Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Chú Chim, Con Ếch Và Khu Vườn Màu Xanh

TỪ BỎ Ư? TRONG TỪ ĐIỂN CỦA TÔI KHÔNG CÓ HAI TỪ ĐẤY! Đã bao giờ bạn rơi vào tận cùng của chán nản, muốn buông bỏ tất cả? Đã bao giờ bạn cảm thấy dù nỗ lực thế nào cũng bị hiện thực đánh gục? Đã bao giờ bạn từ bỏ đam mê chỉ vì không đủ niềm tin, không đủ sức lực? Nếu đã từng ít nhất một lần rơi vào tình trạng ấy, chắc chắn bạn không nên bỏ lỡ câu chuyện này - câu chuyện về Jack - một cậu bé luôn có mơ ước thay đổi thị trấn nơi mình đang sống. Dù cho hoàn cảnh có khó khăn, khắc nghiệt đến mấy, Jack cũng chưa bao giờ có ý định từ bỏ thị trấn. Bởi ở đó có gia đình gắn bó, có quê hương ấm áp tình người, có những điều thân thuộc nhưng rất đỗi quan trọng.  “Chuyện chú chim, con ếch và khu vườn màu xanh” sẽ là một "La Dolce Vita" dành cho bạn: Ai trong chúng ta cũng đều muốn sống một cách có ý nghĩa nhất, tận hưởng những điều tốt đẹp nhất mà tạo hóa đã ban tặng. *** NHỮNG CÂY CẦU Sống ở Thị Trấn Đồng giống như sống trên mặt trăng. Toàn bộ khu vực là đất đá nguyên sơ, trơ trụi gập ghềnh do những mương rãnh chống xói mòn cắt ngang qua mọi hướng. Xa tới tận đường chân trời, cảnh vật trông như một chiếc túi giấy nâu nhàu nát. Không có cả cây bụi lẫn trảng cỏ, không có mảng xanh nào len qua mặt đất để gắn nhà cửa của chúng tôi vào mảnh đất này, để những ngôi nhà trông như thuộc về nơi đây. Vậy vì sao cô Post lại mất công dạy chúng tôi về cây cối trong khi chúng tôi chẳng có cây cối gì? Những người thợ đã sử dụng hết cây khi bắt đầu khai thác mỏ đồng ở đây từ một trăm năm trước. Họ chặt cây để làm nhiên liệu cho các lò luyện kim lộ thiên, họ dùng những lò này để nung trước khi nấu chảy quặng. Khói từ những ống khói tạo ra mưa axit, và chính mưa axit đã giết sạch mọi vật. Giờ họ không còn làm như vậy nữa nhưng tự nhiên vẫn chưa trở lại. Dẫu vậy, cô Post nói rằng tất cả chúng tôi nên biết cây hoàng dương - loài cây tiêu biểu của bang Tennesse trông ra sao, và biết phân biệt cây hoàng dương với các loài thông, sồi, dẻ vàng hay phong. Cô bảo rằng không có cây cối là điều bất thường, mặc dù đối với chúng tôi việc đó thật bình thường. Trên tấm màn chiếu, cô cho chúng tôi xem hết slide này đến slide khác hình ảnh cây cối, từ các thân cây màu nâu to bự với ngọn xanh đầy lá, cho tới các cành nhánh dài mảnh khảnh với các lá kim trông như bàn chải. Với những gì chúng tôi biết về cây cối thì cô có trưng ra phi thuyền không gian chúng tôi cũng tin. Bên ngoài cửa sổ phòng học, tất cả những gì chúng tôi thấy là Những Ngọn Đồi Đỏ, như cách người dân địa phương vẫn gọi, đó là vùng đất chỉ có ích cho việc khai thác mỏ đồng và lái những chiếc xe đạp thể thao địa hình BMX. Nói vậy chứ tôi cũng chẳng có một chiếc xe loại ấy. Chiếc xe đạp đầu tiên của tôi là loại rẻ tiền, nó đã thoát khỏi tay tôi, lao xuống con đường đất rồi nảy trên các mương chống xói mòn, ném mình vào không khí như một chú chim cất cánh bay. Tôi có chiếc xe đạp này từ hồi lên mười, vì thế lúc chiếc xe rời bỏ tôi, nó đã trở nên quá nhỏ. Tôi liên tục nói bóng gió với mẹ rằng tôi cần một món quà Giáng sinh thật chất, một chiếc xe đạp đua BMX mới như chiếc xe trưng ở cửa hàng Công ty. Nhưng mẹ nói chiếc xe ấy quá đắt và nguy hiểm, thật chẳng có lý gì hết. Dẫu sao, nếu có xe đạp, tôi đã không phải cuốc bộ với Piran vào cái ngày tháng tám đó, ngày mà chúng tôi đụng độ Eli cùng đám bạn của hắn, và có thể tôi đã không làm gãy cánh tay mình. Piran được đặt tên theo vị thánh bảo trợ ngành khai thác thiếc, bạn hẳn nghĩ rằng cậu bạn thân nhất của tôi là một thiên thần. Nhưng cậu ấy khiến chúng tôi gặp rắc rối còn nhiều hơn cả quỷ sứ. Việc tôi băng qua cây cầu cạn đó là lỗi của cậu ấy, nếu cậu ấy không thách thì tôi đã không làm. ※ Đó là một ngày mùa hè nóng nực, không khí nặng nề và mọi vật đều nhuốm ánh vàng son. Eli Munroe cùng băng nhóm của hắn - một đám con trai cấp ba đang tụ tập hút thuốc ở đầu cầu cạn khi chúng tôi đi ngang qua trên đường tới Ao Thải Cũ Số Hai. “Nhìn các em bé dễ thương này.” Chúng cười. “Cá là các bé quá nhát không dám băng qua cầu đâu.” “Thôi đi.” Tôi lừ mắt và tiếp tục đi, nhưng Piran chộp lấy cánh tay tôi. “Coi nào Jack, băng qua cầu đi.” Cậu ấy nói. Khuôn mặt Piran bị biến dạng qua cạnh chiếc kính dày cộp cậu ấy đang đeo khi nhìn tôi từ một phía. “Không đời nào!” “Năm tới bọn mình sẽ lên cấp ba, đến lúc ấy một đứa trong đám này sẽ là học sinh năm cuối. Cậu muốn chúng gọi bọn mình là thỏ đế à? Tốt nhất là. giờ hãy chứng tỏ cho chúng thấy.” Piran thì thầm. “Tớ thách cậu đấy. Tớ đi trước nhé.” Piran không chờ tôi trả lời. Cậu ấy hất cằm rồi bước lên một thanh tà vẹt. Eli cùng băng của hắn rú lên reo hò. Tôi lo bệnh hen suyễn của Piran sẽ tái phát như thường lệ mỗi khi sợ hãi hay căng thẳng, nhưng cậu ấy vô cùng bình tĩnh giữ thăng bằng đi từ thanh đòn này sang thanh đòn khác. Cậu ấy băng qua cầu, nhảy xuống đất, rồi quay lại nhìn tôi cười nhăn nhở. Đến lượt tôi. Ánh nắng phản chiếu lên lớp kính chắn gió chiếc xe Jeep cũ của Eli làm tôi phải che mắt. Đây không phải cây cầu cạn cao nhất Hạt Polk nhưng cũng khá cao. Dưới trụ cầu, làn nước màu hổ phách đã gần khô cạn kể từ đợt mưa trước, chỉ thấy một lớp bùn vàng dày bám quanh những thanh đòn được tráng nhựa đường của cây cầu. Chạy từ đầu cầu tới cuối cầu cũng chỉ như chạy từ trụ thứ nhất đến trụ thứ hai, nhưng tôi chưa từng chạy trên các thanh đòn nằm quá gần nhau chỉ dành cho đi bộ thế này, nhất là khi nó lại nằm quá cao so với mặt đất. Bên dưới lòng chảo, mặc dù không có cây cối nhưng các ngọn đồi xung quanh cũng đủ để che phủ mọi thứ. Tôi lắng nghe mong có tiếng tàu vọng tới, nhưng thật yên lặng. Sự im lặng của Thị Trấn Đồng nghĩa là không có tiếng côn trùng hay chim chóc, thậm chí không có cả gió, điều đó làm tôi đổ mồ hôi nhiều hơn. Không còn cách nào tránh khỏi việc này. Nếu không băng qua cầu, không những tôi sẽ phải nghe đám Eli nhắc đi nhắc lại chuyện này, mà Piran cũng sẽ không bao giờ nói chuyện với tôi nữa. Tôi hít một hơi thật sâu, xoa xoa chiếc chân thỏ may mắn trong túi áo rồi bước lên. Tôi mới chỉ vượt qua nửa cây cầu thì đoàn tàu xình xịch xuất hiện. “Chạy đi… CHẠY!” Tất cả hét lên. Nhưng tôi chẳng thế sang kịp đến bờ bên kia, mà mặt đất lại cách quá xa để nhảy xuống. Các thanh tà vẹt nhô ra như những móc treo phía ngoài đường tàu làm tôi nảy ra một ý tưởng. Tôi quỳ xuống, bò ra tới rìa, những mảnh vụn gỗ đá đâm vào tay và đầu gối tôi. Tôi nghiến răng vì đau đớn. Đoàn tàu vừa tới gần, tôi kịp thời dùng tay ôm chặt một móc treo rồi lẳng hai chân qua một bên. Tôi đá chân liên tục mong tìm kiếm một điểm tựa. Nhưng tất cả những gì chân tôi đụng phải chỉ là không khí. Dạ dày tôi lộn tùng phèo, đầu tôi quay mòng mòng. Tôi ấn má vào lớp nhựa đường nóng dính trên thanh đòn khi tôi giữ chặt nó, tôi ngửi thấy mùi như lốp xe cháy sát bên cạnh. “Tránh xa địa phận Công ty ra, Jack nhé.” Tôi nhớ tới lời bố dặn. “Nguy hiểm lắm.” Nhưng Công ty sở hữu gần như mọi thứ quanh đây, không có nhiều việc có thể làm ở Thị Trấn Đồng mà không dính đến nguy hiểm theo cách này hay cách khác. Tôi nên làm gì, ngồi trong nhà cả mùa hè à? Tôi đã đủ lớn để tự lo cho bản thân. Nhưng ngay lúc này, tôi ước mình đã nghe lời bố. Đoàn tàu rú ầm ĩ lao về phía tôi, tiếng còi lớn tới nỗi đầu tôi ù đi. Từ góc nhìn của tôi, đoàn tàu như một con quái vật khổng lồ bằng sắt với tấm vỉ nướng phía trước đầy những răng kim loại, nó đang lao tới để nhai tôi ngấu nghiến. Tôi không còn cảm nhận được các ngón tay của mình chứ đừng nói tới phần còn lại của cơ thể. Sau này khi kể lại tôi vẫn khẳng định rằng chuyển động rung lắc đã khiến tôi buông lơi, nhưng nói thật với trời đất tôi đã buông tay. Tôi rơi hàng chục mét xuống lớp bùn bên dưới. Được rồi, chắc chỉ khoảng vài mét thôi, nhưng tôi nhớ rõ những tiếng “bõm!”, “tõm!” của lớp bùn, chính nó đã cứu sống tôi, ngay trước tiếng “rắc!” Đau đớn ùa tới cánh tay tôi. Eli cùng băng của hắn biến khỏi đó không thể nhanh hơn. Chúng trèo lên nhau thành một đống trong chiếc xe Jeep cũ mèm của Eli, rồi lao đi để lại đám mây bụi. Nhưng một đứa trong đám đã chậm chân và bị bỏ lại phía sau. “Will McCaffrey!” Piran hét lên. “Người trong mương kia là con trai của ông Ray Hicks đấy, mà bố anh làm việc ở mỏ. Tôi có cần cho anh hay chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh không mau đi tìm người giúp không hả?” Tôi không biết vào khoảnh khắc đó mình ghét hay quý Piran nữa, nhưng tôi không có nhiều thời giờ nghĩ về việc ấy. Tôi ngất đi. Khi tôi tình lại, Piran đang ngồi cạnh tôi vừa hít ống xịt vừa khóc lóc xin lỗi vì đã đẩy tôi vào tình huống khó khăn đó. Tôi thì khóc vì quá đau. Cậu ấy dùng chân làm gối để đầu tôi tựa vào. Tư thế thật vụng về, nhưng chúng tôi là một mớ hỗn độn bù lu bù loa nên tôi cũng chẳng bận tâm. Khi nước mắt đã khô và hơi thở bình tĩnh lại, Piran kể chuyện cười cho tôi nghe để giúp tôi không nghĩ tới cơn đau đang hành hạ. Dĩ nhiên tôi đã nghe tất cả những chuyện cười này trước đây. “Cậu không có chuyện gì mới à?” Tôi hổn hển. “Quỷ tha ma bắt, tớ không biết nữa. Tớ xin lỗi Jack ơi.” Piran lại khóc. “Bố sẽ giết tớ khi biết chuyện này, nhất là khi biết bọn mình đang tới chỗ ao thải cũ…” Chúng tôi không được phép tới đó. Đấy là nơi Công ty đổ bỏ nước họ dùng để tách những phần khoáng cuối cùng trong quặng. Khi họ đóng một ao thải lại, họ sẽ không bơm nước vào nữa. Vì thế, mặc dù tên là Ao Thải Cũ Số Hai nhưng nơi ấy không giống ao chút nào. Khắp nơi khô ráo, không có gì ngoài bụi silicat cứng màu trắng, vào những ngày gió, lớp bụi này thổi khắp Thị Trấn Đồng. Ao thải trông như một sa mạc với làn nước màu đồng rịn qua bờ ao, phủ lên đá một lớp nước bùn sắt màu mù tạt. Khu vực ao thải rộng hàng mẫu trông còn cằn cỗi hơn cả phần còn lại của Thị Trấn Đồng, tôi đoán đấy là lý do chúng tôi nghĩ nơi này rất ngầu. Ở đó trông như hành tinh khác vậy, vì thế chúng tôi thường giả vờ mình đang trên đường di cư giữa các vì sao ngoài không gian như trong phim Star Trek và hạ gục nhau bằng những khẩu súng bắn laze vô hình. “Cậu không cần cho bố biết.” Tôi nghẹn lời. “Chứ không thì vì sao bọn mình lại đi xa đến tận đây? Dù bố tớ không phải là một thợ mỏ nhưng ông ấy không ngốc đâu.” “Khỉ gì chứ, chú ấy chắc chắn là người thông minh nhất ở đây.” Tôi gắng sức nói. Mặt trời nung chúng tôi như cái lò. Tôi khát quá, lưỡi tôi phồng lên như quả bóng chày. “Bố cậu không cần phải xuống lòng đất làm việc.” Bố của Piran quản lý bưu điện của thị trấn, dường như việc này khiến cậu ấy ngượng. “Nhưng dưới lòng đất mới là nơi kiếm được nhiều tiền.” Cậu ấy nói. “Nếu không vì bệnh hen suyễn, tớ sẽ trở thành thợ mỏ.” Hẳn là tôi đang bị ảo giác. “Gì cơ? Vì sao?” “Cậu đùa à?” Piran đáp. ”Ở dưới ấy chẳng bao giờ có mưa hay tuyết, quanh năm lúc nào cũng một nhiệt độ. Cả thị trấn đối đãi với cậu như hoàng tộc, rồi cậu còn được giảm giá ở cửa hàng của Công ty nữa. Một ngày nào đó tớ muốn trở thành thợ mỏ giống như cậu.” Giống tôi ư? Tôi ráng nuốt xuống nhưng cổ họng khô khốc. Tôi ước mình cũng yêu công việc thợ mỏ như Piran hay bố tôi, yêu những chiếc mũ cứng, sức mạnh của công việc, tình cảm gắn bó đặc biệt giữa các thợ mỏ. Nhưng rồi tôi sẽ lại nghĩ về những người tôi quen biết đã chết hoặc bị thương bởi những vụ nổ hay sập hầm. Tôi nghĩ về bố tôi ngày nào đi làm về cũng phải kỳ cọ người thật kỹ mà chẳng bao giờ sạch hẳn. Những việc ấy dường như không hề làm bố tôi sợ. Bố của bố, ông nội Hicks của tôi đã mất trước khi tôi ra đời, bố coi cái chết của ông như một tấm huy hiệu danh dự. “Chúng ta là thợ mỏ, Jack ạ.” Bố đã nói. “Khai mỏ nằm trong máu chúng ta.” Tôi chắc chắn một điều là khai mỏ không nằm trong máu của tôi. Bố vẫn trông chờ tôi nối gót bố và sớm thôi tôi sẽ phải bảo bố rằng tôi không muốn. Nghĩ đến chuyện đó khiến tôi đau dạ dày. Bố đã tới làm việc ở mỏ từ hồi mười bảy tuổi, và em trai bố, chú Amon, làm ở đó từ lúc mười lăm, chỉ hơn tôi bây giờ hai tuổi. “Cậu có thể nói vài lời tốt về tớ khi cậu vào đó làm.” Piran nói. Tôi rên rỉ. Một phần để cậu ấy ngậm miệng, nhưng chủ yếu là bởi tôi đau quá, mà việc suy nghĩ còn khiến tôi đau đớn hơn. Lâu vô tận mới có người tới giúp, nhưng cuối cùng họ cũng đến. Các nhân viên y tế mang tôi đi trên một chiếc cáng trông như ván trượt màu cam cực hiện đại. Tôi nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cái mương ấy khi họ cứ thở hổn hển như thể chưa từng leo lên một ngọn đồi nào suốt cuộc đời. Cũng có thể coi là may mắn khi họ suýt làm rơi tôi và tôi lại ngất đi. Việc ấy giúp tôi khỏi thấy đau đớn suốt nửa hành trình leo lên dốc đá lở. ※ Tôi vẫn còn bị bó bột khi chúng tôi quay lại trường học vào tháng 9. Mỗi lần kể lại chuyện này Piran càng khiến câu chuyện trầm trọng hơn, cho tới khi tôi trở nên cực kỳ nổi tiếng. Cả lớp ký lên cánh tay bó bột của tôi, bao gồm cả đội bóng chày Thợ Mỏ mà tôi tham gia. Buster, cậu em họ tôi nói: “Em sẽ giết anh nếu anh làm gãy tay trong mùa bóng chày đấy.” Cứ như gãy tay trong kỳ nghỉ hè thì tốt hơn ấy nhỉ? Tôi đoán đấy là cách nói khác thường của Buster rằng cậu ta quan tâm đến tôi. Hoặc là không quan tâm. Tôi chọc cây bút chì xuống dưới lớp bó bột, cố gãi một chỗ ngứa vừa khéo… ngoài tầm với. Tôi chẳng thế chờ đến lúc bỏ thứ trời đánh này đi. “Jack Hicks, em có chú ý đến bài giảng không đấy?” Cô Post nạt. “Có điều gì đặc biệt về cái cây này?” Cô hỏi khi chỉ thước vào màn chiếu có hình một thân cây ngọn rậm rạp. “Cái cây có màu xanh ạ?” Tôi nói và mọi người đều cười. Nhưng tôi nghĩ đó là câu trả lời hay đấy chứ. Trong một thế giới với đất nâu, bùn vàng và cánh tay bó bột bẩn thỉu của tôi, bất cứ thứ gì màu xanh cũng đều đặc biệt. Thực tế nếu làm được tôi đã biến cả Thị Trấn Đồng thành màu xanh rồi. Mời các bạn đón đọc Chuyện Chú Chim, Con Ếch Và Khu Vườn Màu Xanh của tác giả Elizabeth O. Dulemba & Nguyễn Trang (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tư Duy Như Một Hệ Thống - David Bohm
Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia seminar, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order (Cái toàn thể và Trật tự ẩn), David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hậu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** David Joseph Bohm sinh ngày 20.12.1917 tại Wilkes-Barre, Pennsylvania, trong một gia đình Do Thái. Tuổi thơ của ông trôi qua không êm đềm. Nhận được ít sự chia sẻ từ cha mẹ, ông đã tìm cảm hứng trong thế giới của riêng mình, và ngay từ những năm đầu đời ông đã bộc lộ tính cách của một người thiết tha kiếm tìm chân lí. Là một nhân vật hàng đầu trong thế giới vật lí lượng tử, và là giáo sư Vật lí lí thuyết tại Trường Birkbeck, Đại học London các năm 1961-1983, từ khi bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình, Bohm đã đặt niềm tin vào trực giác nhiều hơn là vào con đường toán học thông thường. Ông tin rằng bằng cách chú ý đến cảm xúc và trực giác của mình, ông có thể đi đến một sự hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của vũ trụ mà con người là một phần trong đó. Tốt nghiệp Đại học Pennsylvania năm 1939, và hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ tại Berkeley dưới sự hương dẫn của Robert Oppenheimer, công việc của ông ban đầu liên quan tới sự tán xạ neutron-proton và các vấn đề nguyên lí thiết kế của máy gia tốc hạt. Ông chuyển tới Phòng thí nghiệm Bức xạ nơi ông làm việc trong Dự án Manhattan. Từ đây ông đã phát triển công cụ lí thuyết mới để mô tả dao động plasma và trở nên nổi tiếng với vai trò một nhà vật lí lí thuyết. Năm 1947, Bohm chuyển đến Đại học Princeton. Ở đây ông đã áp dụng những ý tưởng của mình về plasma để nghiên cứu hành vi của các electron trong kim loại. Những nghiên cứu này của ông cùng các cộng sự đã được quốc tế công nhận. Cũng tại Princeton, mối quan tâm đặc biệt của Bohm về những nền tảng của cơ học lượng tử đã bén rễ. Để hiểu hơn về chủ đề này, ông đã quyết định viết một cuốn sách giáo khoa, Quantum Theory (Lí thuyết lượng tử - 1951‖. Cuốn sách được đón nhận rộng rãi, và đến nay đã trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của vật lí lượng tử. Nhưng sau khi hoàn thành Quantum Theory, Bohm cho rằng cuốn sách này chưa thật thỏa đáng. Và ngay sau đó, ông đã đăng hai bài báo cho thấy một cách tiếp cận khả dĩ khác, và cách tiếp cận này dường như đã hiện thực hóa những điều mà quan điểm chính thống coi là không thể. Sau những hiểu nhầm và rắc rối về chính trị, Bohm chuyển đến Brazil và Israel, rồi tới Đại học Bristol năm 1957. Tại đây, cùng với Yakir Aharanov, ông đã đăng một bài báo quan trọng vạch rõ những hệ quả quan sát đáng ngạc nhiên về vector trường thế. Lúc đầu, ý tưởng của họ không được đó nhận, nhưng nó đã sớm được xác nhận qua thí nghiệm. Ý tưởng này được John Maddox, biên tập viên của tạp chí Nature uy tín, gợi ý đến một giải Nobel. Trong những năm 1970-1980, Bohm lần lượt gặp Krishnamurti và Đức Đạt Lai Lạt Ma. Và hai con người này đã mở cho Bohm những cánh cửa khác nhau nhìn vào vũ trụ tự nhiên và tâm linh. Bohm mất tại London ngày 27.10.1992. Cuốn sách Tư duy như một hệ thống được tập hợp từ những trao đổi của David Bohm trong seminar ba ngày từ 31.11.1990 đến 2.12.1990 tại Ojai, California. Trong ba ngày trò chuyện với năm mươi người tham gia, David Bohm đã đưa ra một cách nhìn triệt để về những nguồn gốc tiềm ẩn bên trong những xung đột giữa người với người, và tìm hiểu những khả năng cho sự thay đổi của cá nhân và tập thể. Ông đã đưa ra chủ đề về vai trò của tư duy và tri thức ở mọi cấp độ của đời sống con người, từ những suy nghĩ riêng tư về căn tính của cá nhân đến những nỗ lực tập thể nhằm vươn tới một nền văn minh tốt đẹp hơn. Bằng việc nghiên cứu sâu những nguyên tắc về mối quan hệ giữa tâm trí và vật chất, được nêu ra lần đầu tiên trong cuốn Wholeness and Implicate Order ― Cái toàn thể và Trật tự ẩn, David Bohm đã bác bỏ quan niệm cho rằng các quá trình tư duy của chúng ta chỉ thông báo một cách trung tính những gì xảy ra "ngoài kia" trong một thế giới khách quan. Ông khảo sát cách thức tư duy tham gia tích cực vào sự hình thành tri giác, cảm nhận của chúng ta về ý nghĩa và những hành động thường ngày của mình. Ông gợi ý rằng những tư duy và tri thức tập thể đã trở thành tự động đến nỗi phần lớn chúng ta bị chúng điều khiển, hấu quả là mất đi tính xác thực, tự do và trật tự. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lí nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lí vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Cùng với Cái toàn thể và Trật tự ẩn, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tới quý độc giả những tư tưởng đặc sắc của David Bohm qua bản dịch Tư duy như một hệ thống với một văn phong tiếng Việt sáng rõ và khoa học của các dịch giả Tiết Hùng Thái, Chu Trung Can. *** Joseph David Bohm là một nhà vật lí lượng tử người Anh. Ông nguyên là giáo sư danh dự Đại học Birkbeck thuộc Đại học Tổng hợp London. Ông là tác giả nhiều cuốn sách và bài báo, trong đó có Thuyết nhân quả và Ngẫu nhiên trong Vật lý hiện đại, Cái toàn thể và Trật tự ẩn, Vũ trụ không phân chia (viết cùng với Basil Hiley). David Bohm là một trong những người có nhiều ảnh hưởng tới mô hình lí thuyết hiện đại. Sự thách thức của Bohm với những hiểu biết thông thường về lí thuyết lượng tử đã khiến các nhà khoa học suy nghĩ lại về những việc họ đang làm, đặt câu hỏi về bản chất của lí thuyết mà họ đang theo đuổi và xác định phương pháp luận khoa học của họ. Là một ứng viên hoàn toàn xứng đáng cho giải Nobel Vật lý nhưng ông không bao giờ có được giải thưởng này. Luôn khiêm nhường, Bohm cho rằng công việc của mình không "quan trọng đến thế". Ông nhận được sự ủng hộ và tình bạn từ một nhà vật lý vĩ đại khác là Albert Einstein, người luôn tin tưởng ông với vai trò một nhà khoa học, và một con người. Mời các bạn đón Tư Duy Như Một Hệ Thống của tác giả David Bohm.
Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn - Jamies Holmes
“MỘT CÁI NHÌN SÂU SẮC, SOI THẤU KHÍA CẠNH ĐẦY NGẠC NHIÊN CỦA SỰ MƠ  HỒ VÀ BÍ ẨN. MỘT CUỐN SÁCH CÓ THỂ TRUYỀN CẢM HỨNG CHO VIỆC HỌC TẬP, SÁNG TẠO VÀ THẬM CHÍ LÀ CẢ SỰ ĐỒNG CẢM.” Như Jamie Holmes chỉ ra trong cuốn sách này, sự mơ hồ và bí ẩn, sự nhập nhằng,… khiến chúng ta không thoải mái, do đó chúng ta có xu hướng trốn tránh nó và thường bám riết lấy phương án giải quyết an toàn (nhưng không phải lúc nào cũng là tốt nhất), đặc biệt là trong những tình huống nguy hiểm. Nhưng cũng chính vì thế, chúng ta tước đi của chính mình cơ hội quan trọng để tìm hiểu cách giải quyết vấn đề theo hướng mới hoặc quan sát thế giới từ một góc độ khác. Bằng những hiểu biết về tâm lý học xã hội và khoa học nhận thức của tác giả và thông qua những câu chuyện thú vị - từ trò chơi gián điệp và các giáo phái ngày tận thế cho chiến dịch quảng cáo của Absolut Vodka hay sự sáng tạo của Mad Libs – cuốn sách của Jamie Holmes hứa hẹn sẽ làm thay đổi cách chúng ta tiến hành kinh doanh, giáo dục và đưa ra quyết định. Mọi khía cạnh tích cực của “sự mơ hồ và bí ẩn” và cách tận dụng nó đều nằm trong cuốn sách này! *** N ăm 1996, Đại học City & Islington ở London tổ chức một khóa học tiếng Pháp cấp tốc cho những người mới học và sinh viên dưới trung bình. Paula, một cô bé thiếu niên nghiêm chỉnh đeo một cặp kính gọng mảnh, chưa bao giờ nói được một từ tiếng Pháp nào. Darminder, người có một bộ râu dê và đeo khuyên tai, không chỉ mới học tiếng Pháp mà còn thất bại trong kỳ thi chứng chỉ tiếng Tây Ban Nha tổng quát của bậc giáo dục trung học (GCSE). Abdul đã rớt kỳ thi GCSE tiếng Đức. Satvinder và Maria đều rớt kỳ thi GCSE tiếng Pháp và giáo viên tiếng Pháp của Emily khuyên cô nên bỏ ý định học thứ tiếng này. Tuy nhiên, thay vì từ bỏ tất cả hy vọng, những học viên này đã đăng ký tham gia một khóa học độc nhất vô nhị. Trong năm ngày học toàn thời gian, họ sẽ áp dụng phương pháp kỳ lạ của một nhà ngôn ngữ học tên là Michel Thomas. Trong chiếc áo khoác màu xanh và với mái tóc muối tiêu, trông Thomas toát lên vẻ nhã nhặn. Ông nói với những học viên mới rằng: “Tôi rất mong chờ buổi dạy ngày hôm nay nhưng dưới những điều kiện tốt hơn, vì tôi không nghĩ rằng các em đang ngồi thoải mái. Tôi muốn các em cảm thấy thoải mái, do đó chúng ta sẽ sắp xếp lại mọi thứ.” Trong một chiếc xe tải ở bên ngoài, Thomas đã chuẩn bị sẵn một số vật dụng thay thế không ai ngờ tới cho một lớp học tiêu chuẩn: ghế bành, gối, bàn cà phê, cây cối, thảm, một cái quạt và thậm chí là những tấm đệm gấp làm bằng liễu gai. Chỉ với chút ít thời gian và công sức, các học viên đã hoàn tất việc thay đổi căn phòng. Những chiếc ghế bành lưng cao bọc vải nhung xếp thành một nửa hình ô van, những chiếc rèm xanh được kéo lại, chỉ để lọt ánh sáng mờ trong căn phòng, và những tấm đệm liễu gai bao quanh những chiếc ghế bành mang lại một cảm giác ấm áp và thân mật hơn. Không có những bàn học, bảng đen, giấy, bút hay chì. Thomas không muốn các học viên viết hay đọc bất kỳ thứ gì. Ông không muốn họ nhớ bất cứ điều gì được học, kể cả việc xem lại chúng vào cuối ngày. Nếu trong thời gian học, các sinh viên không nhớ được điều gì đó, ông nói rằng đó không phải vấn đề của họ. Đó là vấn đề của ông. Emily tỏ vẻ hoài nghi. Darminder và Abdul thậm chí còn không giấu được nụ cười tinh quái. Nhưng không ai trong số những sinh viên này có thể ngăn nổi sự tò mò thực sự về người đàn ông đứng tuổi đang đứng trước mặt mình. Ông ta có nghiêm túc không? Không cố gắng nhớ những gì được dạy trên lớp ư? “Tôi muốn các em thoải mái.” Cảnh tượng này, phương pháp của Thomas và các kết quả sau năm ngày học xuất hiện trong một bộ phim phóng sự của đài BBC mang tên Chuyên gia Ngôn ngữ. Margaret Thompson, Trưởng khoa tiếng Pháp của trường được giao nhiệm vụ đánh giá kết quả của Thomas. Vào cuối tuần, bà theo dõi các sinh viên – trong đó rất nhiều người chưa từng nói được một từ tiếng Pháp nào trước đây – đã dịch được những câu hoàn chỉnh sử dụng các dạng ngữ pháp nâng cao. Emily đã có thể dịch được một cụm từ vốn thường mất nhiều tháng để giải quyết: “Tôi muốn biết liệu anh có muốn đến gặp tôi tối nay hay không?” Paula ca ngợi cách Thomas nhấn mạnh sự bình tĩnh và kiên nhẫn. Các sinh viên nói rằng họ cảm thấy như thể đã học được năm năm tiếng Pháp chỉ trong năm ngày. Khá kinh ngạc với kết quả, Thompson rụt rè chấp nhận đánh giá của những học viên này. Michel Thomas biết rằng việc khám phá một ngôn ngữ mới quả thực rất đáng sợ. Các học viên phải đối mặt với cách phát âm mới cho những từ ngữ quen thuộc, các từ vựng mang ý nghĩa kỳ lạ, những phần thiếu của lời nói hay những cấu trúc ngữ pháp lạ lẫm. Đó là lý do vì sao những sinh viên của Đại học City & Islington dù được học trong một môi trường thoải mái vẫn thể hiện sự bối rối: cười lớn căng thẳng, cười nhẹ ngượng ngùng, xin lỗi thầm, nói lắp, lưỡng lự và những cái liếc mắt lúng túng. Học một ngôn ngữ mới đòi hỏi bạn phải đi vào một vùng đất xa lạ. Thomas mô tả ngôn ngữ mới “là thứ xa lạ nhất” mà một người có thể học. Để bảo vệ bản thân trước sự xâm lấn “xa lạ” này, tâm trí sẽ dựng lên những rào cản theo bản năng, vì vậy thách thức đầu tiên và cũng là khó khăn nhất với giáo viên là giúp các học viên kéo đổ những rào cản này. Thomas đã thay đổi môi trường giảng dạy ở Đại học City & Islington từ đáng sợ, đầy căng thẳng thành tò mò, đầy bình tĩnh. Bằng cách nào đó, ông đã khiến tâm trí của các học viên cởi mở hơn. Các học viên vốn có thói quen gạt bỏ những gì chưa hiểu đột nhiên sẵn sàng dấn thân vào những lãnh thổ xa lạ hơn. Vào thời điểm BBC quay phóng sự này (sau đó được phát sóng năm 1997), Thomas đã là một huyền thoại. Ông thành thạo 11 ngôn ngữ, mở ra những trung tâm gia sư ở Los Angeles, New York và xây dựng một thứ gì đó như một “tôn giáo” nhờ vào một danh sách khách hàng bao gồm Grace Kelly, Bob Dylan, Alfred Hitchcock, Coca-Cola, Procter & Gamble và American Express. Nigel Levy, người đã tham gia lớp học của Thomas trước khi sản xuất ra bộ phim phóng sự của BBC, mô tả những bài học của ông là rất “đáng kinh ngạc”. Emma Thompson mô tả thời gian làm việc với ông là “một trải nghiệm học tập đặc biệt nhất trong đời”. Cựu đại sứ Israel ở Liên Hợp Quốc gọi ông là “người lao động thần kỳ”. Và Herbert Morris, cựu Trưởng khoa Nhân văn của UCLA, tiết lộ rằng ông đã học được cả năm tiếng Tây Ban Nha chỉ trong vài ngày học cùng Thomas và vẫn còn nhớ những kiến thức đó mãi tới chín tháng sau. Thomas cho rằng “điều quan trọng nhất là loại bỏ mọi căng thẳng và áp lực”. Ông đặc biệt quan tâm đến trạng thái tâm lý, thậm chí quan tâm đến cực độ. Ví dụ, ông thường bắt đầu dạy tiếng Pháp bằng cách nói với các học viên rằng tiếng Pháp và tiếng Anh có chung hàng nghìn từ vựng, chỉ là chúng nghe có hơi khác nhau một chút. Ông từng nói đùa: “Tiếng Anh chính là tiếng Pháp được phát âm sai.” Ông giải thích rằng những từ ngữ kết thúc với -ible như possible và -able như table đều có nguồn gốc từ tiếng Pháp. Nhờ việc biến những điều xa lạ thành thân quen, ngay từ đầu Thomas đã trao cho các sinh viên những nền tảng vững chắc. Các sinh viên ghép kiến thức mới vào kiến thức hiện hữu từng chút một, thể hiện tư duy riêng và không bao giờ lặp lại những cụm từ theo lối học vẹt. Thomas dạy họ cách tự học và hiếm khi phải uốn nắn các học viên một cách trực tiếp. Đến năm 2004, những đĩa CD, băng dạy tiếng Pháp, Đức, Ý và Tây Ban Nha của Thomas – ghi lại quá trình Thomas dạy từng loại ngôn ngữ cho các nhóm hai học viên – là những khóa học bán chạy nhất ở Anh. Nhưng Michel Thomas không đơn thuần là một nhà ngôn ngữ học. Ông cũng là một anh hùng thời chiến. Cùng năm đó, ông được vinh danh ở Lễ Tưởng niệm Thế chiến II tại Washington D.C, nơi ông nhận được Huy chương Sao Bạc. Ông mất năm 2005 ở New York, là một công dân Hoa Kỳ nhưng sinh ra ở thành phố công nghiệp Lodz, Ba Lan với tên gọi Moniek Kroskof. Ông sống sót qua những trại tập trung, trở thành chỉ huy quân đội, điệp viên và chuyên gia thẩm vấn của phe Đồng Minh. Sau cuộc chiến, ông đã bắt hơn 2.000 tội phạm chiến tranh Đảng Quốc Xã. “Michel Thomas” là nhân dạng giả thứ năm và cũng là bí danh của ông. Kinh nghiệm tuyên truyền chuyên chế và sự nghiệp nằm vùng sau chiến tranh không phải là những điểm đáng chú ý trong lý lịch của Thomas. Những khám phá của ông về cách tâm trí đóng sập cánh cửa hay mở khóa trước sự mơ hồ – trọng tâm chính của cuốn sách này – xuất phát từ những trải nghiệm của ông ở Đức. Ông đã chứng kiến việc Đảng Quốc Xã đã nuôi dưỡng một cách tiếp cận thô bạo, thậm chí khinh bỉ trước sự bất định và phức tạp về đạo đức trong những đảng viên nồng nhiệt nhất như thế nào. Và sau đó ông dành ra nhiều thập kỷ phát triển các phương pháp để nuôi dưỡng một thái độ đối lập tuyệt đối ở những người học ngôn ngữ. Trên thực tế, 50 năm trước khi bộ phim phóng sự của BBC được ghi hình, Thomas đã kiểm tra các ý tưởng đầu tiên của mình trong một phiên bản hoàn toàn đối lập với buổi trình diễn sư phạm của mình ở Đại học City & Islington. Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Sự Mơ Hồ Và Bí Ẩn của tác giả Jamies Holmes.
Để Thành Nhà Văn - Thu Giang & Nguyễn Duy Cần
Để Thành Nhà Văn là cuốn sách hướng dẫn người đọc cách trở thành nhà văn, không chỉ giỏi về kỹ thuật viết mà còn về nhân cách, tinh thần của một nhà văn chân chính. Qua cuốn sách này, tác giả Nguyễn Duy Cần đã trao đổi với bạn đọc một cách chân tình những kinh nghiệm và bí quyết để trở thành nhà văn, nhà phê bình văn học đứng đắn và xứng đáng với tên gọi của nó. *** Có lẽ vì đã viết được một vài quyển sách, thảo được một vài bài báo... mà có một vài bạn trẻ gán cho mình danh hiệu “nhà văn”, và đòi hỏi mách cho những bí quyết để trở thành “nhà văn”... Ôi, kinh nghiệm của đôi ba mươi năm cầm bút, lại cũng không do trường chuyên môn văn chương nào đào tạo cả, thì biết gì mà chỉ dẫn! Sự thực là thế. Lời nói đây là lời nói chân thành. Tôi chỉ viết khi nào tôi cảm thấy cần phải nói lên một điều gì thôi. Tuy nhiên, phàm đã cầm bút, thì dù cho ai, cũng không thể không nghĩ về những mật pháp của một nhà văn. Kẻ cầm bút này cũng đã từng trải qua tâm trạng thắc mắc ấy của các bạn thanh niên hiếu học có cao vọng muốn thành nhà văn. ⥚◌⥛ Những mật pháp của nhà văn, ta phải hỏi ai và hỏi đâu? Thiết tưởng không có cách nào hay hơn là hỏi những nhà văn tên tuổi và tài hoa đã được người người đủ mọi thế hệ nhìn nhận. Thật vậy, một mình mình có thể lầm, một thế hệ có thể lầm, nhưng mọi thế hệ, mọi dân tộc ít khi lầm. Kinh nghiệm của họ, đối với ta sẽ vô cùng quý báu, đỡ cho ta những dò dẫm, vụng về, đã chẳng những mất rất nhiều thời giờ, lại có khi không mang đến cho mình bao nhiêu kết quả. Ở đây, các bạn sẽ không tìm thấy những phương pháp cấu từ hay luyện văn như trong những quyển sách luyện văn gần đây mà phần nhiều dành cho học sinh hoặc cho những nhà văn trước giờ chưa từng biết qua những nguyên tắc căn bản đã được dạy ở nhà trường. Đây chỉ là một số ý kiến và kinh nghiệm của một số nhà văn có tiếng đã khám phá trong khi họ cầm bút. Bởi vậy, họ sẽ chỉ có ích cho những ai đã cầm bút, nghĩa là đã có được ít nhiều kinh nghiệm trong nghề viết văn. Nên nhớ rằng “đã cầm bút” chưa ắt “đã là nhà văn”, một nhà văn xứng đáng với danh từ của nó. Những gì sẽ trình bày sau đây, thực ra cũng không có chi là tân kỳ cả... nhưng đều là những vấn đề thiết yếu mà bất cứ một nhà văn chân chính nào cũng không thể bỏ qua không nghĩ đến được trong khi thừa hành sứ mạng của mình. Rất có thể các bạn sẽ không đồng ý với tác giả, - điều không mấy quan trọng, - nhưng chắc chắn, đó là những vấn đề mà các bạn sẽ không thể không lưu ý được đề tìm cho mình một đường lối hợp lý đối với mình. Nói thế là vì tác giả tin rằng không có ai giúp ai được, bởi một lẽ rất giản dị là không ai giống ai cả, từ tinh thần đến thể chất, và như vậy, không có thể lấy ai dùng “làm mẫu” cho ai được cả. Để chấm dứt, tác giả xin mượn lời của một văn sĩ nọ để thưa với các bạn: (...) “Đây cũng chỉ là những điều mà từ trước đến giờ người ta đã nói đi nói lại có cả trăm nghìn lần rồi, nhưng lại là những điều mà thỉnh thoảng ta cần phải lặp đi lặp lại mãi mà không bao giờ có thể gọi rằng thừa...” Tập sách nhỏ này, khi viết ra, tôi đã nghĩ dến việc bổ túc một phần nào quyển Tôi Tự Học mà tôi thấy còn nhiều thiếu sót... Tập làm văn là một phương pháp tự học hết sức cụ thể và nhiều hiệu quả nhất vì nó bắt buộc mình phải lo học mãi mà không thôi, và tự bắt buộc phải phô diễn ra bằng lời nói những gì mình đang thầm nghĩ trong tâm tư. Đó là một trong những cách tự học. “Cái gì mình biết thì biết là mình biết; còn những gì không biết thì cũng biết rõ là không biết”. Không nói hay viết ra được một cách rõ ràng là mình chưa thật hiểu, chưa thật biết. Bởi vậy, mỗi khi nói hoặc viết ra là một phương pháp để kiểm soát lại và nhận thức rõ hơn những hiểu biết của mình về một vấn đề nào. Còn một đề nghị nữa: Các bạn không nên quan tâm lắm đến những gì tôi trình bày, vì đó là những ý kiến riêng tư của một cá nhân, xin hãy chú ý đến những gì tôi đã khêu gợi được ở các bạn mà thôi. Được thế thì việc làm hôm nay sẽ không nỗi uổng. Thu Giang   Mời các bạn đón đọc Để Thành Nhà Văn của tác giả Thu Giang & Nguyễn Duy Cần.
PQ - Chỉ Số Đam Mê - Virender Kapoor
Không phải là Chỉ số thông minh (Intelligence Quotient – IQ) mà chính là Chỉ số đam mê (Passion Quotient – PQ) sẽ tạo nên sức mạnh quan trọng nhất quyết định thành công của bạn. “Chỉ số đam mê” là một thuật ngữ mới mà tác giả Virender Kapoor đã sáng tạo ra như là một cách nói mới về những gì chúng ta hay dùng để chỉ nhiệt huyết hay ngọn lửa trong lòng. Niềm đam mê của bạn là gì, bạn nhận biết như thế nào về những thứ mình thích và không thích, bạn đã biết cách sử dụng niềm đam mê của mình như những người thành công chưa? Đây là những điều cuốn sách sẽ dạy bạn. Cuốn sách này sẽ khơi gợi, chỉ dẫn và mang lại những điều mới mẻ cho cuộc sống, công việc, gia đình và cả thái độ của bạn! Có những xúc cảm tiêu cực không chỉ lấy đi niềm vui, năng lượng của bạn mà còn quấy quả bạn không ngớt. Bạn không chỉ cần có thái độ tích cực – như những gì mọi người vẫn thường nói – mà còn cần “thắp sáng” cho thái độ sống của mình. Nếu cuốn sách này có thể giúp tăng chỉ số đam mê của bạn thêm 20% nữa, nó sẽ thay đổi cuộc đời bạn. Cuộc sống sẽ trở nên có ý nghĩa hơn, thú vị hơn, và tất nhiên nó sẽ là bệ phóng giúp bạn đạt đến những đỉnh cao mà chẳng bao giờ bạn tưởng tượng đến – mà không cảm thấy áp lực chút nào. Nó có tác dụng như một “nguồn năng lượng ảo”, hiện hữu ngay đó, chỉ có điều bạn không nhận thấy mà thôi. Với PQ - Chỉ Số Đam Mê, tác giả đã loại bỏ ảo tưởng rằng bằng cấp và chỉ số IQ cao mới là những động lực thúc đẩy để đạt được thành công. Chỉ số IQ giống như một đoạn mạch AND vững chắc rất khó cải thiện. Còn chỉ số PQ là chất lửa trong mỗi con người, chúng ta hoàn toàn có thể điều chỉnh ngọn lửa. *** Virender Kapoor là một diễn giả, tác giả, nhà giáo dục và nhà quản lý nổi tiếng. Là nhà giáo dục uy tín, ông từng là giám đốc Học viện Quản lý, sau đó ông mở Viện Quản lý dành cho các nhà lãnh đạo đặt trụ sở tại Pune (Ấn Độ). Từng viết sách về viễn thông và hệ thống thông tin trong những năm 1990, nhưng sau đó ông tập trung hướng vào những vấn đề như trí tuệ cảm xúc, nghệ thuật lãnh đạo và tự thúc đẩy bản thân. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng, trong đó có Heart over Matter: Your Mantra for Success. Mời các bạn đón đọc PQ - Chỉ Số Đam Mê của tác giả Virender Kapoor.