Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Betty Đen

Với những người Mỹ da đen, thời điểm lúc này là trông chờ một tín hiệu lạc quan. Thế nhưng chàng cựu thám tử Easy Rawlins lại nhìn thấy hiện tại đen tối, tương lai mù mịt. Bình thường gã phải ném quăng trả lại hai tờ trăm đô la vô mặt tên cớm nhếch nhác này, hắn là một tên cớm da trắng đang cần gã truy tìm tung tích nàng Betty đen kiều diễm nước da ngăm đen, quyến rũ như một phụ nữ đa tình mơ ước được giàu sang và chiếm đoạt bọn đàn ông. Nàng giã từ khu phố Fifth Ward ở Huston để đến đô thị sang trọng của giới thượng lưu ở Beverly Hills. Còn nhiều bí ẩn Easy chưa nghe kể, thế mà gã không thể từ bỏ ý định gặp lại nàng Betty cho dù phải liều mạng. *** Bộ sách về Easy Rawlins gồm có:  Con Quỷ Áo Xanh Bướm Trắng Nàng Betty Đen ... *** Walter Mosley là nhà văn Mỹ da đen, tác giả nhiều tập truyện trinh thám huyền ảo. Ông là một tác giả được tổng thống Bill Clinton ưa chuộng nhất với lối viết trang nhã, lôi cuốn người đọc. Nhân vật chính trong những tập truyện trinh thám của ông là nhà thám tử Easy Rawlins. Ông đã từng được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn trinh thám Mỹ, thành viên Ban giám khảo giải sách hàng năm, sáng lập viên Hội sách Trung tâm văn bút Mỹ. Hiện ông là nhà văn trinh thám hàng đầu ở Mỹ, tác phẩm của ông được báo New York Times xếp hạng bestseller. Liền sau đó các tác phẩm nổi tiếng ra đời: Cái chết đỏ; Nàng Betty đen; Bướm trắng; Thủ lĩnh Jones v.v... *** Bọn chúng đang đứng chờ dưới ánh đèn vàng trong ngõ hẻm phía sau quán rượu John. Gã Bruno Ingram, biệt danh Bàn Tay Lớn, thân hình vạm vỡ đang đứng im với vẻ mặt vênh váo. Gã mặc bộ đồ vét may bằng hàng mohair, phía trong không có áo sơ mi, đầu để trần. Tay đứng gần bên dáng người nhỏ con, trông bộ đồ bó sát người sáng như bạc, tôi đoán loại hàng nhập của Ý. Tôi đứng núp sau lối của ra vào lắng nghe bọn chúng trao đổi một lúc. “…Dodge thua cuộc” - Mouse - tên nhỏ con vừa nói. Trông hắn có vẻ hài lòng. - Cậu còn nợ mình hai lăm cent. “Đến đây, Sooky” - một giọng nói vô hình vẳng lên từ giữa đường phố. Giọng nói một chàng thanh niên. “Đâu có, Alfred” - một giọng nói của phụ nữ trả lời nghe rõ từng tiếng. Nhưng đoạn sau, tôi không nghe được nàng nói gì. Gã Bruno đổi giọng: - “Cút đi ngay, đồ âm binh”. Tôi quay lại, một cảm giác sợ hãi trỗi dậy trong người - Mẹ kiếp! Mi bú con… đen thui của tao đây nè. Tôi muốn la lên một tiếng, nhưng cổ họng như nghẹn lại. Mouse xô đẩy Bruno, hắn chỉ muốn giữ một khoảng cách vừa đủ để rút khẩu súng ngắn nòng 41 ra. Bruno nhếch mép cười chợt vẻ mặt gã biến sắc như đứa trẻ lên tám có tội. Phát súng vừa vang lên gã đã lùi lại phía sau cả thước, hai bàn tay chìa ra phía trước y như gã mộng du trong truyện tranh. Người gã muốn ngã nhào xuống đất, khẩu súng trên tay Mouse, tiếp tục nhả đạn đẩy lùi Bruno dạt về phía cửa sau nhà hàng. Chợt nghe một tiếng thét vang lên, tôi bước đi loạng choạng giật lùi về phía cửa ra vào. *** Tôi giật mình choàng dậy giữa đêm khuya. Tôi ngỡ ngàng không rõ mình đang ở đâu. Tôi đang nằm trên tấm nệm thật êm, giương tay tìm chiếc đồng hồ nhưng bàn để đầu giường đâu mất. Tôi té ngã từ trên chiếc ghế ở bên ngoài bãi cỏ xuống thềm nhà. Rồi tôi nhớ lại không khí bên trong nhà nóng nực. Bọn trẻ Jesus và Feather phải cho chạy chiếc quạt gió từ ngoài cửa sổ thổi vào buồng ngủ của Jesus. Tôi hay thức giấc lúc hai giờ sáng, và lúc nào người tôi cũng ướt nhem mồ hôi. Tôi ngồi ngay dậy cố xua đi cơn ác mộng. Chuyện đó đã qua năm năm, cứ mỗi tháng tôi nằm mơ thấy cái chết của Bruno một lần, nhưng dạo sau này lại thường hơn. Tôi không thể quên được hình ảnh thằng bạn thân nhất, không thể quên được giây phút khi súng dồn Bruno vào chân tường. Tôi muốn nghĩ đến những chuyện tốt đẹp hơn. Đó là hình ảnh ngài Tổng thống người Ai- len, chuyện ngài Mục sư Martin Luther King, tình hình thế giới đang đổi thay và chuyện một anh chàng da đen sống ở đất Mỹ được công nhận là một người công dân chân chính trải qua mấy trăm năm nay. Trong cái thế giới đó, đang rung chuyển mỗi ngày vì các vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất và chiến tranh chực chờ bùng nổ. Tôi đi ra phố, chợt thấy thằng bạn cũ Martin Smith nằm chết phơi thấy trên đường. Hắn là đứa học trò được thầy giáo quan tâm nhất. Tôi định đến thăm hắn từ lâu nhưng không hiểu vì sao tôi cứ tránh mãi. Tôi đang đứng giữa trời. Gió tháng chín càng thổi gắt. Gió mỗi lúc một nóng bức như đang thiêu đốt tâm hồn tôi. Tôi tưởng chừng như nghẹt thở hơn nhưng chẳng ai ngó ngàng tới - tất cả đều bỏ mặc tôi với cái xác chết vô tội kia nằm ngoài đường phố tối om. Nhìn về phía trên kia đường, vệt nắng sớm mai trải dài lấp lánh trên nóc, dãy nhà. Thật là một ngày tươi đẹp lại đến, nhưng không phải ai cũng được diễm phúc đón nhận. Gã Bruno đã yên phần dưới nấm mồ năm năm rồi, còn Mouse thì đang rên siết trong nhà tù ở Chino vì can tội ngộ sát. Tôi cũng là một tù nhân đây. Tù nhân của tội lỗi, tù nhân của vô thức. “Có phải ông Rawlins?” - giọng nói lạ vừa cất lên. Tôi lại giương tay tìm khẩu súng ngắn để trên bàn tại đầu giường. Nhìn lại tôi không còn ở trong phòng ngủ. Tôi đang trần truồng, không có chăn đắp, nằm một mình trong bóng đêm ngoài trời. Tay tôi nắm lấy cái gạt tàn bằng đất sét Jesus nắn nót làm ra trong những ngày đi trại hè. “Ai vậy kìa?” - tôi cố giữ vẻ bình thản. Tôi nhìn rõ bóng hình in trên tấm màn cửa là một gã đàn ông. Tôi giật lấy tấm drap dưới sàn quấn vào thắt lưng mình. “Saul Lynx đây! Thưa ông Rawlins” - Tôi biết hắn là một tên da trắng. - “Ông có thể nói chuyện một chút được chứ?”. “Hở? Sao?” - Tay tôi nắm chặt cái gạt tàn đất sét đến nỗi bể vụn nghe răng rắc. “Tôi biết giờ này còn sớm” - tên da trắng vừa nói “Nhưng tôi cần phải gặp ông. Tối qua mới biết được tên ông. Tôi đứng chờ bên ngoài lần theo địa chỉ từng nhà, lúc tìm ra được thì ông đã lên giường ngủ. Ông biết đó, cho đến bây giờ tôi mới nói cho ông nghe được”. “Vậy sao ông không cút đi sáng mai trở lại đây có được không?”. Tôi dồn tất cả sức mạnh vào cánh tay để ném cái gạt tàn qua tới chỗ màn cửa. Nếu thò tay đẩy then cửa thì chỉ có nước chết. Gã không tỏ vẻ giận dữ, gã lại nói “Tôi đến đây giới thiệu cho ông một chỗ làm. Nội bữa nay - sáng hôm nay. Ông có thể mở đèn cho sáng sủa được chứ?”. Tôi không muốn ai nhìn thấy mình đang trần truồng. Tôi rất dị ứng nếu có ai nhìn thấy được da thịt tôi. Tôi muốn nằm im một chỗ trong bóng tối tôi chợt hiểu ra tôi không thể im lặng một khi có ai đó đã biết mình đang ở đâu. Tôi quân tấm drap quanh người như chiếc áo choàng dân châu Phi rồi bước tới sau cánh cửa và bật đèn. Tôi nhìn thấy Lynx đứng núp dưới ánh đèn mờ nhạt phía ngoài tấm màn che. “Cho phép tôi vô nhà được chứ?” - Gã vừa cất tiếng. “Ông vô đây”. - Tôi gắt giọng Người gã nhỏ thó mặc bộ đồ vét màu nâu nhạt, thắt cà vạt nâu để hờ. Chiếc mũi to nổi bật trên khuôn mặt xấu xí, nhô lên một đống. Hắn đội mũ màu nâu, mặc bên trong chiếc áo sơ mi trắng tiệp với nước da nhợt nhạt. Đôi mắt hắn xanh sáng rỡ. Thấy tôi, Saul Lynx cười gật đầu, tôi không thèm bắt tay hắn. “Ông không cần phải bắt tay”. - Gã đứng nhìn theo chiếc gạt tàn. - “Tôi không ngạc nhiên khi ông ngủ ngoài trời. Hồi còn nhỏ, những ngày hè nóng bức tôi ngủ ngoài cầu thang thoát hiểm thích hơn là ở trong nhà”. “Ông cần việc gì đây?”. - Tôi gắt giọng vì tôi không còn kiên nhẫn để nói chuyện vớ vẫn. “Như tôi đã nói” - gã nhắc lại, giọng lạnh tanh. “Tôi đến đây giới thiệu ông một việc làm. Tôi có một thân chủ đang cần gấp người đi tìm một phụ nữ mất tích”. Ngoài đường phố Genesee, trời đã sáng tỏ. Tôi nhìn thấy rõ bóng cây minh quyết bên kia đường và bãi cỏ cắt xén gọn của nhà hàng xóm. “Ta ngồi xuống nói chuyện được không?” - Saul Lynx gợi ý với tôi. “Có việc gì quan trọng, ông nói cho hết rồi ra về. Tôi có con nhỏ nên không thích người lạ vào nhà như thế này”. Nhìn Saul Lynx cười tôi ngỡ đâu hắn là nhân viên mai táng thành tâm cười tiễn đưa người chết. “Ông có nghe nói tên một người phụ nữ là Elizabeth Eady bao giờ chưa?” - gã hỏi. Nghe qua, tôi chợt nhớ lại từ cõi vô thức. Nó trùng hợp với thời điểm tháng Chín mùa ẩm thấp cùng với những giấc mơ hàng đêm. “Bà sống ở L.A. hai mươi lăm năm nay, quê quán thì ở Houston”, gã kể lại. - “Hình như là hàng xóm với ông. Tôi còn giữ một tấm ảnh đây”. - Gã chìa ra một tấm ảnh cũ mèm. Tấm ảnh sẫm màu nâu nhạt thay vì ảnh đen trắng. Ảnh chụp theo kiểu lấy liền. Người phụ nữ trẻ đứng trước thềm cửa ngôi nhà nhỏ hẹp. Nàng cười đứng tựa lưng một bên cửa có vẻ ngượng nghịu. Thân hình nàng cao ráo, nước da ngăm ngăm, cho dù có tô một lớp phấn hồng cũng không che được màu da sạm của nàng Betty. Môi miệng nàng hé mở như muốn trêu ghẹo anh chàng phó nhòm. Black Betty không phải là mẫu người phụ nữ đảm đang, mà là mẫu người thích chơi bạo. Nhiều tay đã gục ngã dưới chân nàng. Nếu ai có một người bạn theo tán tỉnh nàng Betty thì hãy khóc giùm cho hắn, bởi nếu không chết thì cũng bị thương. Nàng có ma lực dìm đắm đàn ông và nàng không che giấu cái ma lực đó. Nếu gặp một tay chơi mời nàng đi ăn uống, nàng ít khi từ chối. Bất kỳ ngày nào, thứ Hai, Ba, Tư, Năm - chơi suốt đêm. Betty không thích ngồi lì một chỗ, nếu qua ngày thứ Sáu túi tiền hắn rỗng tuếch - y như rằng Betty bỏ đi ngay. Từ trước đến giờ ít có tay chơi người da màu nào dám bao nàng ăn chơi xả láng. Tại nhà nàng ong bướm dập dìu hàng đêm. Nàng có thể làm tình với bọn da đen một tuần ba đêm là chuyện thường. Tôi đã từng nhìn thấy nàng lê bước chệnh choạng trên hè phố lát gỗ ở khu Houston Fifth Ward. Thuở đó tôi là một thằng nhóc mười hai tuổi ăn mặc lôi thôi, còn nàng đã là một phụ nữ chững chạc. Nàng mặc áo viền đăng ten màu đen, mang găng tay áo choàng lông thú. Đứng gần bên nàng, ngửi thấy mùi hương thơm nồng nàn tôi quên mất mình là ai. Hôm đó tôi đang đứng bên ngoài quán bar Corcheran ở phố Blanford Street. Lúc đó tôi cảm thấy thật khó chịu, lỗ mũi nóng ran. “Mày nhìn gì đó, nhóc kia?” - nàng quay hỏi tôi. “Nhìn bà đó”. “Mày thích nhìn cái gì?” Tôi phải lấy giọng mới nói ra được “Ờ… ờ… phải. Có lẽ bà đẹp nhất trên đời này”. “Có lẽ?”. Tôi chới với. Đáng lý tôi phải khen nàng là người đẹp nhất trần gian. Chỉ có nàng đẹp nhất thôi. Tôi đã bỏ lỡ dịp may được nói chuyện với nàng một lần nữa. “Lại đây, cưng” - người tình nàng vừa cất tiếng. Thay vì nghe theo, nàng bước lại hôn tôi - quanh môi. Nàng thè lưỡi ra khi tôi chưa kịp há miệng. Nàng buông ra lùi lại, tôi té nhào xuống đất. Bọn chúng đứng cười nhìn theo tôi, chỉ riêng Betty không thèm cười. Nàng đắm đuối vì đã áp đảo được tôi. Có một lúc nào đó tôi sẽ té nhào vì nàng một phen nữa, hoặc có khi lọt ra ngoài cửa sổ vì được nàng hôn. “Ông biết nàng chứ, ông Rawlins” - Saul Lynx hỏi. Tôi đang ngắm bức ảnh thì Dawn vừa tới. Tôi nhìn thấy chiếc xe chạy ngang qua bỏ báo ngoài sân và nhà bên cạnh. Vừa lúc đó một người đàn bà da trắng nhanh chân bước ra nhặt tờ báo. Đó là bà Horn, bà thường mất ngủ nên tính hay bồn chồn nôn nóng. Có lẽ bà ngồi chờ xe đưa báo chạy ngang qua từ nãy giờ. “Tôi không nhớ ra nàng”, - tôi đáp. “Được rồi…” - Gã nói giọng dề dà như thể không tin. - “Thôi được, chẳng sao cả. Ông chỉ cần tìm quanh trong khu phố người da màu thôi. Chúng tôi chỉ cần có vậy”. “Chúng tôi là ai vậy?” “Ông chỉ cần biết tôi là đủ rồi”. “Nàng làm nghề gì?” “Chả có nghề gì cả. Theo tôi biết, nàng giúp việc cho một bà suốt thời gian còn ở đây. Nhưng rồi câu chuyện bắt đầu từ đấy. Nàng Eady xin nghỉ việc, nay người chủ cũ gọi về lại”. - Saul Lynx nhếch mép cười đưa tay sờ mũi theo thói quen. - “Nàng không để lại địa chỉ liên lạc và trong danh bạ điện thoại không có tên Elizabeth Eady”. “Nàng làm việc cho ai?” “Tôi không cho phép tự nói ra được”. “Ơ… ơ… Ông tính trả công tìm được nàng là bao nhiêu?” “Hai trăm đô la đưa trước, tìm được nàng lãnh thêm hai trăm nữa”. Gã chỉ tay về phía tôi “Ông phải tiến hành ngay”. Theo tôi biết, người phụ nữ đứng ra trả tiền đang nôn nóng tìm cho được nàng Eady”. “Lấy gì làm bằng chứng ông biết rõ chuyện đó?” “Đấy, ông thấy chưa”, gã nói như muốn được thông cảm. “Tôi chưa hề gặp bà ấy. Bà ấy không quan hệ với các nhà thám tử. Luật sư riêng của bà ấy đứng ra nhờ tôi”. - Nói xong gã rút ra một xấp bạc đưa qua tôi. Tay tôi đang giữ cái gạt tàn còn tay kia cầm tấm ảnh. “Hai trăm đô la ứng trước”, gã vừa nói. Số tiền lớn hơn cả tài khoản tôi gửi trong băng. Đã có lúc tôi mừng vì có được thu nhập từ việc cho thuê một căn hộ chung cư. Năm 1948 nhờ món tiền trời cho, tôi tậu được cơ ngơi. Nhưng do lao vào mua bán nhà đất nên bị phá sản. Tôi cho thuê căn nhà đang ở. Mỗi tuần lễ ăn uống kham khổ thắt lưng buộc bụng cũng vừa đủ sống. Tôi buông cái gạt tàn xuống đỡ lấy xấp tiền. Tôi sờ thấy hơi ẩm vì gã vừa rút trong túi quần ra. “Tôi sẽ lo cho”, - tôi nói cho có. - “Tôi phải đi gặp ông luật sư đó trước rồi sẽ báo cho ông hay sau. Tên ông ta là gì nhỉ?”. “Chờ khi nào ông làm được việc rồi mới nói chuyện đó sau. Tôi sẽ cho ông ta hay là ông cần gặp có chút việc”. - Gã chẳng cần quan tâm đến ý kiến tôi vừa nêu, gã nói tiếp - “Nếu luật sư đồng ý gặp thì liên lạc với ông bằng cách nào?”. Tôi đọc số máy điện thoại gã nghe xong gật đầu. “Làm sao ông tìm ra tôi, ông Lynx. Địa chỉ tôi không nằm trong sổ danh bạ?” “Tên tuổi ông ai mà không biết, thưa ông Rawlins”. Gã móc ở túi sau chiếc ví cũ mèm ra. Gã lôi ra một tấm danh thiếp nhăn nheo cáu bẩn. Chỉ nhìn thấy số điện thoại, địa chỉ bờ biển ở Venise in nét chữ đen lấm tấm dấu mốc meo. Còn tên tuổi không thấy đâu. “Tên chỉ có vậy L- Y- N- X”, gã nói. “Khi nào tìm được cho tôi hay. Càng sớm càng tốt”. “Ông sẽ nghĩ sao nếu tôi không nhận số tiền này? Và vì vậy nên ông còn nợ tôi một việc”. Saul Lynx nhìn thẳng vào mắt tôi, nụ cười điềm nhiên trên gương mặt gã vụt biến. - “Biết đâu tôi nghĩ sai, nhưng tôi dám cuộc ông là mẫu người nói là làm. Dù sao còn có thêm hai trăm đô la nữa kia mà”. “Thế được rồi, nhưng làm sao ông dám tin tôi có thể tìm ra được một người phụ nữ lẫn trong số hai triệu rưỡi người kia? Ông nên cho tôi biết đôi diều về đối tượng đang tìm kiếm chứ”. - Tuy nói vậy nhưng tôi đã biết mọi ngõ ngách tìm ra nàng Betty, tôi chỉ muốn dò la gã da trắng này đã biết được những gì. Gã biết ý tôi định nói gì. Nụ cười thoáng hiện trên gương mặt gã. Chợt gã lắc đầu. “Tiếc là, ông Rawlins, tôi chỉ biết nàng có bạn bè trong xóm dân Negro. Biết đâu có người sẽ nhận ra nàng qua tấm ảnh ông đưa ra”. Tôi định trả tiền lại, chợt tôi nghĩ biết đâu gã sẽ đoán được ý đồ rằng tôi cũng đang khao khát nhìn lại nàng Betty, khi đã là một chàng trai chững chạc. “Tôi sẽ nói chuyện đó sau” - tôi đáp. Lynx đưa tay sờ trán giả vờ thân mật đáp chào. “Nhờ đấy”, gã nói. - “Tôi mong được tin sớm”. Gã nhếch mép cười rồi bước ra. Tôi dưng nhìn theo cho đến lúc gã ngồi vào trong chiếc xe ô tô nhỏ xíu sơn màu nâu. Gã vừa phóng xe đi, bà Horn bước ra - mặt mũi có vẻ bàng hoàng. Lúc nhìn thấy tôi quàng tấm drap quanh mình đứng ngoài trời vẻ mặt bà chợt biến sắc. Tôi không biết bà nghĩ gì trong đầu. Tôi cười gọi với theo, bà không nghe vội vã chạy vào nhà. Tôi cúi xuống nhặt từ báo lên liếc qua mấy hàng tin trên đầu. Nước Nga vừa cho nổ vụ thứ hạt nhân lần thứ ba trong một tháng. Mời các bạn đón đọc Nàng Betty Đen của tác giả Walter Mosley.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Công Viên Trung Tâm - Guillaume Musso
Với “Central Park”, Guillaume Musso tạo nên một cuộc gặp giữa hai kẻ xa lạ. Ông đưa người đọc đến xúc cảm mãnh liệt nhất, mà chúng ta có thể cảm nhận được màn đấu trí căng thẳng. Một sớm mai thức dậy, Alice Schäfer- nữ cảnh sát thuộc đội hình sự Paris, bỗng phát hiện ra mình đang ở trong một khu rừng, tay bị còng vào tay người đàn ông lạ mặt. Cổ áo sơ mi cô đang mặc có một vết máu lạ, khẩu súng hiệu Sig Sauer quen thuộc biến mất, thay vào đó là một khẩu Glock 22. Sau khi Gabriel Keyne - người bị còng chung với cô, đồng thời là một nghệ sĩ dương cầm nhạc jazz tỉnh lại, Alice mới biết một sự thật đáng kinh ngạc: cô không ở Pháp, mà đang ở New York, cách Paris 8 giờ bay. Làm sao cả hai con người xa lạ ấy có mặt ở Central Park? Khi một người quả quyết rằng tối qua mình đã đến đại lộ Champs- Elysées để tiệc tùng cùng các cô bạn gái. Còn người kia chắc chắn rằng tối qua mình chơi nhạc tại một quán bar ở Dublin. Không tiền, không điện thoại di động, tất cả các giấy tờ tùy thân đều mất sạch; hai con người xa lạ ấy đang bị đặt vào một tình thế hết sức nguy hiểm và họ chỉ còn một cách duy nhất là bắt tay hợp tác với nhau. Manh mối mà họ có chỉ là một dãy số nguệch ngoạc được viết trên bàn tay của Alice và một dãy số được khắc trên cánh tay Gabriel. Họ cảm thấy nguy hiểm hơn khi phát hiện có ai đó đã bí mật gắn thiết bị định vị GPS trong giày và áo khoác của mình. Những manh mối dần dần được lật mở, tất cả chúng khiến Alice nghĩ đến một cái tên: Erik Vaughn. Hắn là một tên giết người nguy hiểm, kẻ đã gây ra hàng loạt vụ giết người ở Paris cách đây 3 năm. Nhưng kẻ gây ra tất cả mọi chuyện liệu có phải là tên Erik Vaughn? Và liệu anh chàng Gabriel kia có thực sự đáng tin? Dù sao Alice cũng phải hợp tác với anh ta vì đó là lựa chọn duy nhất của cô. Càng điều tra, những bí mật khủng khiếp nhất dần được hé lộ. Đâu mới thực sự là kẻ thù mà Alice phải chống lại? Central Park là sự kết hợp tài tình giữa một một cuốn tiểu thuyết trinh thám nghẹt thở và một câu chuyện lãng mạn. Việc sắp xếp các tình huống một cách hợp lý, có lớp lang đã giúp tác phẩm có những “nút thắt” bất ngờ, hấp dẫn người đọc. Tác giả khéo léo đan cài giữa quá khứ và hiện tại tạo nên một không gian đa chiều, giàu chất điện ảnh cho tác phẩm. Đọc tiểu thuyết của Guillaume Musso, khiến người đọc liên tưởng đến những bọ phim trinh thám kinh điển của đạo diễn thiên tài Alfred Hichcock như: Dial M for Murder, Rear Window hay Spycho. *** Guillaume Musso, sinh năm 1974 tại Antibes (miền Đông nước Pháp), hiện đang là giáo viên chuyên ngành kinh tế. Say mê văn học từ thuở nhỏ, anh bắt tay vào viết văn khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học. Văn chương của Guillaume Musso được ví như sự kết hợp hoàn hảo giữa Marc Levy và Stephen King, đậm màu sắc liêu trai, hấp dẫn, bất ngờ và lãng mạn mê đắm, tiệm cận chiều sâu tâm hồn mỗi con người.   Những tác phẩm tiêu biểu của Guillaume Musso là: Skidamarink, Rồi sau đó…, Hãy Cứu Em, Hẹn Em Ngày Đó, Bởi Vì Yêu. Bảy Năm Sau Ngày Mai Nếu Đời Anh Vắng Em Cô Gái Trong Trang Sách Trở Lại Tìm Nhau Cuộc Gọi Từ Thiên Thần Giây Phút Này Central Park ... Tác phẩm của Gaulliaume Musso đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, và một số đang được dựng phim. Guillaume Musso được xem là hiện tượng best-seller của văn chương Pháp hiện tại. *** -      Khốn kiếp! Gabriel kêu lên thảng thốt, trong khi gương mặt Alice lộ rõ vẻ kinh ngạc. Ngay cả khi sự thật khó mà chấp nhận nổi thì lúc này cũng không còn nghi ngờ gì nữa. Họ đã thức giấc ngay giữa "Chốn ngao du", địa điểm hoang dã nhất của Central Park. Một khu rừng đích thực rộng mười lăm héc ta trải rộng đến phía Bắc hồ. Tim họ hòa chung nhịp đập, nện thình thịch trong lồng ngực. Trong lúc tiến lại gần bờ hồ, họ bước trên một lối đi náo nhiệt, điển hình cho không khí sôi động của công viên vào đầu giờ sáng. Những tín đồ chạy bộ thể dục hòa hợp với những người đạp xe, những môn đồ của Thái Cực Quyền và những người dắt chó đi dạo. Thế giới âm thanh đặc trưng của thành phố dường như đột nhiên bùng nổ bên tai họ: tiếng xe cộ qua lại ồn ã, tiếng còi xe, tiếng còi hụ của xe cứu hỏa và xe cảnh sát. -      Điên thật rồi, Alice khẽ thốt lên. Cảm thấy bất ổn, cô cố gắng suy nghĩ. Cô muốn chấp nhận rằng tối qua cả Gabriel lẫn cô đều đã quá chén, đến mức quên mất đêm qua đã diễn ra những sự việc gì. Nhưng riêng chuyện người ta có thể cưỡng ép đưa họ lên máy bay thì thật khó hình dung. Alice thường tới New York nghỉ hè cùng Seymour, đồng nghiệp và cũng là bạn thân nhất của cô. Cô biết một chuyến bay Paris-New York kéo dài hơn tám tiếng một chút, nhưng vì chênh lệch múi giờ, nên hai nơi chỉ cách nhau hai tiếng. Khi họ bay cùng nhau, Seymour thường đặt chỗ trên chuyến bay 8 giờ 30 tại sân bay Charles-de-Gaulle, hạ cánh tại New York lúc 10 giờ 30. Cô cũng nhớ rằng chuyến bay đường dài muộn nhất thường rời Paris trước 20 giờ một lúc. Thế mà tối qua lúc 20 giờ, cô vẫn còn ở Paris. Vậy thì Gabriel và cô hẳn đã bay một chuyến bằng máy bay riêng. Cứ cho là người ta đã đưa cô lên một chiếc máy bay lúc 2 giờ sáng tại Paris, cô sẽ tới New York lúc 4 giờ, giờ địa phương. Đủ để thức dậy tại Central Park lúc 8 giờ. Xét về mặt giấy tờ, điều này không thể xảy ra. Trên thực tế lại là một chuyện khác. Ngay cả trên một chuyến bay riêng thì những thủ tục hành chính để nhập cảnh vào Mỹ cũng lâu và phức tạp. Toàn bộ chuyện này tuyệt nhiên không ăn khớp. -      Oups, sorry! Một nam thanh niên đi giày trượt pa tanh vừa xô phải họ. Vừa xin lỗi, anh chàng vừa liếc về phía cặp còng với ánh mắt sững sờ xen lẫn ngờ vực. Tâm trí Alice bùng lên một tín hiệu báo động. -      Chúng ta không thể ở lại đây, bất động trước mắt những kẻ hiếu kỳ được, cô cảnh báo. Chưa đầy một phút nữa cảnh sát sẽ xô tới bắt chúng ta. -      Cô có ý tưởng gì chăng? -      Cầm lấy tay tôi, nhanh nào! -      Hả? ... Mời các bạn đón đọc Công Viên Trung Tâm của tác giả Guillaume Musso.
Kẻ Giết Người Được Giải Goncourt - Pierre Gamarra
“Minh bạch - đó là sự lịch thiệp của nhà văn.” - Jules Renard "Kẻ giết người được giải Goncourt" của nhà thơ, nhà văn Pierre Gamarra là quyển sách lạ ở thể loại trinh thám, không anh hùng hiệp sĩ, không kinh điển hào nhoáng… nhẹ nhàng mà kịch tính. Một thành viên trong ban giám khảo giải thưởng văn học Goncourt đã nhận được 1 bản "Sự im lặng của Harpocrate" (Harpocrate - Thần Im Lặng). Tác phẩm được đánh máy và ký tên Paul Doubois ở dưới. Tác phẩm đoạt giải mà tác giả lại không xuất hiện tại buổi lễ. Ban giám khảo hàn lâm viện Pháp bị đưa vào tình thế khó xử, cánh báo chí thì bắt đầu giơ nanh vuốt ra. "Sự im lặng của Harpocrate" là một cuốn tiểu thuyết vượt hẳn tất cả những gì mà người ta có thể tưởng tượng được, ban giám khảo nói rằng đấy là một tuyệt tác và quyển sách đã gây cho họ một ấn tượng đặc biệt. Ở trên một trong những đường phố nhỏ mà thường là im ắng và vắng lặng có một người buôn sách cũ tên là Muet bị giết. Ông ta bị giết bởi ba phát súng lục. Tội ác do tác giả, nghĩa là kẻ đã kể lại chuyện này thực hiện. Nguyên nhân là sự căm ghét không thể giải thích được. Đó là nội dung cơ bản của cuốn tiểu thuyết. Gần 220 trang sách được dành cho việc giải thích rõ nguyên nhân thúc đẩy tác giả - kẻ giết người - gây tội lỗi. Tác giả đã giải thích rõ cái gì đã đẩy anh ta tới lòng thù hận như vậy. Nếu như một người đam mê đến mức mất cả lý trí và bản năng bảo tồn thì người đó có thể đi đến tội lỗi. Và tên giết người cũng xảy ra đúng như vậy. Hắn ta muốn đạt được vinh quang văn học, muốn cho tên mình xuất hiện trên tất cả các báo để tất cả phải ghen tỵ kêu lên khi gặp mình… Nhưng cho tới nay hắn ta hoàn toàn không gặp may. Cứ mỗi năm lại thêm một người đoạt giải còn hắn ta thì bị bỏ qua. Cuối cùng thì hắn ta phát điên lên và lập một kế hoạch thật kỹ lưỡng nhằm đoạt giải. Và kế hoạch đó suy tính một vụ giết người không tang chứng. Nguyên nhân thúc đẩy là giành cho được giải thưởng văn học Goncourt danh giá trong một hoàn cảnh thật không bình thường… trong sự huyên náo của báo chí… Ngoài ra còn là khát vọng không thể chối cãi được nhằm thách thức ban giám khảo và dư luận xã hội: Một khi các ngài không muốn trao vòng nguyệt quế mà tôi đã nhiều lần xứng đáng được hưởng, các ngài đã giành cho tôi cái vị trí xoàng xĩnh của một nhà văn không ai biết tới… Được rồi, tôi sẽ cho các ngài biết khả năng của tôi như thế nào, tôi sẽ chơi cho các ngài một vố đau… Tên giết người là một kẻ có đầu óc. Đầu tiên hắn ta phác thảo kế hoạch hành động chung: mô tả vụ giết người, trang điểm chuyện đó bằng những lý luận bên ngoài về văn chương, về tâm lý và phản triết học rồi sau đó thì thực hiện nó, thực hiện chính cái vụ giết người đã được vạch ra từ trước theo đúng nghĩa của từ đó. Một tội ác chỉ vì vinh quang văn học. Về bản chất, nó khá tiêu biểu cho thời đại của chúng ta… *** Pierre Gamarra (1919-2009) Nhà giáo ,nhà văn, nhà thơ kiêm phê bình văn học Pháp sinh tại Toulouse , gốc Basque. Ông từng làm chủ nhiệm tờ tạp chí Châu Âu ( Europe ). Ông đặc biệt nổi tiếng với thơ và truyện viết cho trẻ em. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông có như: “Sát nhân” (L’assasin) – 1963 đoạt giải Goncourt; “Những bí mật ở Toulouse” (Les mistères de Toulouse ) – 1967; “Hoa tử đinh hương ở Saint-Lazare” (Les lilas de Saint-Lazare) – 1951 v.v… *** Và thấy trời hửng sáng, nàng Shêhêrêdađa ngừng câu chuyện của mình... Nghìn lẻ một đêm Mấy bức tường trong phòng làm việc khá chật hẹp của Simonie xếp dày sách. Giống như Montaigne, Gaston Simonie gọi phòng làm việc của mình là cửa hàng sách. Một sự bừa bãi kinh khủng trên các giá sách. Như chính ông chủ nói, chỉ mình ông ta mới có thể biết rõ chúng. Những cuốn sách cực kỳ sang trọng đặt xen lẫn với những cuốn sách nhỏ, những cuốn sách đóng bìa đắt tiền phô trương cạnh những cái gáy sờn rách mà các trang sách thì đã cuộn xoắn tít bẩn thỉu. Trên mặt lò sưởi cũng để mấy chồng sách. Bàn làm việc chất đầy tạp chí, hàng chồng giấy viết chi chít và hàng núi sách khác. Khắp nơi đầy những đồ vặt vãnh: mấy con thú bé xíu bằng thủy tinh, bằng sành sứ, bằng thiếc. Đó là một thú vui của Simonie. Mỗi tuần một lần, và đôi khi còn thường xuyên hơn, mà mọi người đều biết rõ chuyện ấy, ông ta sục sao khắp các cửa hiệu buôn đồ cổ để tìm những đồ mới lạ khác. Đó là những con khỉ hẳng ngà voi, mấy ông Phật mấy pho tượng người hút thuốc nhỏ xíu hay là lại một cục chặn giấy khác nữa. Vào tối hôm đó có rất nhiều khách có mặt ở phòng làm việc của Simonie. Đó là một hiện tượng cực kỳ đặc biệt. Thường thường Simonie không cho phép ai vào phòng làm việc của mình, thậm chí cả bà quét dọn nữa và không bao giờ ông ta tiếp ai ở đây cả. Hiện giờ trong phòng làm việc có mặt Joseph Robenne, dĩ nhiên cả Max Bary, Tổng biên tập "Paris-Nouvelles", Rosie Sauvage, d’Arjean, Simonie, nhà văn Vollar, một chàng trai nhỏ con, đậm người với vẻ mặt chua chát và thêm hai viên thanh tra cảnh sát đã đến đây vì lý do đặc biệt. Joseph quay về phía Tên giết người. Hắn ta ngồi đó đầu gục xuống. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Được Giải Goncourt của tác giả Pierre Gamarra.
Giai Điệu Dưới Tầng Hầm - John Trinian
Giai Điệu Dưới Tầng Hầm mô tả một vụ tổ chức cướp sòng bạc được thực hiện ly kỳ và đầy nhân tính. Hai vai chính trong truyện là hai con người gần như hoàn toàn trái ngược nhau: Karl Heisler, người chủ mưu vụ cướp, gần suốt cả một đời vào tù ra khám và khi mãn hạn lần cuối thì đã năm mươi lăm tuổi với đôi bàn tay trắng. Yêu người vợ chung thủy già hơn tuổi vì quá nghèo khổ, thương đứa con trai độc nhất bị suy dinh dưỡng vì không đủ ăn, ông chỉ còn mơ ước thực hiện một vố thật lớn rồi giải nghệ để làm lại cuộc đời. Leeon Bertuzzi, chủ nhân sòng bạc, suốt hai mươi lăm năm phục vụ đắc lực cho "Nghiệp đoàn" không một lần sai sót để rồi bị cấp trên dùng một tay phụ tá trẻ loại trừ dần, tên này ngang nhiên cướp đoạt cả người vợ mà ông ta yêu hơn bất cứ gì trên đời, khiến ông ta chỉ còn cách âm mưu hạ sát kẻ thù, dù sau đó phải trả giá bằng cái chết... John Trinian sẽ dẫn dắt người đọc một cách say sưa từ khởi đầu cho đến kết thúc bằng một câu chuyện với những tình tiết đột biến, những cảnh tượng kỳ lạ, những cảm thương bàng bạc gần như không thấy rõ nhưng vẫn khiến cho ta xúc động. Xúc động cho những kiếp người khốn cùng trong một xã hội mà đồng tiền quyết định tất cả, do đó ngay cả những kẻ xấu cũng có vài nét đáng yêu, cũng vẫn là "người *** Mặc dù bị lên án, tệ nạn cờ bạc vẫn còn hoành hành nhiều nơi trên thế giới. Thậm chí, trong nhiều quốc gia phương Tây, tệ nạn này được đưa lên ngang hàng với nhiều ngành kinh tế khác: các sòng bạc được phép hoạt động công khai; và lẽ tất nhiên tất cả đều gian lận trong việc khai nạp thuế cho nhà nước. Do đó, ngoài tác hại khủng khiếp là khiến cho nhiều kẻ tán gia bại sản, nhiều con người đáng kính phải thân bại danh liệt, chúng còn làm băng hoại xã hội về nhiều mặt khác ở mức độ nghiêm trọng hơn. Để thỏa mãn lòng tham vô đáy và bảo vệ đồng tiền phi pháp đó, những tên chủ sòng bạc đã mua chuộc đủ các cấp của chính quyền địa phương và thành lập “Nghiệp đoàn” có uy lực bao trùm toàn quốc. “Tổng hành dinh” đặt tại các đô thị lớn như Las Vegas, một cái tên trên nước Mỹ mà có lẽ không một người nào không biết. Bất cứ một thành viên nào chống lại “Nghiệp đoàn” đều bị thanh toán một cách tàn nhẫn. Từ đó nảy sinh những tên côn đồ bảo vệ cho tổ chức này và nhiều tổ chức khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp như cho vay tiền lấy lãi thật nặng, hành nghề mãi dâm, v.v ... Về mặt nghiệp vụ cụ thể, các vần đề cất giữ tiền, vận chuyển tiền đã có nhiều phương pháp tinh vi, tài tình, tưởng chừng như tuyệt đối an toàn. So với các vấn đề tương tự trong ngành ngân hàng, ở đây còn khó khăn gấp bội vì tất cả đều phải tự thực hiện, mà không thể nhờ cơ quan cảnh sát giúp đỡ. Tuy nhiên, trên cõi đời này, đã có “vỏ quýt dày” tất có “móng tay nhọn”. Những con người thông minh, khi gặp những khó khăn “dường như” không thể vượt qua được, lại nổi máu phiêu lưu, quyết tâm thử trò chơi “trứng chọi đá”. GIAI ĐIỆU DƯỚI TẦNG HẦM mô tả một vụ tổ chức cướp sòng bạc được thực hiện ly kỳ và đầy nhân tính. Hai vai chính trong truyện là hai con người gần như hoàn toàn trái ngược nhau: Karl Heisler, người chủ mưu vụ cướp, gần suốt cả một đời vào tù ra khám và khi mãn hạn lần cuối thì đã năm mươi lăm tuổi với đôi bàn tay trắng. Yêu người vợ chung thủy già hơn tuổi vì quá nghèo khổ, thương đứa con độc nhất bị suy dinh dưỡng vì không đủ ăn, ông chỉ còn mơ ước thực hiện một vố thật lớn rồi giải nghệ để làm lại cuộc đời. Léon Bertuzzi, chủ nhân sòng bạc, suốt hai mươi lăm năm phục vụ đắc lực cho “Nghiệp đoàn” không một lần sai sót để rồi bị cấp trên dùng một tay phụ tá trẻ loại trừ dần, tên này ngang nhiên cướp đoạt cả người vợ mà ông ta yêu hơn bất cứ gì trên đời, khiến ông ta chỉ còn cách âm mưu hạ sát kẻ thù, dù sau đó phải trả giá bằng cái chết ... JOHN TRINIAN sẽ dẫn dắt người đọc một cách say sưa từ khởi đầu cho đến kết thúc bằng một câu chuyện với những tình tiết đột biến, những cảnh tượng kỳ lạ, những cảm thương bàng bạc gần như không thấy rõ nhưng vẫn khiến cho ta xúc động. Xúc động cho những kiếp người khốn cùng trong một xã hội mà đồng tiền quyết định tất cả, do đó ngay cả những kẻ xấu cũng có vài nét đáng yêu, cũng vẫn là “người”. Có lẽ chính vì vậy, một hãng phim liên doanh Pháp – Ý đã “phóng tác” câu chuyện này để quay thành một phim đặc sắc với hai bàn tài tử điện ảnh lừng danh thế giới của Pháp là JEAN GABIN và ALAN DELON với tựa đề khác với nguyên tác, mà người dịch đã lấy làm tên cho cuốn tiểu thuyết này. Cuốn phim đã được giới thiệu rộng rãi ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Saigon, v.v ... Trong “Những Ngày Phim Các Nước Cộng Đồng Kinh Tế Châu Âu (EEC)”. Trng quý 4 năm 1988. Chúng tôi đã dùng từ “phóng tác” bởi lẽ, vì một lý do nào đó, nhà làm phim đã hầu như thay đổi toàn bộ các đặc điểm chủ yếu của câu chuyện, thậm chí thay đổi hẳn cách kết thúc. Nhưng chính nhờ vậy, bạn đọc nào đã từng xem cuốn phim nói trên vẫn hoàn toàn thích thú khi được đọc cuốn sách này, nhất là được thưởng thức một niềm vui mới lạ: so sánh giá trị của điện ảnh và văn học trong cùng một tác phẩm. Ngày 09 - 05 - 2003. BỒ GIANG N.N.T Mời các bạn đón đọc Giai Điệu Dưới Tầng Hầm của tác giả John Trinian.
Điệp Viên Ở Washington - Peter Maas
Cuốn sách này kể về toàn bộ những hoạt động của Aldrich Ames kể từ khi bắt đầu quyết định cộng tác với tình báo Liên Xô, năm 1985, cho tới khi bị FBI theo vết và bắt giữ rồi đưa ra tòa án xét xử trong năm 1994. Một điệp vụ điển hình của thời kỳ chiến tranh lạnh. Bắt đầu từ những năm cuối của cuộc chiến tranh lạnh và kéo dài trong cả thời kỳ sau khi chiến tranh lạnh đã kết thúc, điệp vụ chuyển giao những thông tin mật cho phía KGB của Aldrich Ames có một tác động lâu dài đến cộng đồng tình báo Mỹ cả sau khi Aldrich Ames đã bị bắt. Sẽ còn rất lâu nữa, CIA mới có thể đánh giá được những thiệt hại mà cơ quan tình báo sừng sỏ của Mỹ phải chịu trong điệp vụ này. Mà cũng có thể là CIA sẽ chẳng bao giờ có thể lượng định được một cách chính xác những thiệt hại đó. Hoạt động tình báo, phản gián vốn là thế giới của những điều “có thể” và “không thể”! *** Trong những buổi thẩm vấn tiếp theo, khi được hỏi về vấn đề tài chính, Rosario bỗng bất thần nổi đoá. “Sao các ông cứ hỏi tôi mãi về tiền nong thế! Lúc nào các ông cũng chỉ quan tâm đến tiền? Các ông lại còn hỏi khi nào thì tôi biết Rick có nhiều tiền? Vì sao các ông cứ hỏi tôi mãi chuyện ấy? Không phải tôi có vấn đề về tiền nong mà chính lũ người Mỹ các ông mới bị ám ảnh về chuyện đó. Ở Bogotá, chúng tôi không bao giờ hỏi một người xem anh ta kiếm tiền bằng cách nào.” Điệp viên Đanielle Linden, người tham gia hầu hết các cuộc thẩm vấn Rosario, đồng ý rằng nếu ở Bơgotá mà hỏi một người xem anh ta kiếm tiền ở đâu thì có nhiều khả năng người hỏi sẽ bị ăn đạn? Rosario khai vào thời gian họ cưới nhau, Rick đã không nói ngay cho cô ta biết về khoản đầu tư liên quan đến “người bạn Robert ở Chicago”, lý do dẫn đến nguồn tiền ào ạt đổ vào tài khoản của hai người. Rosario nói thời kỳ hai người ở Mexico City, cô ta có cảm tưởng rằng Rick không bao giờ phảl lơ lắng về vấn đề tiền bạc. Sự túng bấn chỉ xuất hiện khi cô ta về sống ở Washington mà nguyên nhân là vì Rick phải chi phí nhiều cho vụ ly dị của mình. Và rồi đến thời kỳ Rick đi công tác ở Roma, khi những tài khoản ở ngân hàng Thuỵ S xuất hiện thì anh bạn “Robert” này mới được viện dẫn ra như là lý do cho những nguồn tiền bất ngờ đó. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Ở Washington của tác giả Peter Maas.