Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ván Cờ Đổi Mạng

Cuốn tiểu thuyết kể câu chuyện về cuộc đấu tay đôi đến chết của một trò chơi cờ vua vẫn chưa kết thúc trong hơn 50 năm. Khi một doanh nhân người Đức bị phát hiện đã bị bắn chết, một bí ẩn mở ra cho người đọc về sự ganh đua của người đàn ông này với một cầu thủ cờ vua Do Thái xuất chúng và mở ra bí ẩn trong quá khứ của họ. *** Mở đầu quyển sách đúng là một vụ án. Một doanh nhân thành đạt đồng thời cũng là một kỳ thủ có tiếng một thời bị chết. Thi thể ông ta nằm ngửa trong vũng máu của chính ông ta, ở chính giữa mê cung, khẩu súng ngắn quân dụng cũ của ông ta được tìm thấy cách đó vài bước. Khẩu súng được lắp ống giảm thanh và đã không ai nghe thấy tiếng nổ. Họ tìm thấy trên bàn làm việc của ông ta là một bàn cờ vua được sắp xếp trong thế trận phức tạp của một ván cờ đang chơi dở. Đó là một bàn cờ rất lạ: những mảnh vải xơ xác cả sáng lẫn sẫm màu được khâu lại với nhau. Những chiếc khuy áo có kích cỡ khác nhau đại diện cho các quân cờ, biểu tượng của mỗi quân được vạch một cách thô sơ lên mặt khuy, có lẽ bằng đinh. Nhưng các bạn chớ có tìm hung thủ làm gì, cũng đừng trông mong gì những pha đấu trí nghẹt thở hay những cuộc phiêu lưu điều tra phá án của một vị thám tử tài ba mà ta thường thấy trong các tác phẩm trinh thám. Hay tìm thấy những khiếm khuyết trong tâm hồn của các nhân vật bị tổn thương về tâm lý trong các tác phẩm trinh thám mà thiên về tâm lý của tội phạm. Bởi cái chết của ông sẽ đưa bạn trở về một thời kỳ mà mỗi lần nhắc lại người ta không khỏi rùng mình. Thời kỳ mà người ta đã phải thốt lên rằng sao nỡ ăn thịt đồng loại của mình. Cái thời kỳ mà Đức Quốc Xã bài trừ người Do Thái, đưa họ đến những trại tập trung, đày đoạ họ, biến người Do Thái thành trò chơi, trò tiêu khiển, mạng họ trở thành ván cược trong một trò chơi rồi sau đó là những vụ thảm sát hàng loạt đẫm máu. Không chỉ là ván cờ thông thường mà đó là ván cờ cuộc đời, ván cờ đổi mạng. Binh Boog *** Người ta nói rằng cờ vua được sinh ra trong đổ máu. Truyền thuyết kể lại khi trò chơi này lần đầu tiên được ra mắt trước triều đình, nhà vua quyết định thưởng cho người phát minh vô danh của nó bằng cách đáp ứng bất cứ sở nguyện nào của ông ta. Phần thưởng nhà phát minh thỉnh cầu có vẻ thật khiêm nhường: tổng số lượng gạo gộp lại khi đặt một hạt gạo lên ô đầu tiên trong số 64 ô của bàn cờ, rồi hai hạt lên ô thứ hai, bốn hạt lên ô thứ ba, cứ như thế. Thoạt đầu, nhà vua vui vẻ đồng ý, song đến khi nhận ra tất cả các kho lương vựa lúa trong vương quốc của mình, hay có khi cả thế gian, cũng không thể cung ứng đủ lượng gạo như thế, ông ta thấy tốt hơn nên giải thoát cho mình khỏi thế khó bằng cách cho chém đầu người phát minh khốn khổ. Truyền thuyết không nhắc tới chuyện nhà vua sau đó còn phải trả cái giá đắt hơn, ông ta bị trò chơi mới mê hoặc tới mức mất trí. Hóa ra chỉ có sự tham lam của chính trò chơi ấy mới bì kịp lòng tham của người phát minh trong truyền thuyết. Các báo ra hôm nay thuật lại cái chết của một người đàn ông tại một ngôi làng nằm cách Vienna không xa. Hôm qua, sáng Chủ nhật, một người có tên Dieter Frisch chết vì bị bắn. Báo cáo pháp y cho biết thời gian tử vong là khoảng 4 giờ sáng, kết quả của một phát đạn súng ngắn ở cự ly rất gần, viên đạn xuyên qua vòm họng và vọt ra qua thùy chẩm. Bài tường thuật trên báo đi kèm một bức ảnh mới chụp gần đây của người chết, cho thấy ông ta đang thư thái ngoài khu sân vườn ngôi biệt thự của mình như một điền chủ miền quê vừa trở về sau cuốc đi dạo thường ngày. Mặc đồ vải lanh sáng màu, ngồi duỗi trên chiếc ghế đan bằng liễu gai, vẻ như ông ta đang chìa bàn tay ra vuốt ve một trong hai con chó cuộn tròn dưới chân. Tôi đã xem bức ảnh đó và thấy thật khó nhận ra khuôn mặt, vì nó bị chìm dưới bóng cái vành một món đội đầu trông giống mũ Panama nhẹ. Chẳng lẽ diện mạo của một con người chỉ đơn thuần là tổng hòa của hình khối và trọng lượng, là những đường nét của một cấu trúc cơ thịt? Hay còn có thứ gì khác lâu bền hơn, nằm bất biến dưới những lớp thời gian tàn nhẫn? Ẩn dưới cái tên và diện mạo đó có khi nào là người tôi quen biết? Chỉ sau một hồi tập trung, những nét mặt đuợc luu giữ thật sâu trong trí nhớ tôi lại hiện lên, nhu một tấm hình trong suốt áp chồng lên khuôn mặt đã bị thời gian bào mòn song trông vẫn còn trẻ một cách ngoan cường đó. Các hàng tít nói nhiều tới sự ra đi của “nhân vật xuất chúng” này, song không hề nói xem chuyện này xảy ra như thế nào. Dưới sức ép từ gia đình nạn nhân, kiên quyết bác bỏ giả thuyết tự sát, gần nhu tất cả các tờ báo đều nhắc đến một “tai nạn”, “sự cố” hay cái chết trong “tình huống khó hiểu”. Cho dù bằng chứng có là gì đi nữa, nó cũng trở nên vô giá trị khi thiếu vắng một động cơ hợp lý. Tất cả những ai từng biết ông ta dường như đều sẵn sàng thề rằng ông ta hoàn toàn không có bất cứ lý do nào để tự kết liễu đời mình. Ông ta chưa bao giờ bị trầm cảm hay tỏ ra chán đời. Lần kiểm tra cuối cùng, mới gần đây, cho thấy sức khỏe ông ta hoàn toàn bình thường, và ông ta có phom dáng đáng để thèm muốn: ở tuổi sáu mươi tám, ông ta vẫn tích cực chơi các môn thể thao ưa thích, tennis và cưỡi ngựa, dù vẫn hơi tập tễnh kể từ cuộc phẫu thuật sau chấn thương do ngã ngựa. Cũng không hề có bất cứ dấu hiệu nào của rắc rối tài chính. Trên thực tế, chỉ vài ngày trước đó ông ta vừa giành được một hợp đồng xây dựng trị giá nhiều triệu đô la từ Bundesbank. Frisch là một trong những người dường như được vận may mỉm cười trong mọi lĩnh vực. Ông ta kết hôn với một người thừa kế giàu có và có bốn con trai, tất cả giờ đây đều có địa vị nổi bật trong xã hội. Ông ta có một cuộc sống ngăn nắp bình lặng, tuần dành ra bốn ngày ở Munich để điều hành việc làm ăn và quay lại Vienna vào thứ Sáu để được lái xe đưa tới nơi ông ta thích rồi dùng toàn bộ thời gian tự do của mình ở đó: một biệt thự nằm giữa khu tư viên mênh mông, bao quanh là khu săn bắn rộng 125 mẫu. Khu tư viên, được xây dựng từ cuối thế kỷ mười tám, từ lâu đã trở thành một điểm thu hút khách du lịch, được mở cửa vào mùa hè. Khách tới thăm được phép tham quan trại nuôi ngựa và tản bộ khắp khu đất, một kiệt tác thực thụ về nghệ thuật làm vườn và điều tiết nước, được thiết kế từ hơn một thế kỷ trước. Điểm nhấn là một mê cung đồng tâm được tạo thành từ những hàng rào cây cao ba mét dẫn tới một khoảng trống hình bàn cờ lát những phiến cẩm thạch vuông màu trắng và đen. Ở hai đầu đối diện của bàn cờ, các quân cờ đã được cẩn thận tạo nên bằng cách xén tỉa những cái cây tán rậm cao bằng người thật. Các quân đen được tạo thành từ thủy tùng, quân trắng từ hoàng dương. Như phần lớn những người ở tuổi mình, Frisch sống nề nếp. Một tuần ba ngày ở biệt thự, đúng 7 rưỡi sáng ông ta dậy và dành ra đúng năm phút dưới bể bơi nước lạnh trong nhà, tiếp đó là vài động tác thể dục mềm dẻo và tiến trình chỉnh trang mặc đồ tỉ mẩn như một nghi lễ. Đến khoảng 8 giờ, đã ăn vận chỉnh tề, ông ta sẽ đi xuống phòng ngồi chơi rộng thênh thang dùng bữa sáng thanh đạm được bưng ra trên những món đồ sứ tinh xảo: tách cà phê đen không đường và ít bánh mì nướng làm hoàn toàn từ bột mì cùng xíu mứt cam. Sau đó, ông ta sẽ lui vào phòng làm việc và dành thời gian còn lại của buổi sáng cho niềm đam mê lớn của bản thân, cờ vua. Ông ta sở hữu tất cả sách vở tài liệu về chủ đề này và tự hào về một bộ sưu tập quý giá những bộ cờ vua cổ. Cho dù đã nhiều năm không thi đấu, ông ta vẫn thuộc hàng kiện tướng và là chủ bút của một tạp chí uy tín về cờ vua. Mọi bằng chứng cho phép phỏng đoán là đã không có gì tác động đến thời gian biểu thường quy của ông ta cho tới tối thứ Sáu cuối cùng. Lái xe đến đón ông ta tại nhà ga ở Vienna như thường lệ. Họ chỉ trao đổi với nhau vài lời trên đường quay về biệt thự, và về tới đó lúc nửa đêm - chính xác là 1 giờ 45 phút. (Người lái xe luôn cẩn thận tính toán thời gian chuyến đi.) Frisch ra khỏi xe, và như thường lệ, trước hết đi tới khu chuồng chó, vuốt ve từng con trong số “cún con” của mình, đáp lại màn chào đón hân hoan của chúng. Sau đó ông ta vào nhà. Như tất cả những thứ Sáu khác. Nhưng ngay sáng sớm thứ Bảy bà hầu phòng lớn tuổi đã để ý thấy một điều lạ lùng trong cách cư xử của ông chủ. Frisch trông có vẻ như đã ngủ rất ít và không ngon giấc. Trên thực tế, bà sẵn sàng thề rằng kể cả có lên giường nằm, ông ta cũng không buồn cởi đồ. Vốn quen lấy thời gian biểu thường quy chính xác như đồng hồ của ngôi biệt thự làm niềm khuây khỏa lớn lao nhất, bà này rất lo lắng trước sự thay đổi đột ngột trong thói quen của ông chủ. Tuy nhiên, là một người làm công tận tụy hết lòng, bà cảm thấy ở vị trí của mình bà không nên nói gì với ai, thậm chí cả với những người làm khác. Bà cũng không báo với vợ Frisch, một phần vì vợ chồng ông ta ở các khu khác nhau của biệt thự và trên thực tế là sống đời riêng, chỉ xuất hiện cùng nhau ở những dịp lễ lạt hiếm hoi có tính nghi thức. Theo lời kể của bà hầu phòng, Tiến sĩ Frisch không hề ăn sáng ngày hôm đó, và bữa trưa của ông, được bưng tới vào giờ thường lệ, còn nguyên trên khay không được đụng đến. Ông ta dường như đã trải qua cả ngày một mình trong nhà, không tiếp vị khách nào. Chỉ khi nhân chứng của chúng ta mang bữa tối tới cho ông ta trong phòng làm việc, bà mới để ý thấy một ngọn đèn đã được bật lên. Nó vẫn bật khi bà đi ngủ vào khoảng 2 giờ sáng. Chủ nhật, quá 8 giờ sáng rất lâu mà vẫn chưa thấy bóng dáng Frisch. Lo lắng trước sự chậm trễ khác thường này, bà hầu phòng lên lầu tới phòng ngủ. Thấy trong phòng không có ai, giường chiếu phẳng phiu, thoạt đầu bà nghĩ ông chủ đã ngủ qua đêm ở nơi khác, dù đó không phải là thói quen của ông ta. Bà bắt đầu nghi ngờ khi thấy không thiếu chiếc xe nào trong gara. Sau đó, bà liên tục gõ cửa phòng làm việc, lớn tiếng gọi tên ông chủ. Không thấy ai trả lời, bà quyết định vào trong phòng, nhưng không có ai trong đó. Đến lúc này, bà cảm thấy mình không có lựa chọn nào khác ngoài đánh thức vợ Frisch, một nước đi không phải không có rủi ro, vì bà chủ nhà bị chứng mất ngủ hành hạ và vào thời điểm đó rất có thể đang tận hưởng thời khắc nghỉ ngơi đầu tiên của mình. Toàn bộ người làm nhanh chóng được huy động để tìm kiếm khắp hai mươi tám căn phòng, các hầm, khu dành cho khách, cuộc tìm kiếm được mở rộng ra tận khu tư viên xung quanh nhưng vẫn công cốc. Cuối cùng, một người nghĩ tới chuyện đưa mấy con chó của ông chủ tới. Hai con chó chăn cừu Đức yêu quý của ông ta đã sủa liên tục suốt buổi sáng. Khi con thứ nhất được thả ra, nó lao thẳng tới chỗ mê cung trong vườn; con thứ hai, được tròng dây, lập tức dẫn họ tới nơi. Thi thể Frisch, nằm ngửa trong vũng máu của chính ông ta, ở chính giữa mê cung; khẩu súng ngắn quân dụng cũ của ông ta được tìm thấy cách đó vài bước. Khẩu súng được lắp ống giảm thanh, và đã không ai nghe thấy tiếng nổ. Họ tìm kiếm xem có lời nhắn nào không nhưng vô ích, tất cả những gì họ thấy trên bàn làm việc của ông ta là một bàn cờ vua được sắp xếp trong thế trận phức tạp của một ván cờ đang chơi dở. Đó là một bàn cờ rất lạ: những mảnh vải xơ xác cả sáng lẫn sẫm màu được khâu lại với nhau. Những chiếc khuy áo có kích cỡ khác nhau đại diện cho các quân cờ, biểu tượng của mỗi quân được vạch một cách thô sơ lên mặt khuy, có lẽ bằng đinh. Trong tất cả các tờ báo tường thuật lại hiện trường được những nhân chứng tìm thấy, chỉ có một bài, trên một tờ báo tỉnh lẻ rất có thể thiếu thông tin trực tiếp, là bình luận về chi tiết có vẻ vặt vãnh này. Bài báo kết luận: “Sẽ không ai biết được vì sao Tiến sĩ Frisch lại chọn một mảnh giẻ rách như thế thay vì bộ sưu tập quý giá nổi tiếng của ông. Có lẽ nó chỉ được dùng cho ván đấu cờ cuối cùng của ông, với cái chết.” Mời các bạn đón đọc Ván Cờ Đổi Mạng của tác giả Paolo Maurensig.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khởi Đầu Từ Cái Chết - Diana Rowland
Angel Crawford là một nhân vật cá biệt và nổi loạn. Cô nghiện bia rượu, các loại thuốc hỗ trợ và thay công việc như thay áo vì tính khí bất thường cùng thái độ làm việc thiếu nghiêm túc. Mẹ Angel mất sớm và cô sống cùng ông bố nghiện ngập bất cần đời. Ngoài ra, Angel còn có cậu bạn trai sống trong ngôi nhà lưu động và sửa ô tô để kiếm sống, cũng là dân nghiện thuốc và cần sa giống như cô. Sau một đêm phê rượu và thuốc ở quán bar quen thuộc, Angel tỉnh dậy trong bệnh viện với những ký ức máu me ghê rợn về một tai nạn giao thông thảm khốc đã xảy ra với mình vào đêm hôm trước. Tuy vậy, ngoài việc không còn mảnh quần áo nào trên người thì cô lại không hề có một vết xây xước. Báo cáo của bệnh viện cho thấy cô đã bị sốc vì dùng thuốc quá liều. Angel rời khỏi bệnh viện cùng một lá thư sắp xếp công ăn việc làm mà một kẻ nặc danh đã để lại cho cô. Angel được thu xếp vào làm việc ở Nhà xác của Viện Kiểm thi của thị trấn. Nhiệm vụ của cô là đánh xe đi thu gom các xác chết bước đầu được xác định là đã qua đời một cách không bình thường, đưa về nhà xác và sau đó phụ mổ cho bác sĩ pháp y phẫu thuật tử thi để tìm ra nguyên nhân cái chết. Trong quá trình làm việc ở nhà xác, Angel dần dần kinh hoàng nhận ra mình là một thây ma khi cô khám phá ra mình thèm muốn và sẵn sàng làm mọi chuyện để có thể đánh chén những bộ não trong những xác chết mà cô phải xử lý. Khi cơn bàng hoàng trôi qua, Angel bắt đầu lên kế hoạch dự trữ thứ đồ ăn mang tính sống còn đối với mình, đồng thời cô cũng nhận ra rằng kẻ nặc danh đã để cô lại trong bệnh viện lúc đầu chính là kẻ phải chịu trách nhiệm đối với việc biến đổi cô thành thây ma. Thị trấn Tucker Point bắt đầu xuất hiện những xác chết lạ thường, những xác chết mất đầu hoặc bị tổn thương nặng phần đầu. Toàn bộ Viện Kiểm thi cũng như Sở cảnh sát bị đặt vào tình trạng báo động trước khả năng đối đầu với một kẻ giết người hàng loạt. Riêng Angel có những lập luận của riêng mình và cô khẳng định đã xuất hiện một kẻ săn thây ma trong thị trấn. Càng nhiều các vụ án xảy ra, Angel càng dần tiếp cận với sự thật. Cuối cùng, sự thật kinh hoàng và không ngờ nhất đã được phơi bày. *** Mày phải chết rồi mới đúng”, mụ y tá vừa nói vừa chỉnh gì đó trên dây truyền dịch của tôi. Mụ ta không béo mà là vạm vỡ, với đôi mắt tô vẽ lem nhem cùng mái tóc nhuộm màu cam ánh đỏ kinh tởm. Khi tôi không đáp lại ngay lập tức, mụ ta liền liếc về phía tôi như để đảm bảo là tôi đã thực sự tỉnh và nhận thức được rồi. “Mày thừa biết như thế nhỉ?”, mụ ta gặng hỏi. “Mày còn sống là phúc tổ rồi.” “Ờ... ô kê”, tôi lầm bầm. Tôi sờ tay lên phần bụng bên dưới lớp chăn rồi cau mày hỏi, “Tôi bị hôn mê hay gì à?”. Đôi môi mỏng dính của mụ ta mím lại. “Bất tỉnh ấy hả? Không. Người ta đưa mày đến cách đây vài giờ.” Mụ ta dừng lại, chống hai tay lên hông. “Mày bị sốc thuốc.” Tôi xoa một tay lên mặt, lắc đầu. “Đâu, tôi bị tai nạn ô tô mà”, tôi khăng khăng. “Tôi nhớ là mình bị thương.” Phải không nhỉ? “Bị chảy máu”, tôi thêm vào, thấy bớt chắc chắn hơn khi sờ soạng lên cái bụng vẫn còn nguyên vẹn lần nữa. Mụ y tá khịt mũi thô thiển. “Người mày chả có vết xước nào cả. Chỉ tưởng tượng là giỏi.” Mắt mụ ta nheo lại ra vẻ coi thường và chê trách. Tôi đếch quan tâm. Tôi đã quen bị người khác nhìn kiểu đó rồi. Thủy tinh, máu và kim loại. Một cơ thể nát vụn bên cạnh tôi. Răng và cơn đói. Từng miếng thịt bị xé ra... Gáy tôi đổ mồ hôi lạnh. Chuyện đó sao có thể là ảo giác được? Ảo giác phải dị hợm, mơ hồ và lộn xộn chứ. Tôi biết thế vì đã vài lần bị ảo giác rồi. Mụ y tá hắng giọng ra vẻ khó chịu rồi giật lấy tờ biểu đồ ở chân giường. “Cô em da trắng vô danh. Hừmmm. Cưng có nhớ họ tên không hả?” Mụ ta đảo mắt quay lại nhìn tôi và ném cho tôi nụ cười mật ngọt ác ý, chẳng có lấy một chút quan tâm thực sự nào trong đó. “Có, tôi biết rõ cái tên chết tiệt của mình chứ”, tôi gầm gừ. “Angel Crawford.” Tôi muốn thêm vào rằng, Và bà có thể viết lại cái tên ấy bằng cây bút chì bị cắm vào đít bà ấy, nhưng rồi vẫn kìm lại được. Tôi biết là y tá có quyền năng làm cuộc đời người ta te tua hơn vốn dĩ, và rõ ràng con mụ khốn kiếp này nghĩ rằng chỉ còn cách một bước nữa thôi, tôi sẽ thành vai chính trong một show Maury Povich[1] đặc biệt. Con mụ già chết tiệt. Tôi á, còn phải cách ít nhất hai bước nữa nhá. Mụ y tá khịt mũi như kiểu chẳng thực lòng tin tôi đủ nhanh nhạy hay tỉnh táo để biết mình là ai. “Xem trong người mày có những gì nào - THC, hydrocodone, alprazolam, codeine...” Mụ ta lép bép thêm tên vài loại thuốc dài ngoằng và rùng rợn nữa trong khi tôi quắc mắt ghê tởm nhìn mụ. Rồi mụ ném cho tôi ánh mắt chất chứa vẻ thỏa mãn ngạo mạn, treo lại tấm biểu đồ và vênh váo lạch bạch rời khỏi phòng trước khi tôi kịp đáp trả. Cũng tốt, vì điều tôi muốn nói với mụ ta sẽ phù hợp với show Jerry Springer[2] hơn là Maury Povich. Cơn giận của tôi teo quắt lại ngay khi mụ y tá bỏ đi, choáng ngợp bởi cảm giác bối rối và nỗi sợ hãi đến buồn nôn. Tôi nhấc chăn lên để tận mắt chứng kiến, một lần nữa, là mình vẫn còn nguyên vẹn. Tôi vật vã tìm cách lý giải mọi chuyện. Tôi nhớ là có máu. Rất nhiều máu. Có một vết rách gì đó dài ngang bụng, và tôi vẫn còn lưu giữ cái ký ức buồn nôn khi thấy một đầu xương trắng lởm chởm thò ra từ đùi, máu phun khắp mọi nơi. Nhưng giờ chẳng có gì bất thường cả. Không xây xát, không bầm tím. Da thịt trên người bình thường đến hoàn hảo. Một cơn hôn mê sẽ giải thích được chuyện đó, phải không nhỉ? Đại loại là vài tháng gì đó, đủ thời gian để tôi lành lặn trở lại. Nhưng mà tôi cũng chẳng có vết sẹo nào. Tôi thở dài rồi lại thả đầu xuống gối. Tôi không bị hôn mê. Mụ y tá không nói dối, cũng chẳng làm gì khiến đầu óc tôi loạn cả lên. Không, tôi chỉ đơn giản là một kẻ bỏ đi. Sốc thuốc. Tuyệt! Ôi chao, đây là một mức độ thấp kém mới đối với tôi. Và cũng chẳng khá khẩm gì hơn, khi việc tôi tụt xuống đến mức độ này là chuyện hoàn toàn có thể hiểu được. Điều có thể gây sốc duy nhất là việc này đã chẳng xảy ra sớm hơn. Tôi không nhớ là mình đã nốc thuốc nhiều đến mức như mụ y tá lắm điều đã nói, nhưng hiện giờ chuyện tôi đang ở trong phòng cấp cứu đã đủ minh chứng cho điều đó rồi. Mụ y tá cũng chẳng thay đổi kết quả xét nghiệm của tôi làm gì. Tất cả là do chính tôi gây ra, hệt như từ trước đến giờ. Tôi bị cảm giác suy kiệt rã rời nuốt chửng khi nhìn chằm chằm lên trần nhà ốp gạch lốm đốm. Bên kia cửa, tôi có thể nghe thấy âm thanh huyên náo của một cái cáng được đẩy ngang qua và những giọng nói cất lên với vẻ quan tâm ngắn ngủi. Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Một nhân viên xã hội hay nhà tâm lý học nào đó sẽ đến và bảo rằng tôi cần phải đi cải tạo, tư vấn hay mấy trò mả mẹ như thế, đó là một gợi ý ngu xuẩn vì tôi chẳng có tiền hay bảo hiểm quái gì. Hoặc tệ hơn, tôi sẽ bị bắt giam bảy mươi hai tiếng để “đánh giá thần kinh”, vì rõ ràng tôi là mối nguy hiểm đối với chính bản thân mình, và rất có thể tôi sẽ tàn đời trong một buồng bệnh từ thiện tởm lợm nào đó. Đừng có mơ tôi sẽ chịu đựng điều đó. Lúc này tôi cảm thấy tuyệt đối bình thường, và còn rất sẵn sàng cuốn xéo khỏi nơi này. Tôi đá chăn ra và trượt khỏi giường. Nền gạch trơn lạnh dưới đôi chân trần. Tôi cần giày và quần áo. Tôi đang mặc chiếc váy bệnh viện ngu ngốc, còn quần áo của tôi thì dính đầy máu đến nỗi nếu mặc vào, tôi sẽ thu hút mọi sự chú ý khi cố ra khỏi đây... Tôi lắc đầu. Không, vụ máu me chỉ là một ảo giác. Chẳng có dấu hiệu gì cho thấy quần áo của tôi có ở trong phòng. Không có buồng thay, chỉ có một cái tủ và đống thiết bị y tế rùng rợn. Tôi đang dợm bước về phía chiếc tủ thì kịp nhớ ra bộ truyền dịch mà chỉ thêm một bước nữa, tôi sẽ vô tình giật nó khỏi cánh tay, rồi mất vài giây cố quyết định xem liệu mình có thể mang cái túi ấy theo cùng thay vì rút kim ra hay không. Tôi sợ kim tiêm kinh lên được, nhưng cứ để nguyên đấy hẳn sẽ tồi tệ hơn là tự mình rút ra. Đệch mợ, đó là lý do duy nhất khiến tôi chẳng bao giờ đụng đến những thứ thuốc mạnh hơn như heroin hay meth. Nhát chết đến mức chẳng dám cắm kim tiêm vào người để được tận hưởng cơn phê kiểu đó. Thuốc viên thì dễ dàng. Hơn nữa tôi có thể tự trấn an rằng tôi chẳng phải là con nghiện thực thụ. Thế mà giờ tôi suýt sữa đã tự giết chết mình, chẳng khác gì bị sốc heroin. Gạt ý nghĩ khó chịu đó ra khỏi đầu, tôi lột lớp băng dính trên cánh tay rồi nghiến răng rút kim truyền ra. Tôi chuẩn bị tinh thần trước cơn buồn nôn luôn tấn công bất cứ khi nào nhìn thấy máu, đặc biệt là máu của mình, nhưng thật nhẹ nhõm làm sao khi tôi chẳng đau đớn gì và cũng không cảm thấy nôn nao. Một giọt máu nhỏ xíu tuôn ra từ vết chích, nên tôi dùng viền váy lau đi trước khi kịp nhớ ra là đáng lẽ mình phải thấy buồn nôn mới đúng. Có lẽ đó là lý do vì sao tôi có ảo giác về chuyện mình bị bê bết máu? Chẳng có mấy thứ khiến tôi phát hoảng đâu, ngoài chuyện đó. Cửa phòng lại mở ra làm tôi giật thót, đánh rơi đống dây truyền với vẻ mặt đỏ bừng tội lỗi khi một y tá khác bước vào. Người này trẻ hơn mụ vừa nãy nhiều, có lẽ mới ngoài đôi mươi, với mái tóc vàng cột đuôi gà bóng mượt và kiểu gương mặt tươi tắn không trang điểm mà tôi ước gì mình cũng có. Tôi mà để mặt mộc thì trông như con chết trôi, và dù tóc tôi cũng màu vàng, nhưng thực ra là do tôi tự nhuộm lấy, cũng có nghĩa nó là một đống bùi nhùi xoăn tít, xơ xác. Mắt cô y tá liếc sang bộ truyền dịch bị bỏ rơi, song có vẻ như cô ta chẳng bực bội gì khi thấy tôi đã tháo nó ra. “Tôi muốn đảm bảo là cô đã tỉnh táo và tươm tất”, cô ta nở nụ cười thân thiện hơn tôi trông đợi. “Có hai cảnh sát đang muốn nói chuyện với cô.” Một cơn rùng mình khiếp sợ bắn xuyên qua tôi. “V... vì sao?”, tôi hỏi, mặc dù khá chắc chắn là mình biết lý do. Họ ở đây để tống tôi vào khám. Tay sĩ quan quản thúc tôi phát hiện ra tôi lại dùng thuốc và khoảng thời gian tạm tha của tôi đã chấm dứt. Hoặc là họ muốn tôi chỉ nơi tôi đã mua thuốc. Hẳn tôi đã trắng bệch cả ra vì cô y tá đóng cửa lại và mỉm cười trấn an tôi. “Họ chỉ muốn nói chuyện với cô thôi. Cô sẽ không sao đâu. Ngồi xuống đây”, cô ta nói, nhẹ nhàng nhưng kiên quyết đẩy tôi xuống giường. Cô ta không bắt tôi phải nằm mà chỉ kéo chăn vòng quanh giường sao cho che hết phần người dưới và đôi chân trần của tôi. “Thế tốt hơn. Tôi biết là mình sẽ không đời nào nói chuyện được với bất kỳ loại quan chức nào trong tình trạng bán khỏa thân”, cô ta nháy mắt với tôi. Vẻ dễ chịu không ngờ của cô ta làm tôi hơi chới với, đặc biệt là sau vẻ thù địch công khai của mụ y tá trước đó. “Quần áo của tôi đâu hết rồi?” ... Mời các bạn đón đọc Khởi Đầu Từ Cái Chết của tác giả Diana Rowland.
Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.
Ác Linh Quốc Gia 2 - Trong Nháy Mắt Cười Cười
Ánh dương qua đi, bõng tối bao trùm, con người chìm trong giấc ngủ mộng mị. Chân tướng sự thật bị che giấu một cách giả dối ở một góc khuất lạnh lẽo. Có người thấy, nhưng lựa chọn bỏ qua. Con mèo với con ngươi đỏ thẫm, trong đêm tối đứng gọi đàn. Trong bóng tối... có bóng người quái dị đang không ngừng tiến đến! Chó cùng rứt dậu, ác quỷ tụ hội, tuyệt vọng và căng thẳng đến cực điểm! Vô số những sự kiện khiến người ta phải sởn gai ốc liên tục xuất hiện. Là trầm luân trong tuyệt vọng? Hay là trong tuyệt vọng tìm được lối thoát? Vẫn phải chờ đợi lời tuyên án tàn nhẫn đến từ số phận? Đây là thế giới tại quốc gia ác quỷ, một thế giới tràn đầy khủng hoảng và chém giết. *** Vì trước tiên muốn tới khu vực thứ hai gặp mặt Triệu Tĩnh Thù, cho nên Hạ Thiên Kỳ cũng không trở lại thành phố Phước Bình, mà ngay lập tức dẫn theo Sở Mộng Kỳ đi tìm Lãnh Nguyệt, sau đó ở lại chờ hai ngày.. Nói là gặp mặt, nhưng thực sự phải dùng từ chia tay để hình dung thì đúng hơn. Mãi cho đến ngày thứ ba khi bọn họ quay trở về thành phố Phước Bình, Triệu Tĩnh Thù mới hoàn thành nhiệm vụ quay về biệt thự. Không có Lãnh Nguyệt, cũng không có đám người Vương Tang Du,nhưng mà hắn và Triệu Tĩnh Thù còn có Sở Mộng Kỳ, cả thảy ba người ăn đơn giản một chút trước khi đi dự tiệc tối. Trên bàn cơm, Triệu Tĩnh Thù không nói quá nhiều, bầu không khí của ba người ít nhiều có phần gượng gạo, cuối cùng tất cả bầu không khí gượng gạo đó đều chuyển thành những lời chúc phúc. Hy vọng là ai cũng có thể bình yên, trong tương lai không lâu sẽ lại lần nữa đoàn tụ trên một con đường. Sở Mộng Kỳ trước đó cũng không biết, Triệu Tĩnh Thù từ chối yêu cầu mời cô gia nhập vào một đội của Hạ Thiên Kỳ, cho nên khi nghe nói đến Triệu Tĩnh Thù sẽ không cùng đi chung với bọn họ, thì lại vội vàng bắt đầu làm người thuyết phục Triệu Tĩnh Thù, nhưng mà cô vẫn như cũ đó là không thể nào thay đổi được suy nghĩ của Triệu Tĩnh Thù. Triệu Tĩnh Thù vẫn là quyết định ở lại, cho rằng khu vực thứ hai hiện tại cũng không hề thích hợp với cô. Dựa vào Đệ Tam Minh Phủ thì có thể làm thực lực bản thân tăng lên một cách vững vàng. Nhìn thấy Triệu Tĩnh Thù đã thật sự quyết định, Sở Mộng Kỳ mặc dù rất không bằng lòng, nhưng sau khi thấy Hạ Thiên Kỳ cũng không có nói cái gì, cô thở dài rồi cũng không lại tiếp tục kiên trì thêm nữa. Dù sao đi nữa thì với sự nhạy bén của Sở Mộng Kỳ, sẽ không thể nào không cảm nhận được giữa hai người Hạ Thiên Kỳ và Triệu Tĩnh Thù có xuất hiện thay đổi. Bởi vì khi cơm nước xong đều cũng đã khuya rồi, nghĩ đến bên trong đạo quán cũng chỉ có một cái giường đã bị hỏng, đến ngay cả một chỗ để ngũ cũng không có, cho nên Hạ Thiên Kỳ cũng không có đi vội vã, dự định chờ đến buổi sáng ngày mai rồi sẽ lên đường đi đến. Sở Mộng Kỳ và Triệu Tĩnh Thù sau khi đã tắm rửa xong hết, thì lại lần lượt về đến trong phòng ngủ, hai người đêm nay ngủ chung một chỗ, dễ nhận thấy là có rất nhiều chuyện muốn tán gẫu. Buổi tối Hạ Thiên Kỳ uống rượu rất ít, có lẽ là bởi vì sẽ rời đi, sự ưu tư trong lòng nổi lên rất nhiều, cho nên không hề buồn ngủ. Sau khi ở cạnh đầu giường liên tục hút hết hai điều thuốc lá, hắn lại một lần nữa mặc quần áo, hòa mình vào trong bóng đêm rời khỏi biệt thự. Trong thoáng chốc, thân thể hắn đã xuất hiện trước cổng khu vui chơi. Hắn đi đến đây cũng không phải là vì không ngủ được cho nên muốn đi tìm một chỗ để chơi đùa, mà đơn giản là muốn gặp mặt ông chủ khu vui chơi một lần. Dù sao người được gọi là ông chủ Tuyệt Đại lúc trước đã từng cứu họ một mạng, chính là điều quan trọng hơn, hắn muốn biết rõ ràng thân phận của người kia. Vì sao thực lực của ông ta mạnh mẽ như vậy, nhưng mà trên tay lại không có đeo đồng hồ vinh dự. Phải biết rằng bất kề là có rời khỏi Minh Phủ hay không, thì trên cổ tay đều có mang đồng hồ vinh dự, bởi vì toàn bộ phần thưởng đều là thông qua đồng hồ vinh dự để tiến hành truyền lại. Tựa như Lãnh Nguyệt và Sở Mộng Kỳ cũng thế, bọn họ mặc dù là đã rời khỏi Minh Phủ, gia nhập vào đoàn thể của hắn, nhưng mà muốn phải đạt được phần thưởng, thì cũng phải yêu cầu hắn cầm điểm vinh dự hoặc là cho điểm, với hình thức là gửi đi đến trên đồng hồ vinh dự của hai người bọn họ. Cho nên trừ phi là con người tên gọi là Tuyệt Đại kia, từ trước đến nay vẫn chưa từng gia nhập vào Minh Phủ, nếu không thì gần như là không có khả năng cầm đồng hồ vinh dự ném bỏ đi được. Dù sao đi nữa thì hắn cũng không ngủ được, chẳng bằng cứ đi thử thời vận, có lẽ có thể gặp được người nọ một lần, sẽ được biết một số chuyện mà hắn không biết. Bốn phía của khu giải trí này cũng không có sự bao phủ của Quỷ Vực, Hạ Thiên Kỳ cũng không có cảm giác được bất cứ dao động của sức mạnh nào. Sau khi sức mạnh tăng lên đến trình độ giám đốc này, khả năng điều khiển về không gian và cảm nhận khí tức của hắn cũng trở nên nhạy bén. Bất kể là người có được thuật pháp, hay là ngưởi có thể chất quỷ vật, chỉ cần là bọn chúng sử dụng thêm sức mạnh của bản thân, đang ở cách hắn trong một phạm vi nhất định là hắn sẽ cảm nhận được. Vậy nên nơi đây không hề có quỷ vật. Quỷ vật trời sanh đã có khả năng ẩn giấu hơi thở, cho nên nhiều lúc không có cách nào thông qua hơi thở để khoanh tròn vị trí của quỷ vật. Biện pháp hiệu quả nhất chính là cảm nhận Quỷ Vực, dù sao những quỷ vật hắn sắp đối mặt, đa phần thực lực nằm ở cấp độ Ác Quỷ, Mặc dù hắn khó có thể cảm nhận khí tức Quỷ Vật, nhưng cảm giác sự tồn lại của Quỷ Vực lại không thành vấn đề. Đi vào trong khu giải trí, đi đến một loạt gian phòng ở chỗ tầng trệt, Hạ Thiên Kỳ mới vừa rẽ đến noi, lại nhìn thấy người phục vụ mà hắn đã từng có trò chuyện qua một lần, đang bưng một số vỏ chai rượu từ bên trong hành lang đi ra. "Hạ tiên sinh, đã lâu không thấy anh quay lại đây chơi." Nhìn thấy Hạ Thiên Kỳ, người phục vụ kia liếc mắt một cái là đã nhận ra hắn, đến tận bây giờ vẫn còn nhớ được rất rõ ràng, Hạ Thiên Kỳ đã từng cho anh ta không ít tiền boa. "Ừ, một quãng thời gian trước đây luôn luôn có việc phải bận rộn nên không đến được, lúc này có rảnh rỗi được một chút, thì tranh thủ thời gian quay lại đây đi dạo." Khách sáo đến đây, Hạ Thiên Kỳ đề cập vào trọng tâm: "Đúng rồi, ông chủ của các người có ở đây không?" "Ông chủ không có ở đây, cũng đã lâu rồi không thấy ông ấy tới nữa!" Người phục vụ lắc đầu, nhìn Hạ Thiên Kỳ hơi có phần nghi ngờ hỏi: "Anh tìm ông chủ chúng tôi có việc hay sao?" "Ừ, quả thật là có chuyện muốn tìm ông ấy, anh có cách nào để liên lạc với ông ấy hay không? Điện thoại hay gì đấy." "Không có. Làm sao mà những người làm công như chúng tôi đây lại có cách liên lạc với ông chủ." Nghe người phục vụ nói không có, trong lòng Hạ Thiên Kỳ ít nhiều cũng có chút thất vọng, chỉ có điều hắn cũng không hề biểu hiện ra ngoài, chỉ cười cười rồi đi đến gian nhà phía bên trong. Trong lòng Hạ Thiên Kỳ thất vọng vô cùng, nhưng hắn cảm thấy không phải là hết cơ hội gặp được ông chủ. Nếu như không có duyên thì hắn cũng không cưỡng cầu. Có điều, hắn lại có một loại trực giác mách bảo rằng, sớm muộn gì hắn cũng sẽ gặp được người đó. Bây giờ nghĩ lại, thực lực ông chủ chỗ này ít nhất cũng là cấp bậc giám đốc. Vì lúc ấy ông ta không ra tay mà lại có thể ngăn chặn Lãnh Nguyệt, hơn nữa dọa cho Giang Trấn chạy mất, nên Hạ Thiên Kỳ cũng khó đoán ra được thực lực chính xác của đối phương. Chạy trên tàu điện một hồi, Hạ Thiên Kỳ uống vài bia, cảm thấy không có gì hay ho rồi lại trở về biệt thự. Nằm ở trên giường, vẫn không có chút buồn ngủ, trằn trọc hơn nữa ngày, Hạ Thiên Kỳ mới mơ màng thiếp đi. Giấc ngủ này rất tệ, vì cả đêm hắn gặp ác mộng. Có thể nói là từ khi gia nhập vào Minh Phủ cho đến hôm nay, mộng đẹp với hắn thì hoàn toàn không có duyên phận với nhau, mỗi ngày nếu như không phải bị quỷ đuổi giết, thì chính là bị vây trong ảo cảnh, tim đập nhanh đến mức gần như sắp chết đi. Rửa mặt đơn giản xong, thay đổi quần áo trên người, Hạ Thiên Kỳ lại vội vàng đi xuống lầu. Chờ cho đến khi hắn đi đến dưới lầu, thì phát hiện ra Sở Mộng Kỳ đang ngồi ở trong phòng ăn ăn điểm tâm sáng mà lại hơi có phần ngây người ra, hắn không nhìn thấy Triệu Tĩnh Thù, lập tức hỏi: "Vì sao lại không thấy Tĩnh Thù đâu?" "Cô ấy không có ở trong chỗ này, vừa đi ra ngoài rồi!" Lúc này Hạ Thiên Kỳ cũng ngồi xuống, sau đó cũng tự lấy cho mình một bát cháo, lại cầm thêm một cái bánh bao thịt bắt đầu ăn. Sở Mộng Kỳ không làm cơm nên hiển nhiên bữa sáng này đều là do Triệu Tĩnh Thù vì bọn họ mà chuẩn bị. "Cô ấy đi đâu?" "Không biết, nhưng mà cô ấy nói là chúng ta không cần chờ cô ấy." Sở Mộng Kỳ vẫn không nhìn đến Hạ Thiên Kỳ như trước, thì thào mà nói. "Vì sao vậy? Bây giờ tôi gọi cho cô ấy một lần xem!" Hạ Thiên Kỳ vừa mới nói sẽ gọi qua cho Triệu Tĩnh Thù, nhưng lại bị Sở Mộng Kỳ ngăn cản lại: "Anh đây là khờ khạo thật hay là bị ngớ ngẩn đây, nhìn đã biết là Tĩnh Thù không muốn để cho chúng ta nhìn thấy dáng vẻ đau lòng của cô ấy, cho nên mới không tiễn chúng ta." Hạ Thiên Kỳ nghe xong không nói gì, nhưng mà lại gật đầu theo bản năng, chỉ có điều bánh bao đang nhai ở trong miệng, hương vị lại đột nhiên đắng đi đến mấy phần. ... Mời các bạn đón đọc Ác Linh Quốc Gia 2 của tác giả Trong Nháy Mắt Cười Cười.
Hẹn Mùa Hoa Cúc - Ueda Akinari
Nhật Bản thế kỷ 18 đã sản sinh ra một tác phẩm kinh điển của thể loại chí quái, không thua kém "Liêu Trai chí dị" hay... phim Hollywood ngày nay. Chẳng cứ phim Hollywood, yếu tố này trong Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh là một ví dụ cổ điển vô cùng nổi tiếng. Nhưng Liêu Trai chí dị có lẽ chỉ nổi tiếng hơn vì Trung Quốc đông dân, chứ một cấu tứ như vậy không hề hiếm gặp, ở Việt Nam thì có Truyền kỳ mạn lục, còn Nhật Bản, tuy có lẽ hiếm được độc giả Việt Nam biết đến về mảng này, cũng có Hẹn mùa hoa cúc, một tác phẩm không kém cạnh chút nào về những yếu tố ma quỷ ảo diệu hay những thông điệp ẩn giấu đằng sau sự ma mị. Trong Hẹn mùa hoa cúc, cũng như Liêu Trai chí dị, ma quỷ thì nhiều, nhưng những hồn ma bóng quỷ ấy chẳng đủ sức làm những độc giả đã quen với kỹ xảo doạ dẫm của điện ảnh hiện đại phải e ngại. Những câu chuyện hồn ma vượt đường xa để giữ lời hứa với bạn, người vợ đã chết vẫn thuỷ chung chờ chồng, hay ngay cả người vợ bị bỏ rơi hoá thành ma nữ đuổi theo người chồng bội bạc và nhân tình, dù là ma đấy quỷ đấy nhưng không hề giật gân hù doạ. *** Nguyên tác Kikka no Chigiri ( lời ước hẹn gặp lại nhau giữa mùa hoa cúc) của Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành) đã in trong Ugetsu Monogatari (Vũ Nguyệt Vật Ngữ) hay Truyện Đêm Mưa Trăng Lu. Theo lời tựa, tập truyện được viết xong vào một đêm tháng ba trời mưa trăng lu năm Minh Hòa thứ 5 (1768), lúc tác giả 34 tuổi. Bản đầu tiên in năm An Vĩnh thứ 5 (1776). Người dịch dùng bản được Asano Sampei hiệu chú và nhà xuất bản Shinchô phát hành năm 1979. Sinh năm 1734 trong một xóm yên hoa ở Osaka (1) , Ueda là đứa con vô thừa nhận của một cô gái làng chơi. Lên bốn, mẹ bỏ không nuôi, được một thương gia giàu có và tốt bụng nhưng không con trai, đem về cho ăn học. Ông bị lên đậu ngặt nghèo, tuy thoát chết nhưng liệt hết mấy ngón tay (nên một trong những bút hiệu của ông là Zenshi Kijin (2) nghĩa là Quái Nhân Cụt Ngón). Sau khi sống một quãng đời thanh niên đồi trụy, ông sớm thức tỉnh trở lại nối nghiệp cha nuôi buôn dầu và buôn giấy nhưng không mấy chí thú vì vẫn mang giòng máu nghệ sĩ. Năm 1771, sau trận hỏa tai làm tiêu tan sản nghiệp, ông chuyển sang nghề đông y và viết văn. Cuối đời (1793), về sống ở Kyoto và mất năm 1809, trong nghèo túng, vợ chết, không con cái và hầu như mù. Tên tuổi Ueda Akinari gắn liền với văn xuôi Nhật Bản cận đại. Ảnh hưởng của ông rất sâu đậm đối với Kyokutei Bakin (1767-1848), tiểu thuyết gia số một thời Edo và những thế hệ đi sau (3). Phần ông thì chịu ảnh hưởng của các tiểu thuyết gia đời Minh như La Quán Trung (4), Phùng Mộng Long (5) ... Riêng Hẹn Mùa Hoa Cúc đã mượn đề tài truyện " Phạm Cự Khanh Kê Thực Sinh Tử Giao " (6) sưu tập trong tiểu thuyết bạch thoại Trung Quốc của họ Phùng, Cổ Kim Tiểu Thuyết, quyển thứ 16. Akinari thích viết truyện quái đản vì nó là loại văn phổ biến nhất trong quần chúng đương thời nhưng có thể một phần do bản chất thần bí của chính ông. Suốt đời, ông hay viếng đền thần chồn Inari vì tin thần đã cứu mạng lúc mình lâm bạo bệnh. Giáo sư René Sieffert đã dịch truyện nầy sang Pháp văn (xem Le Rendez-vous aux Chrysanthèmes trong Contes de pluie et de lune, Unesco, Folio, Paris, 1956). Xin để ý lời văn trong truyện nầy tuy có dụng công nhưng chung qui rất thô phác, cổ kính, ngay khi đã được chuyển ra kim văn. Niên hiệu An Vĩnh (An-ei, 1772-1781) bên Nhật, lúc tác phẩm ra đời, tương đương với thời Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phù Lê diệt Trịnh ở nước ta. Mời các bạn đón đọc Hẹn Mùa Hoa Cúc của tác giả Ueda Akinari.