Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1 (Dolores Cannon)

Cái tên Dolores Cannon có lẽ không được quen thuộc với nhiều độc giả, nhưng nào giờ cô ấy đã làm việc trong mảng thôi miên hồi quy được nhiều năm rồi. Dolores không phải là một học giả, nhưng cô ấy có sự tận tụy của một học giả, đối với chi tiết, sự chính xác, và sự thật. Cô không hề mệt mỏi trong việc theo đuổi tri thức, điều mà độc giả của cô sẽ biết khi họ đã đi theo con đường không ngừng nghỉ của cô ấy xuyên qua những mê cung tinh thần và tâm trí của con người. Không có gì đáng ngạc nhiên khi cô ấy đã có được một lượng lớn người theo dõi trong số những người am hiểu, những người bạn đồng nghiên cứu về những hiện tượng huyền bí. Tại nhà của Dolores, như bạn sẽ thấy, có rất nhiều chỗ ở (*).

Tôi gặp Dolores cách đây một vài năm, và cô ấy đã kể với tôi về công việc mà cô ấy đang làm. Cô ấy đã không hề tuyên bố là mình hiểu được toàn bộ những tài liệu mà cô ấy thu thập được từ những thân chủ của mình trong khi họ đang ở trong trạng thái thôi miên. Cô ấy không tuyên bố rằng mình biết tất cả các câu trả lời, nhưng với một tư duy cởi mở, cô ấy đã tin rằng những linh hồn tự cho rằng họ đang trò chuyện với cô thông qua miệng của những người đang sống, có thể là những sinh thể có thực, có lẽ là nằm ngoài thời đại của chúng ta, tồn tại ở một cảnh giới khác với cảnh giới của chúng ta.

Là một người đã quen thuộc với thuật thôi miên, tôi hứng khởi nhất là khi nghe những gì cô Cannon nói. Tôi đã học kỹ thuật thôi miên nhiều năm trước từ một bác sĩ nổi tiếng ở Florida. Sau đó, tôi có vinh dự được làm việc với một trong những người tiên phong hàng đầu trong lĩnh vực thôi miên lâm sàng, William S. Kroger, Bác sĩ Y khoa của Beverly Hills.

Tôi đã hỏi Dolores kỹ càng về những kỹ thuật của cô ấy và tin chắc rằng cô ấy không dẫn dắt các thân chủ của mình trong khi họ đang được thôi miên dưới sự hướng dẫn của cô, cũng như không cung cấp bất kỳ tài liệu nào mà được tiết lộ dưới sự thôi miên. Tôi đã nghe rất kỹ một số đoạn băng, tìm kiếm bất kỳ sai sót hay những phương pháp luận đáng nghi vấn nào đó. Tôi nhận thấy cô ấy cực kỳ cẩn thận, không hướng dẫn các thân chủ cũng như không nhắc nhở họ. Nếu có điều gì, thì cô ấy là người chuyên chú đứng sang một bên và để cho những tài liệu được truyền đạt lại mà không bị ảnh hưởng bởi những câu hỏi của cô ấy. Cô ấy không đưa ra những câu trả lời, lý thuyết, xác suất hay giả thiết nào. Thay vào đó, cô ấy để thân chủ dẫn dắt cô ấy qua suốt những buổi thôi miên, với những giọng nói khác trong các căn phòng khác kia.

Dolores Cannon là một người thực hành nghệ thuật thôi miên một cách nghiêm túc, và đặc biệt thành thạo kỹ thuật hồi quy. Tôi đã yêu cầu được đọc một số phần của một trong những bản thảo của cô ấy. Cô ấy đã gởi nó cho tôi và tôi đã rất ấn tượng với tài liệu mà cô ấy đã khám phá ra. Theo tôi, dường như cô ấy có hơi ngạc nhiên bởi tài liệu và cả bởi cách mà nó được đưa ra ánh sáng. Tài liệu của cô ấy rất hấp dẫn, ít nhất phải nói rằng, chúng được tổ chức rất tốt. Tìm mua: Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1 TiKi Lazada Shopee

Có những lý do chính đáng khiến cô ấy bị giật mình bởi những gì mà các thân chủ của cô ấy phải nói trong khi được thôi miên. Tôi đã hỏi cô về những thân chủ này. Nhiều người là những bà nội trợ ở nông thôn, sinh ra trong những gia đình nông dân, ít được học hành. Đây là những người mà người ta hẳn sẽ không coi là người trí thức. Do vậy, tài liệu dường như ấn tượng hơn là nếu nó đến từ ai đó mà vốn đã biết về những nghiên cứu siêu nhiên.

Dolors đã biết rằng cô ấy có được một số tài liệu thú vị. Cô ấy là một nhà văn rất giỏi. Cô ấy viết rõ ràng và rành mạch về những vấn đề phi thường. Tôi tin rằng những tác phẩm của cô ấy sẽ đạt được những tầm vóc lớn hơn nữa, khi bạn xem xét đến những gì cô ấy đã làm để xác minh những nguồn tài liệu mà không có ghi chép lại gì về chúng cả. Không giống như những nhà thôi miên khác, những người khám phá ra những sự thật đáng kinh ngạc hoặc khối kiến thức trong suốt những buổi thôi miên, cô ấy không hề vội vàng in lại những phát hiện của mình. Cô ấy cũng không đưa ra những phán đoán quá sớm, về những khám phá của mình. Thay vào đó, cô ấy kiểm tra chéo tài liệu mà cô ấy đã tìm kiếm từ tiềm thức, trong sự nỗ lực lớn nhất có thể, nhằm chứng minh rằng những dữ kiện có thể xác minh được đã được thu thập từ những thân chủ của cô ấy. Cô ấy làm điều này bằng hai cách.

Khi một linh hồn nói chuyện từ một thời đại khác, chẳng hạn như nhân chứng của vụ thảm sát ở Hiroshima, Dolores đã nghiên cứu những sự việc thông qua các nguồn được công bố. Điều này đã cho cô ấy cái nhìn có giá trị trong việc đánh giá tài liệu của cô ấy. Nhưng với một nét xuất sắc, cô ấy đã còn tiến xa hơn nữa. Cô ấy đã bắt đầu khám phá cùng một khoảng thời gian và trải nghiệm (hoặc kiến thức) tiền kiếp với những thân chủ khác, không ai trong số họ biết về nhau, biết về tài liệu kia, và thậm chí còn không sống cùng thị trấn hay khu vực với thân chủ là nguồn chính.

Cần phải lưu ý rằng các thân chủ của cô ấy đến từ mọi tầng lớp trong cuộc sống. Một số có trình độ học vấn cao hơn những người khác, sinh viên đại học, cũng như những người lao động. Một số giàu có, và một số đang sống một cuộc sống nghèo khổ. Tôi chắc chắn rằng một ngày nào đó công chúng của cô ấy sẽ muốn biết thêm về những người ẩn danh này, và dĩ nhiên là họ phải tiếp tục được giữ ẩn danh như vậy. Tuy nhiên, Dolores đã ghi lại đầy đủ tất cả các buổi thôi miên của cô ấy, ghi chú, giữ gìn các bình luận riêng của cô ấy, và lưu trữ các băng ghi âm của cô.

Hơn thế nữa, Dolores đã đi sâu vào lịch sử, xem xét các bản đồ và truy xuất tài liệu mà dường như đã củng cố các cuộc đối thoại của những người đã sống cách đây nhiều năm và hiện giờ đang nói chuyện với chúng ta thông qua những đối tượng mà không biết chút gì về những thời đại đó, hay các dân tộc đã sống trong những thời cổ đại. Điều này đưa chúng ta đến với Nostradamus.

Theo những gì tôi biết, thì Dolores Cannon đã chưa bao giờ đọc một bài thơ bốn câu nào của Nostradamus, và hầu như đã không biết gì về người đàn ông hoặc những lời tiên tri của ông ta trước khi phát hiện ra ông ta, trong khi đang đưa một thân chủ quy hồi về tiền kiếp. Khi tài liệu bắt đầu xuất hiện thông qua các thân chủ của cô ấy, mặc dù sự cám dỗ là rất lớn, cô ấy cũng đã không thực hiện bất kỳ nghiên cứu nào về người đàn ông và những ghi chép của ông ấy, cho tới khi dự án được hoàn thành. Trong những quyển sách của cô ấy, có liên quan đến những lời tiên tri của nhân vật lịch sử hấp dẫn này, Dolores cẩn thận phát họa nên những vấn đề mà đã nảy sinh thông qua việc thôi miên hồi quy của các thân chủ của cô ấy, và những gì cô ấy đã học được thông qua những nghiên cứu bên ngoài của mình.

Nostradamus đã hấp dẫn các học giả và những người hiếu kỳ trong nhiều thế kỷ. Những bài thơ bốn câu của ông ấy, mặc dầu phức tạp, dường như mời gọi những cuộc nghiên cứu sâu hơn, bởi vì ông ấy tuyên bố mình là một người có thể nhìn thấy tương lai. Trong nhiều năm, những học giả đã cố gắng giải thích những bài thơ tiên tri tối nghĩa của ông ấy, được viết bằng tiếng Pháp cổ, Latin và các ngôn ngữ khác, những ám chỉ của ông ấy về các sự kiện đã xảy từ thời ông ấy và sẽ xảy ra trong tương lai, thậm chí còn vượt xa hơn cả thế kỷ thứ 20.

Một cách ngắn gọn thì người đàn ông mà chúng ta gọi là Nostradamus là một thầy thuốc và một nhà chiêm tinh. Ông là người Pháp, sinh ra ở Saint Remi, tỉnh Provence, năm 1503. Ông học ở cả Avignon và Montpellier, và đã trở thành một thầy thuốc giỏi. Tên thật của ông là Michel de Notredame, nhưng khi sự quan tâm của ông dành cho chiêm tinh học tăng lên, ông đã Latin hóa tên mình, để rồi sau đó, ông được biết với danh xưng Nostradamus.

Ông được biết đến rộng khắp nhờ vào tài chữa trị cho những nạn nhân bị bệnh dịch hạch, đặc biệt là ở miền nam nước Pháp. Ông đã làm việc không mệt mỏi ở Aix và Lyons năm 1545 khi dịch bệnh hoành hành ở các thành phố đó. Chính trong suốt thời gian chết chóc này, Nostradamus đã bắt đầu thu hút sự chú ý của người ta với tư cách là một nhà tiên tri, một người tuyên bố rằng mình có thể dự báo được tương lai. Mười năm sau, vào năm 1555, ông xuất bản một tập hợp những lời tiên tri của mình dưới dạng các bài thơ bốn câu có vần điệu. Ông ấy gọi cuốn sách là Những Thế Kỷ.

Tài năng của ông với tư cách là một nhà chiêm tinh được biết đến rộng rãi và được ưa chuộng trong giới thượng lưu. Không ai khác ngoài Catherine de Medici, Nữ hoàng Pháp, đã mời ông đến triều của bà. Ở đó, ông đã xem lá số tử vi cho những người con trai của bà. Khi Charles đệ IX lên ngôi vua, ông ấy đã bổ nhiệm Nostradamus làm thầy thuốc của triều đình. Người đàn ông được biết đến với cái tên Nostradamus đã qua đời vào năm 1566, khi ông 63 tuổi. Đáng chú ý là, ông đã sống lâu hơn nhiều người đồng hương của mình, và ông ấy đã đạt được sự bất tử thông qua việc xuất bản những bài thơ tiên tri của mình. Ông là một người đàn ông bí ẩn trong thời đại của mình và vẫn như vậy mãi cho đến ngày nay.

Tuy nhiên, Dolores Cannon đã làm sáng tỏ một cách đáng kể về người đàn ông và những lời tiên tri của ông ấy thông qua công việc của cô ấy và những cuốn sách hiện đang được xuất bản, chính là kết quả của công việc đó.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Dolores Cannon":Ba Làn Sóng Tình Nguyện Viên Và Trái Đất MớiCon Người Đa ChiềuVũ Trụ Đa ChiềuVũ Trụ Xoắn - Quyển 2Vũ Trụ Xoắn - Quyển 3Những Người Trông Nom Trái ĐấtNhững Người Giám HộTừ Sau Khi Chết Đến Tái SinhVũ Trụ Xoắn - Quyển 1Vũ Trụ Xoắn - Quyển 4Vũ Trụ Xoắn - Quyển 5Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1Họ Đã Dạo Bước Cùng Chúa JesusCuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 2Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 3Di Sản Từ Các Vì SaoMột Linh Hồn Nhớ Về HiroshimaNăm Cuộc Đời Được Ghi NhớTìm Kiếm Tri Thức Thiêng Liêng Còn Ẩn GiấuJesus Và Những Người Essense

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1 PDF của tác giả Dolores Cannon nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh (Samuel Huntington)
Chính trị thế giới đang bước vào một thời kỳ mới, và các học giả vội vã dội vào chúng ta những kiến giải về diện mạo tương lai của nó: sự cáo chung của lịch sử, sự phục hồi những cuộc cạnh tranh truyền thống giữa các nhà nước dân tộc, sự sa sút của nhà nước dân tộc trước sức ép của các khuynh hướng khác của chủ nghĩa phân lập bộ lạc, chủ nghĩa toàn cầu… Mỗi cách kiến giải này đều nắm bắt những khía cạnh riêng biệt của hiện thực đang hình thành. Nhưng tất cả chúng đều bó qua một khía cạnh cơ bản cốt yếu nhất của vấn đề. Tôi cho rằng nguồn gốc cơ bản của các xung đột trên thế giới này sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa. Các ranh giới quan trọng nhất chia rẽ loài người và nguồn gốc bao trùm của các xung đột sẽ là văn hóa. Nhà nước dân tộc vẫn là nhân vật chủ yếu trên sân khấu thế giới, nhưng các xung đột cơ bản nhất của chính trị toàn cầu sẽ diễn ra giữa các dân tộc và các nhóm người thuộc những nền văn minh khác nhau. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ trở thành nhân tố chi phối chính trị thế giới. Ranh giới giữa các nền văn minh sẽ là chiến tuyến tương lai. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ là giai đoạn diễn biến cuối cùng của các xung đột toàn cầu trên thế giới hiện đại. Trong một thế kỷ rưỡi sau sự ra đời của hệ thống quốc tế hiện đại với Hòa ước giữa các ông vua: các hoàng đế, quốc vương, các nhà quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến, những người ra sức mở rộng bộ máy quan liêu; tăng cường quân đội, củng cố sức mạnh kinh tế của mình, mà Cái chính là liên kết các vùng đất mới vào lãnh thổ của mình. Quá trình này đẻ ra các nhà nước dân tộc, và bắt đầu từ cuộc Ðại Cách mạng Pháp, các tuyến xung đột cơ bản kéo ra không hẳn là giữa những người cầm quyền, mà đúng hơn là giữa các dân tộc. Như R.R. Palmer đã nói năm 1793: „Những cuộc chiến tranh giữa các ông vua đã chấm dứt, và những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc đã bắt đầu.“ Cái mô hình này kéo dài suốt thế kỷ Tìm mua: Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh TiKi Lazada Shopee 19 cho tới tận Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Rồi do kết quả của cuộc cách mạng Nga và phản ứng chống lại nó, xung đột giữa các dân tộc nhường chỗ cho xung đột giữa các hệ tư tưởng. Các bên xung đột lúc đầu là chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc xã và chế độ dân chủ tự do, rồi sau đó là chủ nghĩa cộng sản và chế độ dân chủ tự do. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, xung đột này thể hiện qua cuộc đọ sức giữa hai siêu cường, mà cả hai đều không phải là nhà nước dân tộc theo nghĩa cổ điển của Châu Âu. Mỗi siêu cường đều tự xác định mình bằng các phạm trù hệ tư tưởng. Xung đột giữa các ông hoàng, các nhà nước dân tộc và các hệ tư tưởng chủ yếu là xung đột trong nền văn minh phương Tây. William Lind gọi đó là „những cuộc nội chiến Phương Tây“. Ðây là bản chất của Chiến tranh lạnh cũng như của các cuộc chiến tranh thế giới và các cuộc chiến tranh hồi thế kỷ 17, 18 và 19. Với sự kết thúc Chiến tranh lạnh, giai đoạn Phương Tây của sự phát triển của chính trị quốc tế cũng kết thúc. Trọng tâm xung đột chuyển thành tác động qua lại giữa Phương Tây và các nền văn minh phi Phương Tây. Trong giai đoạn mới này, các dân tộc và các chính phủ của các nền văn minh Phi Phương Tây không còn đóng vai trò như là các đối tượng của lịch sử mục tiêu của chính sách thực dân Phương Tây nữa, mà cùng với Phương Tây, chúng bắt dầu khởi động và sáng tạo ra lịch sửĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh PDF của tác giả Samuel Huntington nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh (Samuel Huntington)
Chính trị thế giới đang bước vào một thời kỳ mới, và các học giả vội vã dội vào chúng ta những kiến giải về diện mạo tương lai của nó: sự cáo chung của lịch sử, sự phục hồi những cuộc cạnh tranh truyền thống giữa các nhà nước dân tộc, sự sa sút của nhà nước dân tộc trước sức ép của các khuynh hướng khác của chủ nghĩa phân lập bộ lạc, chủ nghĩa toàn cầu… Mỗi cách kiến giải này đều nắm bắt những khía cạnh riêng biệt của hiện thực đang hình thành. Nhưng tất cả chúng đều bó qua một khía cạnh cơ bản cốt yếu nhất của vấn đề. Tôi cho rằng nguồn gốc cơ bản của các xung đột trên thế giới này sẽ không còn là hệ tư tưởng hay kinh tế nữa. Các ranh giới quan trọng nhất chia rẽ loài người và nguồn gốc bao trùm của các xung đột sẽ là văn hóa. Nhà nước dân tộc vẫn là nhân vật chủ yếu trên sân khấu thế giới, nhưng các xung đột cơ bản nhất của chính trị toàn cầu sẽ diễn ra giữa các dân tộc và các nhóm người thuộc những nền văn minh khác nhau. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ trở thành nhân tố chi phối chính trị thế giới. Ranh giới giữa các nền văn minh sẽ là chiến tuyến tương lai. Sự đụng độ giữa các nền văn minh sẽ là giai đoạn diễn biến cuối cùng của các xung đột toàn cầu trên thế giới hiện đại. Trong một thế kỷ rưỡi sau sự ra đời của hệ thống quốc tế hiện đại với Hòa ước giữa các ông vua: các hoàng đế, quốc vương, các nhà quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến, những người ra sức mở rộng bộ máy quan liêu; tăng cường quân đội, củng cố sức mạnh kinh tế của mình, mà Cái chính là liên kết các vùng đất mới vào lãnh thổ của mình. Quá trình này đẻ ra các nhà nước dân tộc, và bắt đầu từ cuộc Ðại Cách mạng Pháp, các tuyến xung đột cơ bản kéo ra không hẳn là giữa những người cầm quyền, mà đúng hơn là giữa các dân tộc. Như R.R. Palmer đã nói năm 1793: „Những cuộc chiến tranh giữa các ông vua đã chấm dứt, và những cuộc chiến tranh giữa các dân tộc đã bắt đầu.“ Cái mô hình này kéo dài suốt thế kỷ Tìm mua: Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh TiKi Lazada Shopee 19 cho tới tận Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Rồi do kết quả của cuộc cách mạng Nga và phản ứng chống lại nó, xung đột giữa các dân tộc nhường chỗ cho xung đột giữa các hệ tư tưởng. Các bên xung đột lúc đầu là chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc xã và chế độ dân chủ tự do, rồi sau đó là chủ nghĩa cộng sản và chế độ dân chủ tự do. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, xung đột này thể hiện qua cuộc đọ sức giữa hai siêu cường, mà cả hai đều không phải là nhà nước dân tộc theo nghĩa cổ điển của Châu Âu. Mỗi siêu cường đều tự xác định mình bằng các phạm trù hệ tư tưởng. Xung đột giữa các ông hoàng, các nhà nước dân tộc và các hệ tư tưởng chủ yếu là xung đột trong nền văn minh phương Tây. William Lind gọi đó là „những cuộc nội chiến Phương Tây“. Ðây là bản chất của Chiến tranh lạnh cũng như của các cuộc chiến tranh thế giới và các cuộc chiến tranh hồi thế kỷ 17, 18 và 19. Với sự kết thúc Chiến tranh lạnh, giai đoạn Phương Tây của sự phát triển của chính trị quốc tế cũng kết thúc. Trọng tâm xung đột chuyển thành tác động qua lại giữa Phương Tây và các nền văn minh phi Phương Tây. Trong giai đoạn mới này, các dân tộc và các chính phủ của các nền văn minh Phi Phương Tây không còn đóng vai trò như là các đối tượng của lịch sử mục tiêu của chính sách thực dân Phương Tây nữa, mà cùng với Phương Tây, chúng bắt dầu khởi động và sáng tạo ra lịch sửĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Sự Đụng Độ Giữa Các Nền Văn Minh PDF của tác giả Samuel Huntington nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đức Phật Đã Dạy Những Gì (Walpola Rahula)
Mục lục BẢNG VIẾT TẮT (các kinh Pàli được trích dẫn) ÐỨC PHẬT Chương Một: THÁI ÐỘ TINH THẦN PHẬT GIÁO Chương Hai: TỨ DIỆU ÐẾ Chân lý thứ nhất: DUKKHA (Khổ) Tìm mua: Đức Phật Đã Dạy Những Gì TiKi Lazada Shopee Chương Ba: DIỆU ÐẾ THỨ HAI: TẬP (Samudaya): Nguyên nhân của khổ Chương Bốn: DIỆU ÐẾ THỨ BA: DIỆT (Nirodha) Sự chấm dứt khổ Chương Năm: DIỆU ÐẾ THỨ TƯ: ÐẠO (Magga): Con Ðường Chương Sáu: VÔ NGÃ (ANATTA) Chương Bảy: QUÁN TƯỞNG Sự đào luyện tâm ý: Bhàvanà Chương Tám: PHẬT GIÁO VÀ THẾ GIỚI NGÀY NAY Phụ lục: KINH NIỆM XỨ Satipatthànasutta Lời giới thiệu Ðại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Ðại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Ðại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Ðại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Ðại đức qua Ðại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Ðại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Ðại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Ðại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản. Nói một cách khác, không có Đại thừa hay Tiểu thừa, không có Nam tông hay Bắc tông. Sở dĩ có phân chia tông phái là vì sự diễn biến của lịch sử và sự truyền bá của đạo Phật qua nhiều truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, quốc độ khác nhau và tông phái nào cũng chấp thuận một số giáo lý căn bản chung cho tất cả truyền thống. Quyển sách này là một sự cố gắng của tác giả để giới thiệu những giáo lý căn bản ấy và những ai muốn tìm hiểu đạo Phật cũng cần phải hiểu biết ít nhất số giáo lý căn bản ấy. Riêng đối với Phật tử Việt Nam một số lớn được học ngay vào kinh điển Ðại thừa, lại cần phải hiểu giáo lý căn bản này để soi sáng lại sự hiểu biết của mình và để tìm lại sự liên tục của quá trình phát triển tư tưởng Phật giáo. Riêng đối với sinh viên Ðại học Vạn Hạnh, tài liệu của tập sách này cần được xem là tài liệu căn bản và tối thiểu để xây dựng nền tảng Phật học của mình. Quyển sách này viết cho giới trí thức Âu Mỹ, một giới trí thức có một bối cảnh khoa học và văn minh Cơ đốc giáo, nên các vấn đề thảo luận, phương pháp trình bày rất thiết thực, linh động, sát với thực tế và liên hệ ngay đến đời sống và những thắc mắc hiện đại. Giá trị quyển này phần lớn nhờ ở điểm này. Tác giả dẫn chứng rất nhiều lời dạy trong kinh điển PÀli để chứng minh cho sự trình bày của mình, một thái độ và một phương pháp khoa học đáng được hoan nghênh và bắt chước. Thường chúng ta trình bày đạo Phật ngang qua sự hiểu biết của chúng ta, và điều nguy hại hơn ngang qua cảm tình và sở thích của chúng ta, và vì vậy nhiều khi tư tưởng và thái độ của đức Phật bị bóp méo, rạn nứt rất nhiều. Ðể bớt tệ hại này, phương pháp hữu hiệu nhất là dẫn chứng trong kinh điển những lời dạy của chính đức Phật để xác chứng quan điểm của mình trong khi trình bày, một thái độ mà tác giả tập sách này đã theo rất trung thành. Dịch giả quyển sách này là cô Trí Hải, một tên quá quen thuộc với giới học giả với tài dịch thuật và sự hiểu biết giáo lý căn bản của cô để cần phải giới thiệu dài dòng về cô. Tên của cô cũng đủ bảo đảm cho giá trị dịch thuật của tập sách này rồi. Saigon, ngày 9-1-1966 Tỳ-kheo Thích Minh Châu Viện trưởng Viện Ðại Học Vạn HạnhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đức Phật Đã Dạy Những Gì PDF của tác giả Walpola Rahula nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đức Phật Đã Dạy Những Gì (Walpola Rahula)
Mục lục BẢNG VIẾT TẮT (các kinh Pàli được trích dẫn) ÐỨC PHẬT Chương Một: THÁI ÐỘ TINH THẦN PHẬT GIÁO Chương Hai: TỨ DIỆU ÐẾ Chân lý thứ nhất: DUKKHA (Khổ) Tìm mua: Đức Phật Đã Dạy Những Gì TiKi Lazada Shopee Chương Ba: DIỆU ÐẾ THỨ HAI: TẬP (Samudaya): Nguyên nhân của khổ Chương Bốn: DIỆU ÐẾ THỨ BA: DIỆT (Nirodha) Sự chấm dứt khổ Chương Năm: DIỆU ÐẾ THỨ TƯ: ÐẠO (Magga): Con Ðường Chương Sáu: VÔ NGÃ (ANATTA) Chương Bảy: QUÁN TƯỞNG Sự đào luyện tâm ý: Bhàvanà Chương Tám: PHẬT GIÁO VÀ THẾ GIỚI NGÀY NAY Phụ lục: KINH NIỆM XỨ Satipatthànasutta Lời giới thiệu Ðại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Ðại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Ðại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Ðại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Ðại đức qua Ðại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Ðại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Ðại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Ðại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản. Nói một cách khác, không có Đại thừa hay Tiểu thừa, không có Nam tông hay Bắc tông. Sở dĩ có phân chia tông phái là vì sự diễn biến của lịch sử và sự truyền bá của đạo Phật qua nhiều truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, quốc độ khác nhau và tông phái nào cũng chấp thuận một số giáo lý căn bản chung cho tất cả truyền thống. Quyển sách này là một sự cố gắng của tác giả để giới thiệu những giáo lý căn bản ấy và những ai muốn tìm hiểu đạo Phật cũng cần phải hiểu biết ít nhất số giáo lý căn bản ấy. Riêng đối với Phật tử Việt Nam một số lớn được học ngay vào kinh điển Ðại thừa, lại cần phải hiểu giáo lý căn bản này để soi sáng lại sự hiểu biết của mình và để tìm lại sự liên tục của quá trình phát triển tư tưởng Phật giáo. Riêng đối với sinh viên Ðại học Vạn Hạnh, tài liệu của tập sách này cần được xem là tài liệu căn bản và tối thiểu để xây dựng nền tảng Phật học của mình. Quyển sách này viết cho giới trí thức Âu Mỹ, một giới trí thức có một bối cảnh khoa học và văn minh Cơ đốc giáo, nên các vấn đề thảo luận, phương pháp trình bày rất thiết thực, linh động, sát với thực tế và liên hệ ngay đến đời sống và những thắc mắc hiện đại. Giá trị quyển này phần lớn nhờ ở điểm này. Tác giả dẫn chứng rất nhiều lời dạy trong kinh điển PÀli để chứng minh cho sự trình bày của mình, một thái độ và một phương pháp khoa học đáng được hoan nghênh và bắt chước. Thường chúng ta trình bày đạo Phật ngang qua sự hiểu biết của chúng ta, và điều nguy hại hơn ngang qua cảm tình và sở thích của chúng ta, và vì vậy nhiều khi tư tưởng và thái độ của đức Phật bị bóp méo, rạn nứt rất nhiều. Ðể bớt tệ hại này, phương pháp hữu hiệu nhất là dẫn chứng trong kinh điển những lời dạy của chính đức Phật để xác chứng quan điểm của mình trong khi trình bày, một thái độ mà tác giả tập sách này đã theo rất trung thành. Dịch giả quyển sách này là cô Trí Hải, một tên quá quen thuộc với giới học giả với tài dịch thuật và sự hiểu biết giáo lý căn bản của cô để cần phải giới thiệu dài dòng về cô. Tên của cô cũng đủ bảo đảm cho giá trị dịch thuật của tập sách này rồi. Saigon, ngày 9-1-1966 Tỳ-kheo Thích Minh Châu Viện trưởng Viện Ðại Học Vạn HạnhĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đức Phật Đã Dạy Những Gì PDF của tác giả Walpola Rahula nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.