Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Học Cơ Tiến-Hóa Theo Khoa Minh-Triết Thiêng-Liêng (Bạch Liên)

MỤC LỤC

QUYỂN NHỨT

Vài lời nói đầu

Con người là ai

Con người từ đâu đến? Tìm mua: Học Cơ Tiến-Hóa Theo Khoa Minh-Triết Thiêng-Liêng TiKi Lazada Shopee

Con người sanh ra cõi Trần làm chi

Sự tiến hóa chấm dứt ở đây sao

Muốn học cơ Tiến-hóa thì phải làm sao

Thái-Dương-Hệ là gì?

Ai sanh ra một Thái-Dương-Hệ?

Có bao nhiêu Thái-Dương-Hệ trên không gian?

Thái-Dương Thượng-Đế khác với Đấng Chí-Tôn gọi là Ông Trời

Đức Thái-Dương Thượng-Đế của chúng ta từ đâu đến?

7 Cõi của Thái-Dương-Hệ chúng ta

7 Cảnh của cõi Trần

Tên của mỗi thứ khí

Đặc sắc của mỗi thứ khí

Mười Hệ-Thống Hành-Tinh

7 Hệ-Thống hữu-hình

Những bầu Hành-Tinh thấy được

Không phải 7 dãy Hành-Tinh của một Hệ-Thống sanh ra một lượt với nhau

Sự tan rã của Thái-Dương-Hệ chúng ta

QUYỄN NHÌ

Sự Liên-quan giữa Con Người và Vũ-Trụ

3 Ngôi của Đức Thái-Dương Thượng-Đế

Trạng Thái của ba Ngôi

Công việc của ba Ngôi

Mục-đích sanh-hóa Thái-Dương-Hệ nầy

Bảy loài trên dãy Địa-Cầu chúng ta

3 Ngôi của Con Người

7 Thể của Con Người để dùng tại 5 Cõi mà thôi

Xác Thân

Phương-Pháp luyện tập Xác Thân

Cái Phách (Double Éthérique)

Cái chi có Ảnh hưởng tới cái Phách

Sanh-Lực là gì?

Sự tinh-khiết của Cái Phách

Cái Vía

Màu sắc cái Vía

Làm sao thấy được mấy màu nầy

Phận sự của Cái Vía

Làm một thể độc lập

Học phép xuất vía

Tánh nết Cái Vía

Phương-pháp sửa trị Cái Vía

Hạ Trí

Những khoảnh của Cái Trí

Phận sự của Cái Trí

Hiệu quả của tư-tưởng

Những làn sóng tư-tưởng

Tánh-cách-biệt của làn sóng tư-tưởng

Hình tư-tưởng

Màu sắc của những hình tư-tưởng

Sự chọn lựa tư-tưởng

Ảnh-hưởng của tư-tưởng xấu

A. Ta hại ta trước hết

B. Ta hại những người ở chung quanh ta

C. Ta thêm những sự khổ cho đời

Ảnh-hưởng của tư-tưởng tốt đẹp

Ta làm cho cái Trí ta trở nên tốt đẹp

Ta giúp ích cho những người ở chung quanh ta

Ta giúp ích cho đời

Tư-tưởng biến thành sự hành-động

Tánh nết Hạ-Trí

Sửa-trị Cái Trí

QUYỂN BA

Sự đào-tạo những quan-năng

Sự hoạt-động của CáiTrí

Những điều nên biết về sự mở mang CáiTrí

Tinh-luyện CáiTrí

Kiểm-soát tư tưởng

A. Định-Trí

B. Hườn hư

Đừng phung-phí sức mạnh của tư-tưởng

ThamThiền

Tham-Thiền có tánh cách mở mang trí thức

Ngày sau trọn đời chúng ta chỉ là một chuổi Tham-Thiền mà thôi

Sự phát-minh của ông Archimède (287-212)

Sự phát-minh của ông Thomas Edison (1847-1931

Bí quyết thành công: Làm việc cho nhiều và suy-nghĩ luôn luôn (Travailleur toujours et réfléchir sancesse)

Tham-Thiền có tánh cách sùng bái

Tham-Thiền một đức tánh

Phương-pháp tập luyện

Tham-Thiền về Ba Thể: Thân, Vía, Trí

Xem xét Xác Thân

Xem xét Cái Vía

Xem xét Cái Trí

Lời dặn tổng quát

Nhưng xin nhớ kỹ vài điều sau đây:

Hai câu chuyện lý thú về sự Tham-Thiền

Giải-quyết một vấn-đề trong lúc ngủ

Một phương-pháp chắc-chắn để thí-nghiệm sự tiến-hóa của mình

Tại sao phải Tham-Thiền đúng giờ khắc và liên-tục

Giúp đở người trong lúc ngủ

Cách ngồi thiền

Giờ Tham-Thiền

Khắc kỷ

Toát-yếu về phương-pháp mở mang trí-thức

Tại sao kinh sách Đạo-Đức gọi Con Người là Tiểu Thiên-Địa

Một phương-pháp giúp quí bạn tiến tới mặc dầu chưa Tham-Thiền được

Phương-pháp thực-hành

Mà Tu là gì?

Một sự thí-nghiệm để chứng chắc ý-muốn và tư-tưởng không phải thật là con người

QUYỂN TƯ

Ba Thể Trường-Tồn

1. Thượng-Trí hay là Nhân-Thể

Cách cấu-tạo Thượng-Trí

Màu sắc của Thượng-Trí

Sự dùng Thượng-Trí làm một thể độc-lập

2. Kim-Thân

3. Tiên-Thể

Sự liên-lạc giữ những thể của Con Người

LẬP-HẠNH: Nó biến đổi con người trước nhứt ra một vị Thiện-Nhân rồi lần lần tới bực Siêu-Phàm

Những Đức-tánh cần-thiết để tạo lập một tánh tình Siêu-Phàm

Ba yếu-tố quan-trọng của sự lập hạnh

I…Tư-tưởng chơn-chánh

Cách xua đuổi một tư-tưởng xấu

Đề phòng những sự cám-dổ và những sự tấn công của kẻ nghịch

II…Lời nói chơn-chánh

A…Có cần-thiết chăng

B…Có đúng sự thật không?

C…Có từ-thiện không?

Chớ nên hiểu lầm sự nói thật đúng

Việc làm chơn-chánh

Những Đức-tánh phải tập

Lãnh-đạm

Oai-lực của lòng Từ-Bi

Chuyện thứ nhứt: Vuốt-ve rắn hổ-mang

Chuyện thứ nhì: một chuyện phi-thường

QUYỂN NĂM

Sự chiến đấu cuối cùng

Linh-hồn kim-cương

Tinh-Thần hóa hay là Khoa Luyện Kim Tinh-Thần

Mục Đích thứ nhì của sự Luyện Kim Tinh-Thần

Lòng ham muốn và chính là lòng ham muốn ràng buộc và cột trói con người

Phải làm thế nào để cho sự hành động cứ thực hiện mà con người vẫn được tự-do

Sự hy-sanh

Cái cách thức hợp nhứt sự hy-sanh với sự hành-động

Quan-điểm cao-siêu của định-luật hy-sanh

Sự hy-sanh của Tiên Thánh và các vị Đệ-Tử

Tại sao người Đệ-Tử phải có một Hạnh-kiểm vượt bực người thường

Đoạn kết

QUYỂN SÁU

Sự trong sạch của Xác Thân

Mục-đích của Pháp-Môn Raja Yoga

Xác Thân

Sự tinh-luyện Thể Xác

Sự chọn lựa thức ăn

Có điều độ trong mọi sự việc a)…Về bửa ăn b)…Về giấc ngủ c)…Về mấy việc khác d)…Phải tiết dục

Có Trời mà cũng có ta. Tu là cội phúc

XÁC THÂN trực tiếp liên hệ tới TIÊN THỂ (Corps Atmique)

Sạch sẽ từ y-phục cho tới thân mình

Những lời khuyên nhủ của Đức bà A. Besant

Lòng Sùng Đạo hay là Sùng-Tín

Làm thế nào để phát triển lòng Sùng-Tín?

Phương-pháp luyện tập

Một phương-pháp chắc chắn hơn hết

Hai mẫu người Sùng-Tín

Mẫu người Sùng-Tín thụ-động

Mẫu người Sùng-Tín hoạt-động

Lúc đầu tiên họ là những người thế nào?

Cách hành động của họ

Con đường Sùng-Tín dắt đi đến đâu?

QUYỂN BẢY

Tinh-Thần An-Phận

Sự An-Phận cắt nghĩa theo Huyền-Bí-Học

Phải cải tạo hoàn cảnh

Sự An-Phận của các Sanh-Viên Huyền-Bí-Học

Bền chí

Tánh kín đáo

Tánh đúng đắn

Phụng sự

Lời cầu chúc của Bà A. Besant

QUYỂN TÁM

Dãy Địa Cầu chúng ta

Bảy Bầu nầy ở Cõi nào?

Dãy Trái Đất của chúng ta hiện giờ là Dãy thứ mấy?

Đồ-hình 7 Cõi, 7 Dãy Hành Tinh

Bảy Giống Dân trên Dãy Địa Cầu

Xin nhớ những nguyên-tắc tổng quát

Nhơn vật trên Dãy Địa Cầu chúng ta

Nhơn vật tại Bầu trái đất của chúng ta hiện giờ

Các Giống Dân tại Địa Cầu chúng ta

Các giống dân: Giống thứ nhứt

Giống thứ nhì

Giống thứ ba

Giống thứ tư

Bảy Nhánh của Giống Dân thứ tư

Giống Thứ năm

Bảy Nhánh của Giống Thứ năm

Giống Thứ sáu

Giống Thứ bảy

Đặc tánh của mỗi giống Dân

Bề cao của Năm Giống Dân Chánh

Tạo vật ôn lại

Vài mẩu chuyện thay hình đổi dạng

Một Nữ Gíáo-Sư dần dần biến thành đàn ông, rồi rù quến một Cô Giáo có chồng 5 con

Một hồi ký độc đáo của một người

19 tuổi: Lấy chồng

29 tuổi: Lấy vợ

Đàn ông hóa gái

Những Châu Thế Giới

1. Châu thứ nhứt

2. Châu thứ nhì

Một bằng chứng cụ thể chứng minh rằng khi xưa ở Bắc Cực khí hậu miền nhiệt đới

Hãy phá vỡ những thành kiến sai lầm

3. Châu thứ ba

4. Châu thứ tư

5. Châu thứ năm

6. Châu thứ sáu

7. Châu thứ bảy

QUYỂN CHÍN

Sự tiến hóa đi theo vòng tròn

Bảy cuộc Tuần Huờn (Les 7 Rondes)

Cuộc Tuần Huờn Thứ Nhứt

Cuộc Tuần Huờn Thứ Nhì

Cuộc Tuần Huờn Thứ Ba

Số phần của Con Người và các Loài vật

Dãy Địa Cầu tan rã

Nhơn vật của Dãy Hành Tinh Thứ Năm

Sự Phán Xét cuối cùng

Sự Phán Xét Cuối Cùng của một Bầu Hành Tinh

Nội Cảnh Tuần Huờn

Họ ở lại Bầu Hành Tinh củ bao lâu

Sự hữu ích của Nội Cảnh Tuần Huờn

Sự Phán Xét Cuối Cùng của Một Dãy Hành Tinh

Sự Phán Xét Cuối Cùng của Dãy Địa Cầu chúng ta

Sự Phán Xét Cuối Cùng của Ba Dãy Hành Tinh Trước

Dân số trên dãy Địa Cầu

Số người được giải thoát sẽ là bao nhiêu

I. Những điều nên biết

Tại sao thân hình Giống Dân Thứ Nhứt lại in như nguyên sanh chất

II. Chừng nào cửa Đạo mới mở cho Con Người

III. Danh hiệu của các Vị Đắc Đạo thành chánh quả trong 4 Dãy Hành Tinh

Xin đừng lầm lộn hai danh từ: ASURA - A TU LA

IV. Ở Ba Dãy Hành Tinh trước được mấy lần điểm đạo mới thành Chánh Quả thoát Đọa

Luân-Hồi

Kết Luận

“HỮU PHƯỚC THAY NHỮNG NGƯỜI TẤM LÒNG TRONG SẠCH!”

“HỌ SẼ THẤY ĐƯỢC THƯỢNG ĐẾ

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Học Cơ Tiến-Hóa Theo Khoa Minh-Triết Thiêng-Liêng PDF của tác giả Bạch Liên nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Angkor (Đế Thiên Đế Thích) - Lê Hương
ANGKOR là tiếng gọi chung cho vùng đất trong tỉnh Siem Reap, lãnh thổ Cao-Miên, nơi có những đền đài xây toàn bằng đá nguyên khối chồng chất lên nhau, tạo thành một kỳ quan trên hoàn vũ. Vào đầu thế kỷ thứ 20, người Việt Nam sang đất bạn du-lịch hay cư ngụ đều có viếng thăm hoặc nghe nói đến kỳ công của các đăng Tiên-Vương Cao-Miện, mà không hiều vì sao lại gọi bằng danh từ Việt: ĐỂ-THIÊN ĐẾ THÍCH. Trải qua hàng trăm năm, đồng bào ta quen dùng tên này hơn là tên thật.Angkor gốc là tiếng Phạn; Nagara nghĩa là kinh đô. Vùng Angkor xưa kia là nơi Vua Cao-Miên đóng đỏ một thời gian dài từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 15 mới dơi lần xuống phía Nam. Trong vùng có hai ngôi đền lớn nhất mang tên ANGKOR THOM và ANGKOR WATH. Angkor Thom nghĩa là Kinh đô lớn, nơi nhà Vua cất Hoàng cung, Kim loan điện. Angkor Wath, hay Vat, nghĩa là Kinh đô chùa (?) là một ngôi đền vĩ đại và đẹp hơn tất cả đền đài, được nhà Vua xây cất sau cùng trước khi thiên đô. 
Áo Nghĩa Thư [pdf]
Uống nước uống tận nguồn.Một công trình khảo cứu dù tinh vi đến đâu cũng không thể nào thay thế được kinh văn cội gốc. Giỏi lắm chỉ là một bộ xương khổ so với con người sống thật co linh hồn long lanh trong ảnh mắt và tỏa ra trong hơi thở. Ấy là chưa kể những công trình phản bội, làm sai nghĩa chiếm đến chín mươi phần trăm số sách khảo cứu. Xin kể một thí dụ. Trước khi đọc những mảnh tàn văn của Parmenide, triết gia vĩ đại phải Eléc, tôi đã tìm hiểu qua những bộ triết sử và nghiên cứu của những học giả Tây phương đã thừa hưởng công trình vài chục thế kỷ. Đến khi bắt đầu đọc, tôi đi từ sửng sốt này đến sửng sốt khác vì mọi sách khảo cứu mà tôi được biết đều phản bội, lật ngược lại chủ ý sâu xa của Parménide, của phái Elée, một triết phải không để lại nhiều sách vở nhưng được coi là một trong những trường phải lớn của tư duy Hy Lạp, của thế giới Tây phương. Thời gian tôi dùng để đọc dăm trang khảo cứu là một vài giờ, còn đọc thẳng vào vài trang bản văn là mười lăm đêm, mỗi đêm 4 tiếng đồng hồ, tức là 60 giờ. Đỏ là một chuỗi hàm số liên tiếp mà người đọc phải tự giải, nhưng giải xong thì thấy cả núi sách khảo cứu dầu đúng cũng không đi vào chiều sâu, vào cải thần, ấy thế mà lại giải sai.Nếu Parménide với triết phái Elée, được người Tây phương khảo sát nhiều thế kỷ vì tự coi là thừa kế triết học Hy Lạp, mà còn bị phản bội như thể thì những triết thư Ấn Độ như Upanishads được khảo sát ra san, ta có thể suy đoán được.Người Việt ta vài ngàn năm quen với một dòng của triết đạo Ấn Độ là Phật giáo, nhưng về những dòng khác thì mới bắt đầu từ vài chục năm nay. Cho đến bảy giờ những bộ căn bản nhất như Upanishads cũng chỉ được trích dẫn vài câu đã trở thành sảo ngữ trong vài cuốn khảo cứu. Đã đến lúc uống nước uống tận nguồn. Bởi thế cho nên chúng tôi lựa chọn ba bộ tiêu biểu được đạo sư có uy tín người Ấn Độ là Shri Aurobindo vừa thừa hưởng được truyền thống, vừa có căn bản triết học Tây phương để bình giải, trình bày cho chúng ta thời bấy giờ hiểu nổi.Ấn Độ có ba dòng lớn về triết học là: Bà-la- môn giáo, Kỳ-na giáo, Phật giáo. Trong lòng Bà la-môn giáo lại có sáu phải mà quan trọng nhất là hai phải. Số luận tức là Samkhya, Vệ Đàn-Đà tức Védanta nghĩa là Viên thành Vệ Đà.Gạt ra ngoài vấn đề so sánh giá trị nội tại của hai phải này, mà chỉ nói quan niệm của đa số người Ấn cũng như học giả thế giới thì Vệ Đàn Đà được coi như tiêu biểu cho tư tưởng Ấn Độ, là cái phần tinh túy nhất mà văn hóa Ấn Độ cung hiến cho nhân loại. Đó là tư tưởng nhất nguyên coi vũ trụ, nhân loại, Thượng đế chỉ là một, chỉ có một Đại Ngã, Đại Hồn. Bởi thế cho nên Upanishads nhắc đến Thượng để hay đáng Chủ Tề thì ta chở nền lẫn với nhất thần giáo mà chỉ coi là một lối nói tạm để bị vượt ngay trong một bộ sách như phép giải toán lập số khử số để đi đến đáp số cuối cùng. Nó là nhất nguyên luận mà người Tây phương gọi là phiếm thần giáo, Phật giáo Đại thừa gọi là nhất như thuyết. Vedanta với Đại thừa cùng một dòng tư tưởng, đó là điều hiển nhiên tuyệt đối.Kinh điển nòng cốt của Vedanta là những bộ Upanishads. Chúng tôi dịch là Áo Nghĩa Thư với danh từ thông dụng từ lâu của những nhà Phật học nhưng giá trị của nó không ở dưới những bộ được gọi là kinh thư như tử thư so với Ngũ Kinh. Là vì bên Ấn Độ, những bộ được gọi là Sutras, vẫn được dịch là kinh, chưa hẳn giá trị hơn những bộ không được gọi là Sutras. Bởi thế những bộ như Vedas tôn quí bậc nhất mà không gọi là sūtras. Và người ta đã có lý khi dịch kinh Vệ Đà. Vậy Áo Nghĩa Thư hay Áo Nghĩa Kinh cũng vậy.Những bộ này được xếp sau những bộ Vệ Đà nên được coi là Liễu Kết Vệ Đà hay Viện Thành Vệ Đà với hai nghĩa đen và bóng: Nó được coi là rút tỉa tinh hoa của Vệ Đà, đào sâu mở rộng cái trực giác thần diệu nhất giữa nhiều trực giác ở Vệ Đà phong phủ như cái mỏ. Đó là trực giác về nhất nguyên luận hay nhất như thuyếtNhững bộ Áo Nghĩa Thư thật nhiều, khởi từ trước hay ngang thời Phật Thích Ca đến cuối Trung cổ, nhưng những bộ căn bản được coi là có mười hai, mà ba bộ sau đây ở trong số đó. Những tác giả thường vô danh, những vị được nhắc đến ở bộ này bộ nọ là những bậc truyền miệng được người ta ghi lại thêm bớt mà có vị chỉ là nhân vật huyền thoại.Những bộ này thường được coi là thần kỳ bí hiểm, những bản dịch nhiều khi khác nhau đến mực đưa ra những nghĩa không liên quan gì với nhau. Nên chúng tôi lựa chọn những bộ do đạo sư người Ấn dịch ra Anh ngữ, hơn hẳn những bản dịch của những học giả Tây phương mà tôi có để đối chiếu. Bản dịch từ Anh ngữ ra Pháp ngữ v hai bộ Isha và Mundaka do ông Jean Herbert đã được đạo sư Aurobindo hiệu chính, còn bản dịch Kena do ông Jean Herbert cộng tác với hai bạn là Cunulle Rao và René Daumal tuy không được đạo sự hiệu chính nhưng chắc chắn dùng tin cậy để tôi dịch lại ra tiếng Việt vì ông Jean Herbert đã cả đời hiến mình cho việc dịch, khảo và truyền bá triết đạo Ấn Độ, có tiếp xúc với nhiều bậc thầy Ấn hiện sống.Chỉ xin có đôi lời về lối dịch của chúng tôi.chữ Tat, Phạn ngữ, được dịch sang Pháp ngữ là chữ Cela, Cái y để ám chỉ Chân Thể mà người nghe được coi là đã ngầm hiểu. Người Việt tu đã quen từ lâu với tiếng Chân Như nên chúng tôi dịch là Chân Như. Đó là trong cuốn Isha nhưng sang cuốn Kena thì tài phải dịch sát là Cái Ấy vì Chân Thể trong cuốn này được coi như là một nghi vấn, một ẩn số đối với chủ thần, mãi đến cùng mới nhận ra.Soham, tiếng Phạn, dịch sát ra Pháp ngữ là Je Suis Lui – chúng tôi dịch: Ta là Chân Như cũng vì lẽ trên.Tattvam asi: - Tu es Cela – chúng tôi dịch: Ngươi là Chân Như cũng vì lẽ trên.Chữ Étre thường được dịch là Hữu Thế mà theo Parménide, cổ triết gia Hy Lạp người đã xây dựng toàn bộ học thuyết trên ý niệm này, thì thuộc tỉnh lớn nhất của Hữu Thế là hằng hữu, bất sinh bất diệt, vậy chúng tôi dịch là Hằng Hữu để phân biệt với être thường không viết hoa dịch là hữu thể.Chữ Existence có hai nghĩa chính là thực hữu hay hiện hữu và sinh tồn, chúng tôi dịch thành hữu tồn, tuy cũng có khi là sinh diệt, khi là sinh hóa, khi là sáng hóa, vừa theo tinh thần triết học Ấn Độ vừa uốn theo sắc thái, nhịp độ tư tưởng rất biến hóa linh động của Aurobindo.Chữ Dissolution thường được dịch là hòa tan hay tiêu diệt chúng tôi dịch là tiêu nhập theo tinh thần ở dây.Chữ Jeu có nhiều nghĩa, mà kể ba là trò chơi, sự vận dụng, sự xếp đặt xảo diệu, chúng tôi dịch, là trò diệu hóa hay diệu hóa lực theo hệ thống tư tưởng của Aurobindo vẫn gọi bằng tiếng Phạn là Lila thay cho Mâyân tức Huyễn Hóa.Egoisme thường được dịch là vị kỷ, vị ngã, nhưng tư tưởng Ấn Độ còn suốt nguồn gốc vị ngã là chấp ngã vậy chúng tôi dịch là ngã chấp. Mental theo nghĩa của Tây triết là tâm trí và Mentalité là tâm tính, nhưng ở đây theo Ấn triết phải dịch là phàm thức và thức tỉnh đối với siêu thức tuy đôi chỗ có thể dịch đại khái là tâm thức hay thức và tâm tính.Đó chỉ là một vài trong số nhiều thí dụ về lối dịch của chúng tôi không thể hoàn toàn y theo những tự điển hiện hành, nhưng có lẽ độc giả cũng thừa thông cảm.Ngoài ra cũng nhắc đến một danh từ thường dùng đến là Phạm Thể dịch từ tiếng Phạn, Brahman. Theo quan niệm Ấn Độ thị Brahma là thần linh tối cao đã sinh ra vũ trụ, mà Brahman là bản thể của Brahmô cũng như chư thần, cũng như chúng ta cũng như vũ trụ theo lẽ nhất nguyên, vậy nếu Brahmà đã được dịch từ mấy ngàn xưa là Phạm Thiện thì bây giờ chúng tôi dich Brahman là Phạm Thể.Về cú pháp, nhiều chỗ mông lung, hàm súc vì huyền diệu mà ông Jean Herbert cùng các bạn phải vượt khuôn khổ của Pháp ngữ, vốn nổi tiếng là minh bạch, khúc chiết, để phản ảnh với những câu như buông lơi, lỏng lẻo nên phải đọc kỹ bình giải mới quyết nghĩa được. Xem kinh văn, nếu thấy những chỗ bí hiểm thì độc giả không nên khổ công tìm hiểu mà cứ tạm để đó, tiến đến phần bình giải sẽ vỡ ra.Đọc thẳng một bộ như thế này, quí vị sẽ thâm nhập hơn là loanh quanh mãi ở vành ngoài với những bộ khảo cứu có công dụng giúp ta bước đầu với những ý niệm đại khái như bộ xương khô so với người sống thực.THẠCH TRUNG GIA 
Bái Đính - Ngàn năm tâm linh và huyền thoại [pdf]
Trong đời sống con người, ngoài mặt hiện hữu còn có mặt "phi hiện hữu" mà người ta gọi là tâm linh. Đời sống cá nhân cũng như cộng đồng (gia đình, làng, xã, quốc gia, dân tộc...) cũng như vậy. Mặt hiện hữu có thể nhận thức được bằng trực quan, cảm giác, có thể định tính, định lượng được cụ thể. Mặt tâm linh là những cái trừu tượng, mông lung, huyền bí, thiêng liêng nhưng không thể thiếu được trong đời sống. Từ ngàn xưa, khi triết học duy vật chưa có và ngay cả thời đại ngày nay điện tử, tin học và công nghệ thông tin bùng nổ, khoa học kỹ thuật phát triển đạt được những thành tựu phi thường, con người đã bay vào vũ trụ, lên sao Kim, sao Hoa thì mặt tâm linh cũng không thể thiếu, nếu như không nói nó là "thăng hoa" ở những biểu hiện vô cùng phong phú, đa dạng khác nhau. Cái cột chặt con người trong cộng đồng làng xã, quốc gia không chỉ có quan hệ hiện hữu ở lãnh thổ, biên giới, chủ quyền, trong đó có chủ quyền kinh tế - xã hội, mà còn nhiều quan hệ khác rất thiêng liêng. Đó là thế giới tâm linh với những biểu tượng, thần tượng, thánh tượng. những kỳ vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Đã đến lúc người ta thức nhận ra rằng, đời sống tâm linh là nền tung vững chắc nhất của mối quan hệ cộng đồng làng xã và rộng lớn hơn là của ca đất nước. Thế giới tâm linh là thế giới của cõi thiêng. 
Đại Đường Tây Vực Ký - Bút Ký Đường Tăng
Lời tựaQuý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường).Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp.Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch....