Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bão

Trong Bão, có một hòn đảo, biển và gió, cơ thể những người đàn bà, một đứa trẻ cô đơn không bố, một người đàn ông bị quá khứ gặm nhấm và cơn bão rửa sạch tất cả. Trong Bão, còn có cả Phi châu, Paris và một đứa trẻ lạc lối khác đi tìm danh tính của mình. Hai câu chuyện đầy chất thơ ấy được thổi đến bằng cơn bão của thế giới của tâm hồn. Trong Bão, những số phận kì lạ gặp đầy trắc trở của Le Clezio vẫn tìm thấy phép màu, tim thấy điều níu giữ họ lại với cuộc sống, bởi "kí ức không quan trọng,không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Trong Bão, độc giả vẫn tìm thấy chất thơ lãng mạn từ những câu văn giản dị nhưng đầy sức nặng của tác giả từng được nhận giải Nobel Văn chương 2008. Cuốn sách kể chuyện bằng cách đưa ra các hình ảnh, những gợi mở, niềm hy vọng ở phép màu và những điều hão huyển, và phải nhìn nó qua một tấm màn thi vị hóa. Từ đầu tới cuối, tính nhạc trong từng câu chữ giữ chân người đọc. *** Bão là tập truyện mới nhất của Le Clézio - nhà văn đoạt giải Nobel năm 2008. Tác phẩm được xuất bản tại Pháp năm 2014, vừa phát hành ở Việt Nam. Có thể ví hai truyện vừa Bão và Người đàn bà không danh tính trong cuốn sách như một file nén. Với dung lượng trang sách, số con chữ không lớn nhưng nén trong đó những câu chuyện đầy sức nặng và nhiều tầng cảm xúc, triết lý. Và bởi thế, mỗi độc giả có "mã giải nén" của riêng mình. Là hai câu chuyện độc lập song bằng những chủ đề chung, tác giả đã tạo cho nó một mạch ngầm kết nối: từ cô gái June sống ở một hòn đảo hẻo lánh của Nhật Bản đến Rachel của một vùng đất thuộc địa cũ của châu Phi, từ vùng trời nước hoang sơ đến những thành thị ngột ngạt, và từ một bé gái không cha đến một thiếu nữ không mẹ đi tìm nguồn cội của mình.  Câu chuyện của Bão đưa người đọc đến những vùng đất xa xôi, những xã hội như nằm bên kia nền văn minh, nơi con người đắm mình vào thiên nhiên hoang dã, sống trong nó và chết trong nó. Ở đó, những con người còn rất trẻ đang bước qua lằn ranh mỏng manh giữa ấu thơ và trưởng thành, tâm hồn còn trong sáng vô ngần, nhạy cảm vô ngần, hồ như căng mình ra trước mọi sóng gió cuộc đời, không có khả năng tự bảo vệ khỏi những nỗi đau. Thậm chí họ dấn mình vào nỗi đau: đi tìm nguồn cội, đi tìm danh tính. Trên hết, những cô gái luôn vươn mình tới một thứ tình yêu nguyên sơ, thánh thiện, bất chấp sự già cỗi của những thứ ranh giới, khoảng cách thường tình. Đó là thứ tình yêu từ cội nguồn sự sống có trong mỗi con người mà cô bé June cảm nhận được. Tình yêu ấy đôi khi làm thương tổn chính các cô gái. Bởi nó mạnh mẽ như bão, hủy diệt như bão, và cũng tái sinh sau bão. Hai cô gái trẻ của Bão mang trong mình một tâm hồn có thể bật lên, tự tái tạo, tự giải thoát mình khỏi nỗi đau và nỗi tuyệt vọng. Cũng nhờ sức sống tươi mới tiềm tàng ấy, Kyo - người đàn ông toan đến hòn đảo hoang vắng để kết thúc cuộc đời - được giải thoát khỏi "nhà tù" của quá khứ, khỏi sự ám ảnh của ký ức và những vết thương. Bão đã rửa sạch tất cả - "ký ức không quan trọng, không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Bão tiếp tục những chủ đề ưa thích của Le Clézio: những thế giới, vùng đất, con người bị bỏ quên, dường như sống bên lề thế giới và nền văn minh. Ông luôn dành một sự ưu ái, trìu mến cho người trẻ và phụ nữ. Có thể thấy trong câu chuyện của ông, họ là những đối tượng dễ dàng bị thế giới nuốt chửng hay làm tổn thương. Nhưng đó cũng chính là những tâm hồn tiềm tàng khả năng tái sinh mạnh mẽ, khơi dậy niềm thiết tha sống ở những con người khác. Bên cạnh đó, chủ đề đi tìm danh tính dường như chưa bao giờ là câu chuyện cũ trong sáng tác của Clézio, nhất là khi con người đang ngày càng đánh mất mình giữa sắt thép, bê tông, phương tiện hiện đại và những thành phố xa hoa, đồ sộ. Những câu chuyện không có những tình huống gay cấn, tình tiết hấp dẫn hay chi tiết mùi mẫn của Clézio dường như thách thức sự kiên nhẫn của độc giả. Thay vào đó, ông theo sát và xoáy sâu vào những biến động tâm lý bất ngờ của nhân vật: June (Bão) đã mạnh mẽ và quyết liệt ra sao trong niềm tin của riêng mình; Rachel (Người đàn bà không danh tính) đã để mình trôi dạt, lạc lối thế nào trong nỗi cô đơn của mình, trong những ngóc ngách thành phố. Mỗi câu chuyện đều mang đến một niềm xúc động sâu xa bằng lối văn phong giản dị, trong trẻo mà đa thanh. Những câu ngắn đầy chất thơ, chất nhạc. Và những mệnh đề, câu chữ, hình ảnh trở đi trở lại như một giai điệu ám ảnh. Song, giống như hành trình tự nhiên của một cơn bão, cấu tứ câu chuyện của Clézio nương theo đó đi về phía chân trời hừng sáng sau cơn biến động của đất trời. Ở phía đó, có sự đổi thay, sự tái sinh và có niềm tin không bao giờ lụi tắt. Đó cũng là chất thơ lãng mạn chảy len lách giữa khoảng trắng của những con chữ - là chất thơ của thiên nhiên vĩnh hằng và của từng khoảnh khắc sống. Clézio được ví như một "nhà văn đi bộ" với lối bút pháp "lãng du". Mỗi câu chuyện ông kể giống như cất lên một bản du ca u buồn, sâu lắng nhưng đẹp đẽ dành cho những nơi ông từng đi qua, những con người từng gặp gỡ. Đó còn là những lời an ủi dịu dàng, thiết tha dành cho bao tâm hồn cô độc và lạc lõng. *** Đêm buông trên đảo. Đêm lấp đầy những chỗ trũng, len lỏi giữa ruộng đồng, một đợt thủy triều bóng tối dần bao phủ vạn vật. Cũng vào thời khắc đó, đảo vắng bóng người. Sáng nào du khách cũng tới trên chuyến phà lúc tám giờ, họ làm đông đúc những không gian trống, họ lấp đầy những bãi biển, họ trôi như một thứ nước bẩn dọc theo cả những con lộ lớn lẫn những nẻo đường đất. Rồi khi đêm tới, họ lại rời khỏi những vũng vịnh, họ lùi ra xa, họ mất tăm. Những con tàu mang họ đi. Và đêm tới. Tôi tới đảo lần đầu cách đây đã ba mươi năm. Thời gian đã biến đổi mọi thứ. Tôi chỉ loáng thoáng nhận ra những nơi chốn, những ngọn đồi, những bãi biển, và dáng hình của miệng núi lửa sạt lở phía Đông. Tôi quay lại vì lẽ gì nhỉ? Phải chăng không còn nơi nào khác cho một nhà văn đang kiếm tìm lối viết? Một chốn nương náu khác, xa sự ồn ào của thế gian, đỡ om sòm hơn, đỡ ngạo ngược hơn, một chốn khác để ngồi vào bàn làm việc và gõ lên máy những dòng chữ, đối diện với bức tường chăng? Tôi đã muốn thăm lại hòn đảo này, nơi tận cùng thế giới này, nơi không lịch sử, không ký ức này, một mỏm đá bị dập vùi bởi sóng gió đại dương, rã rời vì du khách. Ba mươi năm, tuổi đời của một con bò. Tôi từng đến vì gió, vì biển, vì lũ ngựa bán hoang dã lang thang kéo theo dây buộc, vì lũ bò cái ban đêm giữa những nẻo đường, tiếng rống thê thiết của chúng nghe như tiếng tù và báo sương mù, vì những tiếng sủa ăng ẳng của lũ chó bị xích. Cách đây ba mươi năm trên đảo không có khách sạn, chỉ có các phòng ngủ cho thuê theo tuần gần đê chắn sóng, và những lán gỗ bán đồ ăn bên bờ biển. Chúng tôi đã thuê một ngôi nhà gỗ nhỏ trên đồi, không tiện nghi, ẩm ướt và lạnh giá, nhưng vậy là lý tưởng rồi. Mary Song hơn tôi một giáp, mái tóc tuyệt đẹp đen nhánh gần như ngả biếc, đôi mắt màu lá thu, nàng hát những tình khúc buồn trong một khách sạn dành cho du khách giàu có tại Bangkok. Cớ gì nàng lại muốn cùng tôi tới hòn đảo hoang vu này? Tôi chắc đây không phải ý tưởng của mình, chính nàng đã bàn đến chuyện này trước. Hoặc nàng đã nghe ai đó nhắc đến một đảo đá hoang sơ, mỗi khi có bão là hết đường tới. “Em cần tĩnh lặng.” Hoặc giả đó là ý của tôi, chính tôi đã nghĩ tới sự tĩnh lặng. Để viết, để lại bắt đầu viết sau nhiều năm uổng phí. Sự tĩnh lặng, khoảng cách. Sự tĩnh lặng, trong gió và biển. Những đêm lạnh, những đám sao. Giờ thì toàn bộ chuyện này chỉ còn là một kỷ niệm. Ký ức không quan trọng, không hậu quả. Duy có hiện tại là đáng kể. Tôi đã học được điều ấy qua những kinh nghiệm xương máu của mình. Gió là bạn tôi. Gió thổi không ngừng trên các mỏm đá, gió đến từ chân trời phía Đông rồi vấp phải bức vách gãy vỡ của núi lửa, ập xuống những ngọn đồi rồi luồn lách giữa những bức tường nham thạch thấp, lướt trên cát san hô và vỏ sò vỏ ốc vỡ. Ban đêm, trong phòng khách sạn nơi tôi ở (Happy Day*, làm cách nào cái tên này tới được tận đây, một cái tên không trọn vẹn trên chiếc thùng gỗ mắc cạn), gió lùa qua khe cửa sổ và cửa ra vào, xuyên qua căn phòng trống nơi chiếc giường sắt han gỉ cũng y hệt một mảnh tàu đắm. Không có lý do nào khác cho chuyến biệt xứ của tôi, cho nỗi cô đơn của tôi, duy có sắc xám của trời và biển, và tiếng gọi ám ảnh của những người đàn bà mò bào ngư, tiếng kêu của họ, tiếng huýt của họ, một dạng ngôn ngữ cổ, xa lạ, ngôn ngữ của những động vật biển đã từng lui tới thế giới rất lâu trước con người... Aouah, iya, ahi, ahi!... Những thiếu nữ làng chài đã ở đó khi Mary dẫn tôi đi thăm đảo. Bấy giờ mọi chuyện khác hẳn. Những thiếu nữ mò ốc tuổi chừng đôi mươi, họ lặn không trang phục, thắt lưng buộc đá, đeo những mặt nạ dưỡng khí lấy từ xác lính Nhật. Các cô không có bao tay cũng chẳng có giày. Giờ đây họ đã già đi, họ mặc bộ đồ lặn liền thân bằng cao su đen, họ đeo bao tay dệt bằng sợi hóa học, đi giày nhựa màu sắc sặc sỡ. Kết thúc ngày làm việc, họ bước đi dọc con đường ven biển, đẩy xe nôi chở những thứ thu hoạch được. Đôi khi họ có xe máy điện, xe ba bánh chạy xăng. Họ có dao inox giắt ở thắt lưng. Họ cởi bộ đồ lặn giữa những mỏm đá, gần một túp lều gạch nén xây riêng cho họ, họ giội rửa ở vòi nước lộ thiên rồi trở về nhà bước thấp bước cao, tiều tụy vì chứng thấp khớp. Gió đã cuốn theo những năm tháng của họ, những năm tháng của tôi cũng vậy. Bầu trời xám xịt, màu của hối hận. Biển động, nổi sóng lừng, biển xô vào đá ngầm, vào những chỏm nham thạch, biển quay cuồng và vỗ bập bềnh trong những vũng lớn, nơi lối vào những vịnh hẹp. Không có những phụ nữ ngày ngày mò hải sản này, biển có lẽ sẽ thù địch, khó gần. Mỗi sáng tôi lắng nghe tiếng kêu của những người đàn bà của biển, âm thanh rè rè từ hơi thở của họ khi họ ngoi đầu khỏi mặt nước, ahouiii, iya,tôi hình dung khoảng thời gian đã qua, tôi hình dung ra Mary, đã mất tích, tôi nghĩ đến giọng hát tình ca của nàng, đến tuổi thanh xuân của nàng, đến thời trai trẻ của tôi. Chiến tranh đã xóa đi tất cả, chiến tranh đã phá tan tất cả. Thời đó tôi thấy chiến tranh đẹp, tôi muốn viết về nó, trải nghiệm nó và rồi viết về nó. Chiến tranh là một cô gái đẹp với thân hình trong mộng, mái tóc dài đen nhánh, đôi mắt sáng, giọng nói mê hoặc, rồi nàng biến thành mụ già tóc tai bù xù và nanh nọc, thành ác phụ báo oán, bất nhân, tàn nhẫn. Đây là những hình ảnh trở lại trong tâm trí tôi, chúng dâng lên từ nơi sâu thẳm nhất. Những thân thể trật trẹo, những cái đầu bị cắt rời, rải khắp các đường phố bẩn thỉu, những vũng xăng, những vũng máu. Một vị hắc trong miệng, một thứ mồ hôi nặng mùi. Trong một căn nhà không cửa sổ, chỉ có một bóng đèn điện không chao duy nhất, bốn gã đàn ông giữ chặt một người đàn bà. Hai gã ngồi lên chân cô, một gã đã trói hai cổ tay cô bằng một dây đai, gã thứ tư mải miết với một vụ cưỡng hiếp bất tận. Không có tiếng động, như trong những cơn mơ. Ngoại trừ tiếng thở khàn khàn, tiếng thở của kẻ cưỡng hiếp, và một hơi thở khác, nhanh, dữ dội, của người phụ nữ, nghẹt lại vì sợ, có lẽ thoạt đầu cô đã kêu bởi dấu vết một cú đánh vẫn còn lưu trên môi dưới của cô, nó đã rách toạc, và máu chảy tạo thành một vết loang hình sao trên cằm. Hơi thở của kẻ cưỡng hiếp dần gấp gáp, một dạng thở khò khè sâu, nghẹt lại, một âm thanh trầm và giật cục của máy móc, một âm thanh gấp gáp và dường như sẽ không bao giờ ngưng. Mary là lâu sau đó, Mary uống rượu nhiều quá mức, và biển đã mang nàng đi. “Em có thể làm điều đó,” nàng đã nói khi chúng tôi băng qua eo biển ngăn cách đảo với đất liền. Nàng đi vào lòng biển lúc hoàng hôn. Thủy triều đã làm láng mượt những con sóng, những vòng tròn chậm rãi tiến lên, màu rượu vang. Những người đã nhìn thấy nàng đi vào lòng biển đều nói rằng nàng điềm tĩnh, rằng nàng mỉm cười. Nàng đã mặc đồ bơi, một bộ liền màu lam không tay, rồi nàng luồn lách giữa những mỏm đá đen, nàng bắt đầu bơi cho đến khi những con sóng, hoặc ánh mặt trời lặn che khuất nàng khỏi tầm mắt những người chứng kiến. Tôi đã không biết gì, không thấy gì, không dự đoán gì. Trong phòng ngủ ở căn lều của chúng tôi, quần áo của nàng được gấp và xếp sắp như thể nàng đi du lịch, thế thôi. Những chai rượu gạo rỗng không, những bao thuốc lá bóc dở. Một túi xách đựng vài vật dụng thân thuộc, lược và bàn chải tóc, nhíp, gương, phấn, son môi, khăn mùi soa, chìa khóa, ít tiền Mỹ và tiền Nhật, mọi thứ như thể hai tiếng nữa nàng sẽ quay lại. Viên cảnh sát duy nhất trên đảo này - một người đàn ông trẻ tuổi, tóc húi cua, trông như một thiếu niên - đã kiểm kê. Nhưng anh ta đã để lại cho tôi mọi thứ, như thể tôi là một người họ hàng, một người bạn. Tôi là người được yêu cầu tùy tâm xử lý những di vật, nếu họ tìm thấy, hỏa thiêu chúng, quăng chúng xuống biển. Nhưng không bao giờ có gì khác ngoài những đồ dùng không quan trọng kia. Bà chủ nhà trọ đã chọn trong đám quần áo, bà ta giữ lại đôi giày màu lam xinh xắn, chiếc mũ rơm, đôi tất dài, cặp kính râm, chiếc túi xách. Tôi đã mang các giấy tờ ra sân đốt. Những chiếc chìa khóa, những đồ vật riêng tư, tôi đã quăng chúng xuống biển, từ boong con tàu đưa tôi trở lại đất liền. Một ánh vàng rực lấp lánh giữa hai làn nước, tôi nghĩ một chú cá phàm ăn, một chú cá tráp hồng, một chú cá đối đã nuốt chửng chúng. Thi thể chưa bao giờ được tìm thấy. Mary, với làn da mềm mại, óng vàng sắc hổ phách, đôi chân chắc lẳn của vũ nữ, của vận động viên bơi lội, mái tóc đen dài. “Nhưng vì lý do gì?” viên cảnh sát đã hỏi. Đó là tất cả những gì anh ta đã nói. Như thể một ngày nào đó tôi có thể có câu trả lời. Như thể tôi có chìa khóa giải mã ẩn ngữ. Giờ đây khi bão nổi, khi gió thổi liên hồi từ chân trời phía Đông, Mary trở lại. Không phải tôi gặp ảo giác, cũng không phải chớm điên (nhưng tay bác sĩ của nhà tù, khi thảo báo cáo, hắn đã viết lên đầu hồ sơ của tôi chữ Y nguy hại), ngược lại là khác, mọi giác quan của tôi thành sắc bén, cảnh giác, nhạy cảm đến cực độ để thu nhận thứ mà biển và gió mang lại. Chẳng có gì rõ rệt, tuy nhiên đó là một cảm giác sống chứ không phải chết, nó tỏa vầng hào quang quanh da tôi, điều này đánh thức ký ức về những trò yêu đương của chúng tôi, của Mary và tôi, những mơn trớn dài từ dưới lên trên, trong bóng tối phòng ngủ, hơi thở, vị đôi môi, những nụ hôn sâu khiến tôi rùng mình, cho đến tận con sóng tình chậm rãi, cơ thể hai chúng tôi hòa quyện, bụng áp bụng, toàn bộ những chuyện này tôi đã bị cấm đoán từ lâu, là tôi tự cấm đoán, bởi tôi đang ở chốn ngục tù cho phần đời còn lại. Trong bão tôi nghe thấy giọng nàng, tôi cảm thấy trái tim nàng, tôi cảm thấy hơi thở nàng. Gió rít qua các khe của vách kính lớn, lùa vào qua phía mặt hẹp han gỉ, xuyên qua căn phòng và khiến cánh cửa đập đập. Bấy giờ trên đảo mọi thứ ngưng lại. Những con phà không băng qua lạch nữa, những chiếc xe máy và ô tô ngừng vũ điệu của chúng, ngày giống như đêm, âm u, có những tia chớp không kèm tiếng sấm xuyên qua. Mary đã ra đi vào một buổi chiều tĩnh mịch, trong mặt biển phẳng lặng như một tấm gương. Nàng trở về trong cơn bão, từng mảnh nhỏ li ti bị biển thẳm tống xuất. Ban đầu, tôi không muốn tin vào điều đó. Tôi từng ghê sợ, từng ép chặt thái dương giữa hai bàn tay để dập tắt những hình ảnh này. Giờ đây tôi nhớ đến một người chết đuối. Không phải một phụ nữ mà là một đứa trẻ lên bảy, một tối nọ thằng bé mất tích, Mary và tôi đã cùng dân làng tìm bé nhiều giờ trong đêm. Chúng tôi men dọc bờ biển, tay cầm đèn pin, chúng tôi gọi bé nhưng không biết tên nó, Mary hét gọi: “Này cưng ơi!” Nàng thảng thốt, nước mắt giàn giụa trên má. Bấy giờ có chính cơn gió này, những đợt sóng này, thứ mùi đáng nguyền rủa này của vực biển sâu thẳm. Rạng sáng có tin báo đã tìm thấy xác thằng bé. Trên một bãi cát lẫn sỏi giữa các mỏm đá, chúng tôi lại gần, nhờ một tiếng thở than giống như tiếng gió dẫn đường, nhưng đó là mẹ thằng bé. Chị ngồi trên cát đen, thằng bé đặt trong lòng. Thằng bé trần truồng, áo quần biển đã lột sạch, trừ chiếc áo phông bẩn tạo thành một chuỗi vòng xoắn vặn quanh thân trên. Gương mặt bé trắng bệch, nhưng điều tôi tức khắc nhìn thấy, đó là lũ cua và cá đã bắt đầu rỉa xác bé, gặm chớp mũi và cu của bé. Mary không muốn lại gần, nàng run lên vì sợ và vì lạnh, và tôi đã ôm nàng sát gần mình, chúng tôi ở lại trong phòng, nằm quấn lấy nhau trên giường, không vuốt ve nhau, chỉ miệng kề miệng thở. Giờ đây hình ảnh ấy ám ảnh tôi, thân thể người đàn bà ấy nằm dang chữ thập trong khi tụi lính hành sự, và dưới khuôn miệng bầm giập máu đã khô thành hình ngôi sao đen. Và đôi mắt cô đang nhìn tôi, trong khi tôi lùi lại gần cửa, đôi mắt cô nhìn thấy xuyên qua tôi, nhìn thấy cái chết. Tôi chưa bao giờ nói gì với Mary, vậy mà chính vì cảnh tượng tàn bạo ấy nàng đã ngụp xuống biển để không bao giờ trở lại. Biển rửa cái chết, biển gặm nhấm, phá hủy và không trả lại gì, hoặc trả một cái xác trẻ em đã bị róc rỉa. Thoạt đầu, tôi đã nghĩ rằng cả mình cũng trở lại hòn đảo này để chết. Tìm lại được dấu vết của Mary, đi vào lòng biển một tối rồi biến mất. Giờ đây trong cơn bão, nàng tới phòng tôi. Đó là một giấc mơ tỉnh thức. Tôi bị mùi thân thể nàng quyện với mùi biển thẳm đánh thức. Một mùi hương nồng và hắc, chua, gắt, u uất, xộc lên. Tôi ngửi thấy mùi rêu tảo trong tóc nàng. Tôi cảm thấy làn da nàng hết sức mịn màng, nhẵn mượt nhờ sóng bào mòn, lóng lánh ánh xà cừ vì muối. Thân hình nàng bồng bềnh trong ánh sáng lờ mờ buổi hoàng hôn, luồn vào trong chăn, và bộ phận sinh dục cương cứng của tôi đi vào nàng, tới rùng mình, quấn siết tôi trong niềm mê đắm lạnh băng của nàng, thân nàng trườn sát thân tôi, môi nàng kề trên dương vật tôi, tôi hoàn toàn quyện vào nàng, nàng quyện vào tôi, cho tới cơn cực khoái. Mary, chết từ ba mươi năm nay, chưa bao giờ tìm thấy xác. Mary trở về từ đáy đại dương, đang nói vào tai tôi bằng chất giọng hơi khàn, trở về để hát cho tôi nghe những ca khúc bị lãng quên, những ca khúc về những ngôi sao trời, mà nàng đã hát tôi nghe ở quán bar khách sạn Phương Đông, lần đầu tôi gặp nàng. Không hẳn là quán bar dành cho lính tráng, và nàng không hẳn là ca sĩ quán bar. Khi nhìn thấy nàng tôi đã không hình dung ra nàng là ai, con một lính Mỹ được một gia đình nhà quê vùng Arkansas nhận nuôi, sinh ra từ một vụ cưỡng hiếp, bị bỏ rơi và trở về để chiến thắng kẻ thù truyền kiếp của mình, để hoàn thành một cuộc báo oán, hay đơn giản chỉ do sự lại giống vốn hay xua loài người đi theo vết cũ cội nguồn một cách tất yếu. Nhưng tôi, tôi đâu phải một tên lính, nàng hiểu vậy, và chắc hẳn đó là lý do nàng chọn tôi, cái gã mặc đồ lao động và mái tóc húi cua, bám theo đám lính trong những cuộc hành quân, tay cầm máy ảnh để tường thuật mọi cuộc chiến tranh. Tôi còn nhớ lần đầu chúng tôi trò chuyện, sau lượt trình diễn của nàng, vào lúc đêm muộn, hoặc sáng sớm, trên khoảnh sân hiên nhô ra trên dòng Menam Chao Phraya, nàng đã cúi xuống để nhìn thứ gì đó trên mặt đất, một con bướm đêm màu đen đang đập cánh hấp hối, và qua phần cổ khoét của chiếc váy đỏ nàng mặc, tôi đã nhìn thấy bầu ngực nàng buông lơi, hết sức mịn màng, khêu gợi. Nàng không biết gì về tôi và tôi cũng không biết gì về nàng. Bấy giờ tôi đã mang vết thương nham nhở của tội ác, tôi cứ ngỡ chuyện đó sẽ qua đi. Tôi từng quên đi quá khứ, việc xử vụ khiếu kiện bốn tên lính đã cưỡng hiếp một phụ nữ ở Huế. Cái gã giữ tay cô gái quặt ra sau đã thụi vào môi cô để bắt cô im miệng, còn gã kia xâm nhập cô chẳng ngại ngần, thậm chí không cởi quần, và tôi nhìn, không nói gì, không làm gì hoặc gần như thế, chỉ chớm cương cứng, nhưng nhìn và làm thinh, đó là hành động. Có lẽ tôi sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để khi ấy đã ở nơi nào khác, để không từng chứng kiến. Trước tòa, tôi đã không tự biện hộ. Thiếu phụ có mặt tại đó, ngồi hàng ghế đầu. Tôi đã liếc trộm và không nhận ra cô. Cô có vẻ trẻ hơn, gần như một đứa trẻ. Cô ngồi trên ghế băng, bất động, gương mặt được ống đèn nê ông của phòng xử án chiếu sáng. Khuôn miệng nhỏ, mím chặt, da mặt kéo căng ra vì búi tóc đen. Ai đó đã đọc lời chứng của cô bằng tiếng Anh, còn cô vẫn không nhúc nhích. Bốn gã nhà binh ngồi trên một ghế băng khác, cách cô vài mét, và chúng cũng không nhúc nhích. Chúng không nhìn ai, chỉ nhìn bức tường đối diện, cái bục nơi thẩm phán ngồi. Chúng thì ngược lại, tôi thấy chúng già hơn, đã phị ra vì mỡ, với nước da nhợt nhạt của những kẻ tù phạm. Tôi chưa từng kể chuyện này với Mary. Khi tôi gặp nàng tại khách sạn Phương Đông ấy, nàng hỏi tôi đã làm gì lúc rời quân ngũ. Tôi trả lời: “Không làm gì hết... Anh đi đây đi đó, vậy thôi.” Nàng không căn vặn, vả chăng tôi có lẽ chẳng bao giờ đủ can đảm để nói với nàng sự thật: “Anh đã bị kết án tù vì đã chứng kiến một tội ác, và đã không làm gì để ngăn cản tội ác đó.” Tôi muốn sống cùng Mary, đi đây đi đó cùng nàng, nghe nàng hát, san sẻ tấm thân nàng và cuộc đời nàng. Nếu tôi kể với nàng toàn bộ chuyện kia, hẳn là nàng sẽ xua đuổi tôi. Tôi đã sống cùng nàng một năm, cho tới khi đến hòn đảo này. Rồi một ngày nọ nàng đã quyết định đi vào lòng biển. Tôi chưa bao giờ hiểu được. Chúng tôi ẩn mình. Không ai quen biết chúng tôi, không ai có thể kể cho nàng nghe. Có lẽ nàng điên, chỉ vậy thôi, có lẽ chẳng có lời giải thích nào cho hành động của nàng. Nàng đã tự để sóng cuốn đi. Nàng vốn là tay bơi giỏi khác thường. Ngày còn ở Mỹ, năm mười sáu tuổi, nàng được chọn đi dự Olympic Melbourne. Nàng mang họ Farrell, Mary Song Farrell. Song bởi nàng được bố mẹ nuôi nhận về dưới cái tên này. Mẹ đẻ nàng tên là Song cũng nên. Hoặc giả bà ấy hay hát*, tôi không biết nữa. Có lẽ chính tôi về sau này đã suy diễn ra toàn bộ câu chuyện đó. Tôi không suy diễn cho những người khác, họ không khiến tôi bận tâm. Tôi không phải kiểu người kể chuyện đời mình trong những quán bar. Tôi không quen những người gốc Arkansas này, những người nhà Farrell này. Những chủ trang trại. Mary học cách chăm sóc gia súc, cách sửa xe máy, cách lái máy kéo tại nhà họ. Rồi một ngày nọ, năm mười tám tuổi, nàng bay đi để tới nơi khác sống, để hát. Đó là thiên hướng của nàng. Nàng đã có một cuộc sống khác, nàng chưa bao giờ trở lại trang trại. Khi nàng mất tích trên biển, tôi đã cố gắng liên lạc với bố mẹ nàng, tôi đã viết vài lá thư gửi đến quận, để biết địa chỉ của họ. Tuyệt không thấy hồi âm. Khi tôi quen Mary, nàng gần bốn mươi, nhưng có vẻ trẻ hơn tuổi nhiều. Bấy giờ tôi hai mươi tám. Tôi vừa mãn hạn tù. Bão truyền sang tôi cơn thịnh nộ. Tôi cần những tiếng ó biển của bão, những ống bễ lò rèn của bão. Chính vì bão mà tôi quay trở lại hòn đảo này. Bấy giờ, mọi thứ khép kín, mọi người mất hút trong nhà của họ, họ đóng cửa chớp và chặn cửa ra vào, họ thu lu trong vỏ ốc, trong lớp mai của mình. Họ cũng đã biến mất, những du khách mặt bự phấn, những kiểu tạo dáng, những điệu bộ, những trò õng ẹo của họ. Những cô gái mặc quần soóc cực ngắn đạp xe, những cậu trai cưỡi mô tô địa hình, những cặp kính Polaroid, những ba lô, máy ảnh, họ đã quay về thành phố, về những tòa chung cư, về xứ sở không bao giờ có bão của họ. Người dân đảo này đã tự chôn mình. Họ chơi bài, họ ngồi bệt trong những căn hầm với cửa kính mờ hơi nước mà uống bia. Ánh điện chập chờn, chẳng mấy chốc sẽ cắt điện trên diện rộng. Tủ cấp đông của các cửa hàng sẽ rỉ thứ nước vàng như nước tiểu, những con cá ướp muối sẽ chảy nước và long mắt, những thanh sô cô la đông lạnh sẽ mềm nhũn trong bao bì. Chính vì bão mà tôi quay trở lại. Tôi lại cảm thấy mình đang trong thời chiến, trong rủi may, theo cuộc bỏ chạy tán loạn của các đoàn quân, nghe những chiếc loa thét lác những mệnh lệnh khó hiểu. Tôi ngược dòng thời gian, dựng lại đời mình. Tôi những muốn quay trở lại ngưỡng cửa ngôi nhà ở Huế, nhìn, và cái nhìn của tôi sẽ ngưng thời gian lại, sẽ gieo mơ hồ lẫn lộn, sẽ giải thoát người đàn bà khỏi những kẻ hành hạ cô. Nhưng trong những điều tôi biết sẽ không có điều gì nhạt nhòa đi. Hòn đảo là sự đoan chắc về nỗi vô phương cứu chuộc. Bằng chứng của sự bất lực. Hòn đảo là ụ nổi cuối cùng, bến đỗ cuối cùng trước hư không. Chính vì điều này mà tôi trở lại. Không phải để tìm lại quá khứ, không phải để đánh hơi tìm lối như một con chó. Mà để chắc chắn rằng mình sẽ không nhận ra điều gì. Để bão xóa đi tất cả, vĩnh viễn, bởi biển là chân lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Bão của tác giả J. M. G. Le Clézio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cây Đàn Miến Điện - Takeyama Michio
Là tác phẩm giúp Takeyama Michio đạt giải thưởng văn chương do cơ quan báo chí Mainichi trao tặng. Đây là một câu chuyện cảm động, kể về những người thanh niên thường dân Nhật biến thành lính tráng, dấn thân vào một cuộc chiến mà họ không hiểu rõ hoàn toàn, để rồi phải trải qua bao nhiêu gian truân và bi đát. Tình tiết chuyện hấp dẫn, lối kể hiện thực và lời văn đơn giản, dễ hiểu. Ba yếu tố phiêu lưu, bi đát và hài hước kết lại thành một truyện chiến tranh đặc sắc và ly kỳ. Cây Đàn Miến Điện là một câu chuyện về Đệ Nhị Thế Chiến; tuy nhiên, chủ đề của nó là chủ đề muôn thuở. Nhờ thế, với tình tiết hấp dẫn, lối kể hiện thực và lời văn đơn giản, kể từ khi ra đời, tác phẩm này đã lôi cuốn, thỏa mãn không biết bao nhiêu độc giả mà nói, ở trong cũng như ở ngoài nước. Ấy là chưa kể sự kiện nó đã được đưa lên màn ảnh và sân khấu. Như tác giả quan niệm: Chính vì thế hệ trẻ của dân tộc Phù Tang mà ông viết truyện này. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, sau khi xuất bản, tập truyện đã trở nên phổ thông ngay cả trong đám người lớn và đã được dịch sang tiếng Anh - đó là bản dịch của Howard Hibbett, xuất bản ở Hoa Kỳ năm 1966. Bề mặt, Cây Đàn Miến Điện, hấp dẫn, ly kỳ, kể chuyện những người thanh niên thường dân biến thành lính tráng, dấn thân vào một cuộc chiến mà họ không hiểu rõ hoàn toàn, rồi phải trải qua bao nhiêu gian truân, bi đát, não nề. Trong tập truyện chẳng thiếu yếu tố phiêu lưu, bi đát và hài hước - cả ba kết lại tạo thành một truyện chiến tranh đặc sắc. Song lẽ, như tác giả đã nói, ông hy vọng độc giả sẽ không bắt gặp một truyện chiến tranh phiêu lưu nào khác nữa ở Miến Điện. Nếu truyện này đạt được mục đích, ít nhất nó cũng khiến độc giả suy ngẫm; như vậy tác giả lấy làm sung sướng lắm rồi. *** Takeyama Michio sinh năm 1903 và hai mươi ba năm sau tốt nghiệp đại học Hoàng gia Tokyo, chuyên về văn chương Đức. Sau một thời gian dạy học ở Tokyo, ông rời Nhật Bản qua châu Âu du học. Tên tuổi Takeyama nổi bật trong giới nhà văn Nhật Bản, sau đệ nhị thế chiến, nhờ những bài phê bình văn học đầy những nhận định xác đáng và lý luận đanh thép. Ông trở lại trường cũ năm 1949 và làm giáo sư tại đây ba năm. Ngoài ra, ông dồn hết cố gắng vào công việc dịch thuật những tác phẩm văn học Đức sang tiếng mẹ đẻ. Cuốn Cây Đàn Miến Điện (Biruma no Tategoto), xuất bản năm 1946, đã đem lại cho ông giải thưởng văn chương do cơ quan báo chí Mainichi trao tặng. *** Chắc chắn là chúng tôi đã hát rất nhiều. Dù sung sướng hay khổ sở, lúc nào chúng tôi cũng hát. Có lẽ bởi vì luôn luôn sống dưới sự đe dọa của trận mạc và chết chóc, nên chúng tôi cảm thấy ít nhất cần làm công việc duy nhất này cho thật tốt chừng nào còn sống. Dầu sao chúng tôi cũng đã đem hết sức lực và tâm hồn ra để hát. Chúng tôi thích những bài ca trang nghiêm, những bài ca ý nghĩa sâu xa chứ không phải loại bài ca bình dân tầm phào. Dĩ nhiên, đa số anh em trước kia chỉ là nông dân hoặc công nhân, nhưng chúng tôi đã cố gắng học ít nhạc đồng ca hay hay. Tôi vẫn còn nhớ lòng tràn đầy vui sướng ra sao khi chúng tôi đứng hát bên một bờ hồ. Chúng tôi đã thực hiện một cuộc di hành dài qua rừng cây rậm rạp đi xuống một thung lũng. Bất thình lình một cái hồ hiện ra trước mặt với những ngôi nhà trắng toát đứng lù lù trên bờ nước. Đó là một thôn làng, nơi ngày xưa một vị vua Miến Điện đã cất một lâu đài đá nghỉ mát. Các ngôi nhà, túm tụm vào nhau, tường quét vôi trắng, xây trên một cái vịnh nhỏ, một nửa chìm dưới sâu, đang soi bóng trên mặt nước. Những mái nhà chỏm tròn, những đỉnh tháp nhọn hoắt và những gác chuông lạ mắt đâm thẳng lên trời - bầu trời nhiệt đới chói chang. Đã có bao giờ anh nhìn thấy màu trắng đục như đá mắt mèo chưa? Vâng, bầu trời Miến Điện có đúng cái loại màu trắng ấy, đó đây lại thắm hơn vì những vệt ánh sáng lấp loáng màu ngũ sắc. Nhìn những ngọn tháp đá hoa cương theo hình trôn ốc xoắn tít lên một bầu trời như thế, anh sẽ cảm thấy như thể đang sống trong mộng vậy. Ba ngày liền đóng quân tại làng ấy, ngày nào chúng tôi cũng tập hát. Chúng tôi hát những bài đạo ca, những bài hát ngày xưa có tính cách nhớ nhà chúng tôi thích như bài Trăng Trên Lâu Đài Hoang Tàn những điệu vui vui như les Toits de Paris, và ngay cả những bài ca Ý, Đức khó thuộc. Tại đó, bên mặt hồ nên thơ ấy, đại úy vui sướng múa đũa điều khiển trong khi anh em binh sĩ chúng tôi, bị âm thanh của chính mình thốt ra lôi cuốn, say sưa hát hết bài này đến bài khác. Một hôm để chấm dứt buổi hát chúng tôi tập lại bài hát của đại đội Hanyu no Yadochia thành nhiều bè, hát đi hát lại nhiều lần. Hanyu no Yado - “Trở về Mái Nhà Xưa" - là một bài hát mong nhớ, bài hát chẳng bao giờ không làm tâm hồn chúng tôi rung động. Trong lúc hát chúng tôi nghĩ đến gia đình và ao ước có thể cho gia đình nhìn thấy cảnh đẹp này, và nghe thấy tiếng chúng tôi đang hát. Sau cùng, đại úy nói: "Được rồi, các bạn, hôm nay thế là đủ. Ngày mai, cũng vào giờ này, chúng ta sẽ tập cái gì mới. Đại đội tan hàng!" Thế rồi đại úy quay lại gọi một người trong bọn: "Ê, Mizushima, chú đã sẵn sàng phần đệm ấy chưa?" Mizushima là một trung sĩ; người gân guốc, mảnh khảnh, tầm thước, nước da hầu như đen kịt vì ánh nắng, đôi mắt sâu hoắm, to tướng, trong vắt. Trước khi gia nhập đại đội, Mizushima không được học qua nhạc nào, nhưng có lẽ anh có tài thiên bẩm vì anh tiến bộ thật nhanh, âm nhạc là đam mê duy nhất của anh; anh không nghĩ đến gì khác ngoài âm nhạc. Anh tự tay chế lấy cây thụ cầm để hòa âm theo đội đồng ca của chúng tôi, và anh chơi đàn khéo đến độ Chẳng bao lâu đã có thể đánh theo bất kỳ điệu nào chúng tôi hát. ... Mời các bạn đón đọc Cây Đàn Miến Điện của tác giả Takeyama Michio.
Thời Gian Để Sống và Thời Gian Để Chết - Erich Maria Remarque
“Bỗng Graeber thoáng ngửi được mùi hoa violet. Anh tìm xung quanh và thấy một bình hoa nhỏ đặt bên thành cửa sổ. Hương thơm vô cùng dịu ngọt, ngào ngạt chứa đầy mộng ước đã bị quên lãng của tuổi thanh xuân, những kỷ niệm của quê nhà yên lành và những ngày ấu thơ bình dị, tất cả ập đến trong anh, mạnh mẽ, đột ngột và mau chóng như những đợt sóng dồn. Một làn hương thơm lại làm anh xúc động và mệt mỏi như vừa đeo ba lô chạy một quãng dài trong tuyết…” Khi Thế chiến II sắp đi vào hồi kết, anh lính Ernst Graeber đã gặp được phép mầu của đời mình: cô thiếu nữ Elisabeth Kruse – người đã biến mười bốn ngày phép loạn lạc thành một năm thanh bình, đã biến đất nước khói lửa và chiến tranh lần nữa là mái nhà yêu dấu, trong hương hoa tím ngọt ngào tuổi thanh xuân, dưới những hàng cây đoạn vẫn xanh tươi mặc cho bao nhiêu bom đạn, trên bãi cỏ nở hoa đã thoát khỏi quy luật tuyệt diệt của nhân loại… Và như thế, trong giai điệu tha thiết và nhiệt thành của con tim, những giấc mơ hạnh phúc đã trở lại, những niềm hy vọng đã trỗi dậy, ánh sáng và hơi ấm đã lan tỏa, sự sống và mùa xuân đã tái sinh trên nước Đức, dù muộn màng và đổ nát. *** Tác giả Erich Maria Remarque (1898 – 1970), sinh ra trong một gia đình bình dân tại Osnabrũck, miền Tây nước Đức. Từ nhỏ, Remarque luôn ngưỡng mô mẹ - bà Ana Maria, trong khi lại tỏ ra xa lánh cha – ông Peter Remarque. Ông Peter Remarque bình sinh chỉ là người thợ đóng sách nghèo. Sự vất vả, túng bẩn của gia đình đã khiến cậu bé Remarque mới hơn mười tuổi đã phải tự kiếm sống bằng việc dạy kèm piano. Và cậu phải luôn làm cật lực để bù vào khoản thù lao mà hầu như tháng nào cậu cũng phải xin ứng trước. Dấu ấn những năm tháng cơ cực sau này được nhà văn ghi lại trong nhiều tác phẩm của ông. Tốt nghiệp trung học, Remarque vào đại học Munster , nhưng chưa học xong ông đã bị gọi nhập ngũ và chiến đấu ở mặt trận phía tây. Khoảng thời gian giàu sinh ra tử trong lửa đạn này là nguồn tư liệu quý giá cho ông viết cuốn tiểu thuyết đầu tay. Những điều ông đã kinh qua ít nhiều đều được miêu tả trong cuốn sách ấy. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết … Hầu hết các tác phẩm đều mang khuynh hướng phê phán và tố cáo xã hội mãnh liệt đồng thời miêu tả sức hủy hoại kinh hoàng của cuộc chiến tranh đế quốc đối với thể chất và tinh thần của con người. *** Yêu và chết của một người trên mặt đất, nhất là trên mặt đất đầy lửa và máu, hoài vọng và thất vọng cay đắng. Một thời yêu và một thời chết, chỉ một thời thôi đời sống của con người kéo dài trong tiếng rạn nức của diêm sinh bắn lửa trên đầu que diêm. Một thời để yêu và một thời để chết, một quyển tiểu thuyết dầy trên năm trăm trang, làm máy động lên những vùng tóc tơ của tình yêu và những tiếng kêu chiều của sự chết. Một người đàn ông mang tên X, gặp cô gái mang tên Y, gặp nhau tình cờ trong bối cảnh, mang tên Z. Tên X ấy có thể là Ernst Graber và cũng có thể là Xuân, Minh, Vinh hay Tâm; tên Y ấy có thể là Elisabeth Kruse và cũng có thể là Vi, Thủy, Ngọc hay Lan, tên Z kia có thể là một thành phố Đức giữa thời đại chiến mà cũng có thể là một thành phố nào đó. Tình yêu giữa thời chiến, đây là câu chuyện muôn đời xảy ra muôn lần trên lịch sử muôn năm của muôn triệu con người, nhưng đọc một thời để yêu và một thời để chết của Erich Maria Remarque, chúng ta mới thấy rằng có một thời tình yêu và chiến tranh lại trở thành những đề tài sáo cũ và lỗi thời, mà cũng có một thời tình yêu và chiến tranh lại trở lại thành những tiếng gọi thầm thì và những tiếng thống thiết đồng vọng lên hơi thở không ngừng của trái tim. Remarque đưa mình vào một buổi chiều phiêu lãng có mây nhẹ bay qua trên đống gạch vụn điêu tàn của một nền văn minh giẫy chết. Remarque không làm văn chương; chất thơ phớt nhẹ vào quyển tiểu thuyết ông như một chút nước mát từ đồi cao rưới xuống mặt đất cháy đen của thời chinh chiến. Lối văn giản dị, không tô đậm những thông điệp của một sứ giả hay một tiên tri từ vùng trời lý tưởng trở về thế gian hữu hạn để cất tiếng nói lên kêu gọi một cái gì đó. Không, Remarque không phức tạp như một André Malraux không chua xót hận thù như Malaparte, không lạnh lùng tàn nhẫn như Norman Mailer, không thất vọng bơ vơ như Hemingway. Người về từ chiến tranh. Trong tiểu thuyết của Remarque, không về trong sự lạc loài thờ ơ của Faulkner, mà trở về với hoài tưởng tới những con chim sơn ca ở đầu làng, về trong tình yêu và ra đi trong sự chết, dó là một chút khói thuốc mà Remarque gởi tặng cho chúng ta, vì như một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết khác của Remarque "người ta chỉ có thể tìm được thanh bình trong khói thuốc". Sự trở về kêu gọi quê hương, tình yêu, thanh bình; sự ra đi kêu gọi sự chết chiến tranh, hận thù, ngộ nhận, hư vô. Đó là một cội cây anh đào trổ bông mà Remarque đem về tặng cho mỗi người trong chúng ta, những người đang sống qua kẽ nứt của mái nhà tranh quê mẹ. Trong một quyển tiểu quyết khác của Remarque, mang tên là Mặt trận miền Tây đều yên lặng, một nhân vật nào đó không ngừng ám ảnh trí nhớ của mình, đó là một anh tân binh quân dịch, một hôm, khi ngoài cửa sổ trại lính anh bỗng nhìn thấy cây anh đào trổ bông bừng lên cả khung cửa, suốt đêm đó, anh trằn trọc ngủ không được, anh nhớ đến cây anh đào ở quê nghèo, và sáng hôm sau, người ta không còn tìm ra hành tung anh nữa. Anh đã trở về. Ra đi và trở về. Ra đi trong trầm uất và trở về trong liều lĩnh rạo rực. Sống rạo rực và chết như khói bay lên trời. Mộ thời để yêu và một thời để chết. Yêu một lần và chết một lần. Chỉ một lần. Remarque trao tặng chúng ta một thời để yêu và một thời để chết. Từ mặt trận ở Nga, Graber trở về nghỉ phép ở quê hương, chàng đã chờ dợi hai năm rồi mới được dịp may bất ngờ này. Về tới quê nhà, chàng không còn thấy, không còn nhìn ra mái nhà xưa nữa, bom đạn đã làm tan nát tất cả: cha mẹ chàng mất tích, chàng bơ phờ tìm kiếm hành tung của cha mẹ, nhưng rồi tình cờ gặp cô Elisabeth Kruse, họ yêu nhau, yêu nhau đến độ cao cuối cùng của phong vũ biểu, vì họ chỉ biết rằng mọi sự đều chỉ đến có một lần thôi. "Thực là lạ, anh nhỉ, Elisabeth nói, có lẽ là mùa xuân đang tới, em có cảm giác là đâu đây thoảng thoảng mùi hoa đồng thảo...". Và thỉnh thoảng Graber còn nghe được tiếng chim họa mi vô hình kêu hót, dù bao nhiêu sự việc đã trôi qua từ bao giờ. Nhưng giữa cánh đập của con én liệng ở lầu chuông, Graber cũng thể quên hẳn kỷ luật quân đội và chàng phải trở ra trận, để rồi sau cùng bị bắn chết, lúc chàng mở cửa tù cho tội nhân trốn thoát. Lòng nhân đạo của chàng đã bắn chàng chết: chàng muốn giải tỏa tù nhân và chính tù nhân được trả tự do đã quay ngược lại chĩa súng bắn vào chàng. Câu chuyện chấm dứt bằng một câu đơn giản: "và đôi mắt chàng đóng khép lại", thế mà chúng ta có cảm tưởng rằng câu nói ấy về sự đóng khép của một vũ trụ nào đó, một vũ trụ mà: "một cụm mây bay chậm qua bầu trời. Những con chim kêu ríu rít trong rìhững cội phong già. Một con bướm xanh lơ lảo đảo từ đóa hoa này đến đóa hoa khác và bay lượn trên những hô lạc đận. Một chặp sau đó, một con bướm khác bay tiếp theo với con bướm xanh kia. Hai con bướm vui đùa với nhau và săn đuổi nhau. Tiếng ì ầm ngoài mặt trận vang động lớn dần. Hai con bướm giao cấu nhau và bay cao lên chậm chạp trong không khí ấm và sáng. Graber nằm ngủ". ... Mời các bạn đón đọc Thời Gian Để Sống và Thời Gian Để Chết của tác giả Erich Maria Remarque.
Ranh Giới - Rain8x
Đây là một câu chuyện nói về cuộc sống, gia đình, tình yêu, tâm sinh lý con người dưới góc nhìn của một thanh niên thuộc thế hệ nửa đầu 8x. Với những đấu tranh nội tâm gay gắt khi đứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời , bước vào mối tình đầu. Giữa tốt đẹp và xấu xa, giữa thiên thần và ác quỷ, đôi khi chỉ cách nhau bằng một "Ranh Giới" thật mong manh. Đó là quy luật buộc lý trí chúng ta phải lựa chọn…  *** Những trích dẫn hay trong truyện:    “Nếu cuộc đời em là một cuốn tiểu thuyết thì chương đầu sẽ là câu chuyện cổ tích mà anh đã viết vào đó những dòng đầu tiên.” “Nếu sau này chúng ta xa nhau, mỗi khi nhớ đến em, anh hãy nhìn về phía hoàng hôn, em sẽ đến với anh cùng những tia nắng cuối cùng.” “Em ngốc ạ, chẳng phải em nói là hai trái tim chúng ta đã hòa chung một nhịp. Từng dòng nước mắt em rơi thấm trên bức thư ấy, cũng đã thấm cả vào trái tim anh. Anh làm sao có thể không khóc? Nếu cứ dồn nén trong lòng, chẳng phải là bất công với anh lắm hay sao?” *** _Hiếu ! Dậy , nhanh lên , gần 7 giờ rồi còn ngủ chết trương ..mày có định đi học không đấy !!?? _...... _Dậy !! Dậy mau .- Mẹ vơ cái gối đập liên tục vào mặt tôi . _Đây , đây , con dậy đây ...từ đây ra trường mất có 10 phút thôi mà mẹ ...- Tôi lồm cồm bò dậy làu bàu !! _Thế mày định không đánh răng , rửa mặt , ăn sáng à , thanh niên rồi , tác phong phải nhanh nhẹn lên chứ .- Mẹ vừa gấp chăn màn vừa xa xả nói Tôi uể oải đứng dậy , bước vào phòng vệ sinh ... Làm vệ sinh cá nhân xong xuôi , thu dọn bài vở , quần áo chỉnh tề . Tôi đến bên mẹ chìa tay . _Gì đây ? Còn không mau đi học đi ông tướng .- Mẹ gườm nhìn tôi _Mẹ ...tiền ăn sáng !! – Tôi nũng nịu . _Cái gì !? Hôm qua vừa đưa cho mày 20 nghìn xong mà mày đã tiêu hết rồi ,mày tưởng tao cướp ra tiền à con ? - Mẹ trợn mắt . _Hôm qua bọn con phải góp tiền đi thăm cô giáo ốm , con thiếu tiền còn phải đi vay thêm nè ,con có tiêu gì đâu mà mẹ nói vậy .- Tôi làm ra vẻ tội nghiệp . _Đây , cầm lấy rồi đi đi cho khuất mắt tôi ! - Mẹ giúi vào tay tôi đồng 10 nghìn . _À , hôm nay bọn con phải đóng quỹ lớp rồi , mẹ cho con thêm 20 nghìn nữa đi ! _Cái gì nữa đây ! Sao mày lúc nào cũng có lý do để moi tiền tao thế ? _Lý do chính đáng mà mẹ .- Tôi nháy mắt . _Thôi đây ...cầm lấy , hôm nào đi họp phụ huynh tao hỏi mà không phải thì chết với tao ! _Vâng con thanks you mẹ , bye bye mommy . – Tôi thơm mẹ cái rùi chạy tót ra cửa , vẫn còn nghe tiếng mẹ nói vọng đằng sau :”Con với chả cái ...” **** Tháng 10 , tiết trời đang chuyền sang thu . Hít thở bầu không khi trong lành , man mát của buổi sáng sớm , tôi thở dài khoan khoái , rảo chân đạp xe đến trường ... Thị trấn yên bình nằm giữa một vùng đồng bằng trung du Bắc bộ bao quanh là núi , buổi sáng nào cũng vậy không khí tấp nập và hối hả . Từ những anh cán bộ viên chức ăn mặc chỉnh tề , đạo mạo đến những người nông dân khắc khổ đem sản vật nông nghiệp lên chợ bán , những bác xe ôm chia nhau điếu thuốc hút dở kèm nụ cười rạng rỡ . Đâu đó một vài tốp học sinh ríu rít đến trường ... _Ê ku , chờ tao với !!! Tôi ngoảnh lại phía sau . Thằng Sơn lúi húi đạp xe lên . _Đang ngắm em nào mà cứ đờ người ra thế .- Nó nhe răng cười _Ngắm cái con khỉ ...hôm qua thắng hay thua vậy ? _Thua 3 – 1 , chán lắm ! Thiếu mày với thằng Tiến thì thắng thế quái nào được , chiều nay còn tiền không , cốp tiếp đi , đá sân Thành Đỏ . Mỗi đội cốp 50 nghìn , thắng ăn cả , phải phục thù chứ ! _Để xem nào đã , dạo này bà già tao quản lý chi tiêu ác lắm . – Tôi trầm ngâm . _Ui giời , mỗi thằng góp có 10 nghìn mà ko xoay được à . – Nó bĩu môi _Thì tao đã bảo là để xem nào đã ! – Tôi gắt . _Ờ , có gì để tao còn hẹn với ... úi ...nhìn kìa ! - Mắt nó sáng lên , tôi nhìn theo hướng nó chỉ , một vài tà áo trắng tinh khôi đang lướt trên đường , gió thổi thốc lên để lộ những mảnh da thịt trắng ngần . 2 thằng ngẫn ngơ nhìn theo ... Mời các bạn đón đọc Ranh Giới của tác giả Rain8x.
Những Trái Tim Vàng - Danielle Steel
Những trái tim vàng - Một bản ballad ngọt ngào và nên thơ dành cho những trái tim cô đơn luôn khao khát kiếm tìm một bến bờ tình yêu thực sự... Những tưởng hạnh phúc tuyệt vời cùng người chồng thành đạt và hai đứa con ngoan sẽ mãi mãi hiện hữu trong tổ ấm của Sarah - một phụ nữ xinh đẹp, nhân hậu và hết lòng vì gia đình. Nhưng, một biến cố lớn xảy ra đã vạch trần bộ mặt thật của Seth - chồng bà - một kẻ lừa đảo! Sụp đổ, đau đớn, thất vọng, hụt hẫng, mất mát là cảm giác của Sarah khi biết được sự thật. Điều này như một cơn địa chấn dữ dội bất ngờ ập xuống cuộc đời vốn yên bình của bà. Thế nhưng, như bàn tay số mệnh sắp đặt, bà đã gặp và kết bạn với xơ Maggie, một nữ chân tu nhân hậu, người đã giúp Sarah vơi đi nỗi đau, đồng thời làm cho bà nhận ra rằng chỉ có tha thứ, lòng bao dung mới mang lại cảm giác bình yên và sự thanh thản đích thực cho tâm hồn. *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Sarah Sloane bước vào phòng khiêu vũ của khách sạn Ritz Cariton ở San Francisco, bà hài lòng khi thấy cảnh trưng bày trong phòng quá tuyệt. Các bàn ăn được trải khăn vải màu kem, trên bàn có giá đèn cầy bằng bạc, dao nĩa thìa dùng để ăn thì sáng bóng. Những thứ này được thuê ở nơi chuyên cho thuê để dùng vào các buổi lễ sang trọng, chứ không dùng đồ ở khách sạn. Dĩa ăn được viền vàng. Các quà tặng trong buổi tiệc được bọc giấy bạc để trước mỗi chỗ ngồi. Thực đơn được viết bằng nét chữ đặc biệt rất đẹp, gắn vào các giá bằng bạc. Thiệp ghi tên thực khách có hình Thiên Thần Nhỏ màu vàng, chỗ ngồi của họ được Sarah nghiên cứu rất cẩn thận cho phù hợp với mỗi người. Những bàn danh dự đều có màu vàng được sắp thành ba dãy ở phía trước phòng, và sau đó, các bàn có màu bạc và đồng. Trước mỗi chỗ ngồi, có tờ ghi chi tiết chương trình buổi lễ trên giấy rất đẹp, cùng với danh sách các thứ bán đấu giá và cái chầm có ghi số. Sarah đã tổ chức buổi lễ rất kỹ càng, chi li và chính xác như bà đã từng tổ chức các buổi lễ từ thiện khác ở New York. Bà đã thân hành kiểm tra từng chi tiết nhỏ nhặt nhất, cho nên khi nhìn vào những đóa hồng màu kem được bao quanh bằng những dải vải thắt nơ màu vàng và bạc ở trên các bàn, bà có cảm giác đây là buổi tiệc cưới chứ không phải buổi lễ gây quỹ từ thiện. Hoa do nhà bán hoa nổi tiếng nhất của thành phố cung cấp với giá chỉ bằng một phần ba giá bình thường. Cửa hàng Saks phụ trách việc trình diễn thời trang, còn cửa hàng Tiffany phái những người mẫu đến, họ sẽ đeo nữ trang đi trình diễn khắp các thực khách. Cuộc bán đấu giá sẽ bán những thứ có giá trị rất lớn, gồm đồ nữ trang, vé du lịch nước ngoài, những vật dụng dùng trong thể thao, cơ hội gặp gỡ các nhân vật nổi tiếng, và chiếc Range Rover màu đen đậu ở trước cửa khách sạn có chiếc nơ màu vàng khổng lồ buộc ở trên nóc xe. Người nào mua được, sẽ sung sướng lái xe về nhà sau buổi lễ tối nay. Còn những trẻ sơ sinh mồ côi ở bệnh viện sẽ nhận được khá nhiều tiền từ thiện. Đây là lần thứ hai Sarah tổ chức gây quỹ từ thiện cho các trẻ sơ sinh mồ côi, mang tên Quà Cho Các Thiên Thần Nhỏ. Lần thứ nhất bà quyên góp được hơn hai triệu đô la, gồm tiền vé, tiền bán hàng đấu giá và tiền ủng hộ. Bà hy vọng tối nay số tiền thu được sẽ lên đến ba triệu. Những tiết mục giải trí đặc sắc và hấp dẫn trong buổi lễ sẽ giúp ban tổ chức đạt được mục đích yêu cầu. Ban nhạc sẽ chơi suốt cả buổi lễ. Một thành viên trong ban tổ chức là con gái của một vị có thế lực trong ngành âm nhạc ở Hollywood. Bố cô ta đã mời Melanie Free đến trình diễn, việc này giúp họ tăng giá vé bán ra, nhất là các vé VIP. Melanie đã đoạt giải Grammy mới cách đây vài tháng, cho nên việc nàng đến trình diễn là cơ hội lớn giúp họ hái ra tiền. Nàng đến để ủng hộ việc gây quỹ từ thiện cho Các Thiên Thần Nhỏ. Chi phí trong việc đi lại, ăn ở của các nhân viên phục vụ và ban nhạc chỉ ước chừng ba trăm ngàn đô la, so với số tiền ban tổ chức thu được chẳng nghĩa lý gì. Việc Melanie đến trình diễn có tác động nâng cao rất lớn số khách tới dự hôm nay. Người nào nhận được giấy mời đến xem Melanie trình diễn cũng đều rất phấn khích. Melanie hiện là ca sĩ nổi tiếng nhất nước và có dung nhan rất đáng chiêm ngưỡng. Nàng mới mười chín tuổi, là ca sĩ nổi như cồn trong hai năm qua nhờ những buổi trình diễn thành công liên tục. Vừa rồi nàng nhận được giải Grammy, nhưng đây chỉ là lớp kem bọc ngoài cái bánh, và Sarah mừng khi nàng đến trình diễn mà không lấy cát-xê. Nỗi lo sợ lớn nhất của bà là Melanie hủy show diễn vào phút chót. Vì là chương trình gây quỹ từ thiện, nên có nhiều ca sĩ đã không đến như dự kiến. Nhưng người đại diện cho Melanie đã quả quyết nàng sẽ đến. Buổi tối hứa hẹn nhiều sự phấn khích, nên báo chí đều cử phóng viên đến để viết bài. Ban tổ chức đã cố mời một vài ngôi sao từ L.A, và tất cả những nhân vật tai to mặt lớn tại địa phương đều mua vé đến dự. Việc tổ chức lễ gây quỹ từ thiện như thế này rất thành công và quan trọng ở Francisco trong hai năm qua, mọi người đều thấy việc đến dự buổi lễ là rất vui và thú vị. Sarah có ý tưởng tổ chức lễ gây quỹ từ thiện này là cũng có nguyên do. Chính các bác sĩ sản khoa đã cứu sống con gái bà, Molly, khi bà sinh con sớm ba tháng. Molly là con gái đầu của Sarah. Trong thời gian thai nghén, mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Với tuổi ba mươi hai, Sarah luôn cảm thấy sức khỏe mình rất tốt, bà nghĩ chắc sẽ không có gì nguy hiểm xảy ra. Thế rồi vào một đêm trời mưa, bà chuyển bụng, bệnh viện không thể ngăn được bà đẻ non. Hôm sau Molly chào đời, cô bé sống trong lồng kính hai tháng trời tại phòng hồi sức của Bệnh viện Nhi đồng, với Sarah và chồng bà là Seth bên cạnh. Sarah ở tại bệnh viện cả ngày lẫn đêm, và họ đã cứu sống Molly. Bây giờ cô bé đã ba tuổi, mạnh khỏe, vui vẻ và chuẩn bị vào trường mẫu giáo đầu mùa thu này. Đứa con thứ hai của Sarah là Olliver - thường gọi Ollie - ra đời vào mùa hè vừa qua mà không gặp rắc rối gì. Cậu bé bây giờ đã được chín tháng, bụ bẫm, dễ thương và cười luôn mồm. Các bé là nguồn vui của Sarah và chồng bà. Sarah ở nhà để chăm sóc con, hoạt động quan trọng duy nhất của bà là hàng năm tổ chức ngày lễ gây quỹ từ thiện này. Công việc tuy có khó khăn và bề bộn, nhưng bà luôn hoàn thành có một cách hoàn hảo. Sarah và Seth gặp nhau tại Trường Kinh doanh Stanford cách đây sáu năm, và sau đó họ từ giã New York. Sau khi tốt nghiệp, họ cưới nhau và ở lại San Francisco. Seth có việc làm ở Silicon Valley, và ngay sau khi Molly ra đời, ông lập quỹ đầu tư đa chiều. Sarah không tham gia công việc này. Bà có thai Molly ngay vào đêm đầu tiên sau ngày cưới, bà muốn ở nhà để nuôi dạy con cái. Trước khi vào học Trường Kinh doanh Stanford, Sarah đã làm nhà phân tích thị trường Wall Street tại New York năm năm. Bà muốn nghỉ làm vài năm để dành trọn thì giờ cho việc làm mẹ. Seth làm tốt công việc quỹ đầu tư đa chiều của ông nên bà không cần phải đi làm. Với tuổi ba mươi bảy, Seth đã tạo nên được một gia tài kếch sù, trở thành ngôi sao sáng chói trên bầu trời tài chính, cả ở San Francisco lẫn New York. Họ mua ngôi nhà rộng lớn đẹp đẽ nhìn ra vịnh ở Pacific Heights, trong nhà trang hoàng đầy những hoạ phẩm đương đại nổi tiếng như của Calder, Ellsworth Kelly, de Kooning, Jackson và nhiều tác giả vô danh khác. Sarah và Seth sống thoải mái ở San Francisco. Họ dễ dàng di chuyển chỗ ở, vì bố mẹ Seth đã mất từ lâu, còn bố mẹ của Sarah đã dọn đến ở tại Bermuda, cho nên không có động cơ nào đủ mạnh để níu chân họ ở lại New York. Một quỹ đầu tư đa chiều cạnh tranh, đã đề nghị Sarah về cộng tác với họ, nhưng bà từ chối chỉ muốn dành thì giờ nuôi dạy Molly và Olliver - và chăm sóc Seth khi ông rãnh rỗi công việc. Ông vừa mua chiếc máy bay G5, để bay đi L.A, Chicago, Boston, và New York. Cuộc sống của họ sung túc đầy đủ và hạnh phúc. Thỉnh thoảng Sarah có hơi lo vì họ xài tiền quá nhiều, họ có một ngôi nhà tuyệt vời tại Tahoe, một ngôi nhà trong thành phố và có máy bay riêng. Nhưng Seth nói không sao. Ông bảo rằng tiền họ làm ra chân chính, cứ tiêu pha thoải mái, khỏi thắc mắc lo âu gì cho mệt. Seth đi chiếc Ferrari, còn Sarah dùng chiếc Mercedes Station Wagon, rất tiện lợi chở hai con theo, nhưng bà vẫn để ý đến chiếc Range Rover sẽ được bán đấu giá vào đêm nay. Bà đã nói với Seth rằng chiếc xe ấy rất tuyệt, nhất là ý định đóng góp tiền cho quỹ từ thiện đã khiến cả hai người quan tâm đến chiếc xe. Dù sao thì các bác sĩ thuộc phòng trẻ sơ sinh đã cứu sống Molly. Nếu con gái họ ở trong một bệnh viện có kỹ thuật kém hơn, ít thuốc men tốt hơn, thì chắc cô bé Molly của họ đã không sống được. Sarah nhớ mãi công đó nên bà tổ chức lễ gây quỹ phúc lợi này. Ban tổ chức sẽ giao cho bệnh viện số tiền thu được sau khi đã trả các chi phí. Seth bằng lòng cúng cho quỹ từ thiện này hai-trăm-ngàn-đô-la với tên của hai vợ chồng. Ông là ngôi sao sáng trong bầu trời của bà. Họ đã lấy nhau bốn năm và sẽ có thêm đứa con nữa. Trong ba tháng qua, bà đã bận rộn công việc tổ chức lễ gây quỹ phúc lợi. Họ đã thuê sẵn chiếc du thuyền ở Hy Lạp trong tháng tám, Sarah nghĩ rằng đây là thời gian rất thuận lợi để bà có thai đứa con thứ ba. ... Mời các bạn đón đọc Những Trái Tim Vàng của tác giả Danielle Steel.