặc biết chịu đựng một sự thất bại bên ngoài để đổi lấy sự chiến thắng về tinh thần bên trong. Những đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật và những dòng trữ tình ngoại đề trong cuốn sách khiến cốt truyện của “Chuông gọi hồn ai" tưởng như đơn giản lại trở nên sinh động, phong phú trong các tình tiết, nhuần nhuyễn và linh hoạt trong kết cấu, cuốn hút hàng triệu độc giả trên khắp thế giới khi tiếp cận tác phẩm. Mặc dù tư tưởng của nhà văn ít nhiều còn thiếu lạc quan khi biểu lộ cảm quan định mệnh phảng phất trong tâm lý của một số nhân vật chính, cũng như tính chất bi kịch đậm nét ở phần cuối câu chuyện ít nhiều làm giảm cảm hứng tích cực của người viết trong tác phẩm, nhưng “Chuông gọi hồn ai", cuốn tiểu thuyết ra đời trong máu lửa chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Tây Ban Nha, vẫn là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của văn hào Hemingway cũng như của nền văn học hiện thực Mỹ thế kỷ 20. “Chuông gọi hồn ai" (For Whom the Bell Tolls) còn là tên 2 ca khúc do 2 ban nhạc nổi tiếng thế giới trình bày là Metallica (trong album Ride the Lightning) và ban nhạc anh em Bee Gees (trong album Size Isn't Everything) Mời các bạn đón đọc Chuông Gọi Hồn Ai của tác giả Ernest Hemingway.
Cánh Cửa - Szabó Magda
Cánh cửa được xem là cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Szabó Magda, đã được dịch sang tiếng Việt. Tác phẩm này đã tạo nên một nhân vật nữ đặc biệt cá tính, bà già Emerenc. Hình tượng Emerenc chính là hình tượng đã làm nổi bật tư tưởng sâu kín trong những sáng tác của Szabo về tâm lý và thân phận của những nhân vật phụ nữ trong hầu hết các tiểu thuyết của bà. Mối quan hệ giữa con người với con người quả thật đáng sợ hơn rất nhiều những gì mà chúng ta có thể tưởng tượng. Niềm tin rồi sẽ bị bủa vây bằng lòng phản bội, dù đặt vào tình huống ra sao, sự phản bội ấy cũng xuất hiện như một thứ thuốc phiện khiến ma quỷ trỗi dậy xui khiến. Có lẽ nữ nhà văn sẽ không bao giờ nghĩ về, hay thử đối diện với cảm giác sự phản bội của chính mình, dù có dằn vặt, Szabo cũng không thể thấu suốt được cảm giác bị phản bội mà bà già Emerenc bị nhấn chìm vào đó. Cánh cửa đã đưa người đọc đến gần với một vùng văn học còn ít nhiều chưa gần gũi ở Việt Nam. Nó không chỉ khiến chúng ta nắm bắt được những bí ẩn trong mối quan hệ giữa con người với con người, nó còn là sự hiện diện về một mảnh đất Hungary xa xôi, đã từng oằn mình vì nhiều biến động trong lịch sự. Với biệt tài kể chuyện, và giải phẫu tâm lý con người bằng ngòi bút vừa sắc sảo vừa bao dung, Szabo Magda đã khiến Cánh cửa trở thành kiệt tác, tự bản thân nó đã toát nên một bầu không khí bí ẩn và mê dụ. Szabó Magda được xem là “người đàn bà viết” của văn học Hungary. *** Szabo Magda là nhà thơ, nhà viết kịch, nhà viết tiểu luận và nhà văn, sinh ra tại Debrecen Hungary năm 1917. Nhà văn Stuber Andrea từng viết về Szabo: “Bà là chứng nhân cho thấy dù sao vẫn có thể gìn giữ cho tới cuối đời sự kiên nhẫn, niềm tin, sự cởi mở, sự nồng hậu tâm hồn, những hồi ức tốt đẹp, nhân cách nhà văn và con người." Magda là một trong những người khổng lồ của văn học đương đại Hungary. Văn chương của bà thường tập trung vào khám phá những chủ đề phổ quát của con người và các hiện thực chính trị hiện đại thông qua các chân dung quan sát được trong cuộc sống riêng tư. Bằng một sự nghiệp văn chương đồ sộ, lưu tâm đến những bí ẩn sâu kín của con người, bà là nhà văn nhận được nhiều giải thưởng văn học uy tín trên khắp thế giới. Năm 1959 và 1972 bà được trao Giải thưởng József Attila, năm 1978 nhận Giải Kossuth, năm 2001 được trao Dây chuyền Corvin và năm 2003 bà nhận Giải thưởng Femina (của Pháp) dành cho các tác phẩm văn học nước ngoài, cho tác phẩm Cánh cửa (Az ajtó) dịch ra tiếng Pháp, sau đó bà đoạt Giải Prima Primissima. Năm 2007, nhân kỷ niêm 90 năm ngày sinh của bà, tổng thống Solyom László đã trao tặng bà Huân Chương Đại Thập (ngạch dân sự) của Cộng hòa Hungary (đây là huân chương cao quý nhất của Nhà nước Hungary). Mới trước đây ít ngày bà được trao tặng Giải thưởng Tổ Quốc tôi (Hazám-díj) Bà đã hai lần được Viện Hàn lâm Nghệ thuật Széchényi đề cử lên Ủy ban Nobel đưa vào danh sách xét tặng Giải Nobel Văn chương. Szabó Magda là công dân danh dự của thủ đô Budapest và thành phố quê hương bà là Debrecen. Szabó Magda mất năm 2007, tại quê nhà, thanh thản trong chiếc ghế bành, khi trong tay vẫn cầm một cuốn sách.   Mời các bạn đón đọc Cánh Cửa của tác giả Szabó Magda.
Đằng Sau Bức Tranh - Sri Boorapha
Đây là cuốn tiểu thuyết tình yêu kinh điển đã ăn sâu vào trái tim của nhiều thế hệ bạn đọc Thái Lan. Đằng sau bức tranh là câu chuyện tình đẹp và thuần khiết nhất giữa công nương Kirati và chàng trai trẻ Nopporn. Tình yêu xuất phát từ hai con người có rất nhiều chênh lệch, từ tuổi tác đến địa vị vừa thú vị lại nhiều khó khăn. Họ có quan điểm về tình yêu rất khác nhau. Chàng trai không đủ kiên định và dễ thay đổi. Trong khi đó, công nương Kirati dù chấp nhận số phận lấy một người chồng già. Không hiểu tâm tư của vợ, nhưng tình yêu mà cô dành cho Nopporn giống như một làn gió tưới mát tâm hồn khô héo, và làn gió ấy cứ thổi mãi trong lòng cô, cho đến tận lúc chết. Tình yêu của họ giống nhau ở chỗ đều sâu đậm và khắc ghi trong lòng. Tình yêu ấy không được trọn vẹn nhưng ít nhất, họ đã tìm được tình yêu của cuộc đời mình. Đằng sau bức tranh của Sri Boorapha hấp dẫn bởi cách dẫn chuyện chân thực, cốt truyện hay, góc nhìn, nghệ thuật sáng tác tài ba và đặc biệt là cách dùng ngôn ngữ điêu luyện của tác giả. Hay như các nhà phê bình văn học nổi tiếng của Thái Lan đã nhận xét: "Đây là cuốn tiểu thuyết không có tuổi, đa chiều, sâu hun hút, vừa đem lại cảm giác thư thái vừa không ngừng gợi mở cho ta tìm tòi những ý nghĩa đằng sau câu chữ đầy ngụ ý”. *** Sri Boorapha tên thật là Kulap Saipradit (1905-1974) là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất trong nền văn học Thái Lan hiện đại. Sri Boorapha là một nhà phân tích, một cây bút viết báo sắc sảo và từng giữ chức Chủ tịch Hiệp hội báo chí Thái Lan.  Kho tàng các tác phẩm dưới ngòi bút của Sri Boorapha rất đa dạng, từ chính trị, tôn giáo, triết học, xã hội, tiểu thuyết, truyện ngắn, dịch thuật và sáng tác thơ ca. Trong đó, rất nhiều tác phẩm được tái bản lại nhiều lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho tới tận ngày nay. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm: Tiểu thuyết Đằng sau bức tranh, Người đàn ông, Chiến tranh cuộc đời, Cho đến ngày gặp lại... Sức mạnh nhân dân (thơ), Xin một chút sức lực (truyện ngắn) và nhiều bài nghiên cứu, dịch thuật có tầm ảnh hưởng lớn. *** Đã ba ngày trôi qua kể từ khi tôi đem bức tranh đó treo trong phòng làm việc, Pri mới để ý thấy. Nàng không thắc mắc gì nhiều, chỉ đứng nhìn một lúc rồi quay lại hỏi tôi: “Bức tranh vẽ nơi nào vậy, Mitake sao?”. Tôi thoáng giật mình, nhưng Pri không nhận ra. “Đây là một nơi có phong cảnh đẹp ở vùng ngoại ô Tokyo, người dân Tokyo thường thích tới đây du lịch vào những ngày cuối tuần”. “Vậy sao? Anh mua bức tranh này ở Tokyo à?”. Tôi cúi đầu, đọc tiếp cuốn sách còn dang dở trên tay từ trước khi Pri bước vào phòng. “Không, một người bạn của anh vẽ tặng”. Tôi cũng chẳng thích thú gì khi nghe chính giọng nói của mình lúc này, bởi nó giống như giọng của những diễn viên đang diễn kịch trên sân khấu vậy. “Em cũng nghĩ thế. Sẽ hơi lạ nếu anh là người mua bức tranh này bởi trông nó quá bình thường. Em cũng không nhìn thấy vẻ đẹp đặc biệt gì trong đó. Nhưng có lẽ con mắt nghệ thuật của em không đủ trình độ để nhìn ra nét đẹp của nó”. “Đối với việc xem tranh vẽ bằng màu nước như thế này, nếu nhìn quá gần sẽ không thấy được vẻ đẹp, nhưng nếu nhìn từ xa hơn một chút, em có lẽ sẽ thấy nó đẹp hơn”. Pri không định làm theo lời tôi nói, cũng không định hỏi thêm gì, điều này khiến tôi cảm thấy yên lòng. Bức tranh đó được đặt trong một chiếc khung màu đen thẫm, treo trên tường phía đối diện với bàn làm việc. Vì vậy, mỗi khi ngồi xuống làm việc, bức tranh sẽ ở phía sau lưng tôi. Trước kia, tôi định treo nó trước mặt để có thể ngắm mỗi khi muốn, nhưng về sau tôi đổi ý treo phía sau bởi tôi tin rằng, nếu như treo theo ý định ban đầu, bức tranh đó sẽ khiến tôi khó mà tập trung làm việc được. ... Mời các bạn đón đọc Đằng Sau Bức Tranh của tác giả Sri Boorapha.
Con Hoang - Lê Hồng Nguyên
Lại đêm nữa, bà đơn phương vùi khát thèm bằng trắng đêm giã gạo. Những đêm trăng quê yên tĩnh trải rộng miên man dài. Những đêm giã gạo toát mồ hôi, gió vừa đủ lạnh thấm lỗ chân lông gời gợi. Những đêm không chịu nổi, bà ôm chặt cái thân cối giã gạo, òa khóc cho hả lòng hả dạ, cho bớt tủi nhục cô đơn. Trong đêm, cái khúc gỗ nhãn làm thân cối giã gạo được bào nhẵn vuông tròn mịn màng hiển hiện như một thân thể đàn ông. Tại sao không cho bà được yêu thương, được ôm ấp, được giận hờn... *** Tôi là một đứa con hoang. Kỳ lạ, biết bao điều xảy ra, như một định mệnh, mãi tới đêm đầm Vạc hồng hoang đau khổ ấy, tạo hóa mới quyết định một sinh linh bé nhỏ là tôi được cấu thành, lớn dần trong bụng mẹ. Cảm ơn mẹ đã dũng cảm cho tôi làm người dù đời tôi, cũng như mẹ và cùng mẹ chịu biết bao đau khổ, thấp hèn. Tôi - đứa con hoang, nhìn chúng bạn có bố mà thèm. Tôi thèm lắm những buổi chiều từ trường mầm non trở về nhà được bố bế bổng, công kênh trên vai bi bô ríu rít suốt dọc đường. Tôi đắm đuối nhìn bố con thằng bạn, trông thấy nhau từ xa, họ mừng quýnh, khi tới gần, người cha giang rộng vòng tay nhấc bổng con lên hôn chíu chít. Tôi chúm miệng nói nhỏ một mình, bố, bố, bố ơi! Chẳng ai biết điều này. Nhưng mẹ tôi rất hiểu. Trưa tháng Mười, mùa gặt, bếp nhà ai cũng đỏ lửa, khói rơm tươi đen kịt mịt mùng phả đầy sân đầy ngõ. Tôi tha thẩn một mình bắt chuồn chuồn kim đang sưởi nắng xập xoè ở bờ dậu. Lũ học trò tan học xúm quanh tôi, đứa bẹo má, đứa xoa đầu, đứa nhìn soi mói, đứa thì thầm vào tai tôi: - Mẹ mày là đồ chửa hoang, chạy về bảo mẹ mày đi, ra đây bọn tao cho kẹo. Tôi sung sướng chạy nhanh vào nhà. Mẹ lúi húi trong khói bếp um tùm. Tối om, tôi chỉ nhìn thấy mờ mờ bóng mẹ đang thổi lửa. Tôi hớn hở bắc loa tay nói thật to với mẹ để đám học trò ngoài đường cùng nghe thấy, đám học trò cũng đồng thanh hét át cả tiếng tôi: - Cô Thắm chửa hoang... ... Mời các bạn đón đọc Con Hoang của tác giả Lê Hồng Nguyên.