Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gọi Tên Kẻ Chết

Một vụ án mạng xảy ra – nhưng vì nạn nhân là kẻ vừa mãn hạn tù, không một ai thực sự quan tâm, cho dù Thanh tra John Rebus và Hạ sĩ Siobhan Clarke đangcảm thấy còn điều gì gờn gợn…   Bấy giờ các nhà lãnh đạo thế giới đang đổ về Scotland tham dự hội nghị quốc tế G8. Giới cảnh sát đang bận rộn cho sự kiện, ngoại trừ John Rebus. Ông là người duy nhất đang trực trụ sở cảnh sát hoang vắng khi một cuộc gọi khẩn đổ chuông. Một nghị sĩ trẻ nào đó đã ngã tử vong từ trên tường cao lâu đài Edinburgh. Tai nạn, tự sát, hay là điều gì khác đáng quan tâm?Liệu có liên quan gì đến bằng chứng đáng sợ tìm thấy ở hiện trường nhiều vụ án gần đây? Trong khi phía cơ quan chính phủ và lực lượng đặc vụ chỉ nỗ lực ém nhẹm mọi chuyệnhòng đảm bảo hội nghị tầm cỡ quốc tế diễn ra êm đẹp, Rebus biết ông có không quá bẩy mươi hai giờ để tìm ra câu trả lời sinh tử…   “Một Rankin kinh điển, và nếu đã từng yêu mến một Rebus kiên định, bạn sẽ say đắm cuốn tiểu thuyết này. Một tội ác đầy tinh vi, khiến người đọc không ngừng lật trang.” - Independent   “Kết hợp một tác phẩm trinh thám hiện đại đầy lôi cuốn khiến phải lật trang liên tục vớimột tiểu thuyết chính trịđầy phức tạp luân lý.” - Irish Times *** IAN RANKIN sinh tại Fife năm 1960, Ian Rankin tốt nghiệp Đại học Edinburgh năm 1982, sau đó dành ba năm viết tiểu thuyết thay vì tập trung hoàn thành luận án Tiến sĩ Văn chương Scotland. Trước khi thành công trong nghiệp viết, ông đã từng trải nghiệm nhiều công việc như thu hoạch nho, chăn lợn, thu thuế, nhà nghiên cứu về thức uống chứa cồn, ký giả chuyên viết về hệ thống âm thanh chất lượng cao và cả công việc của một nhạc sĩ chơi nhạc punk. Series tiểu thuyết Thanh tra Rebus nổi tiếng của ông cho đến nay đã được dịch ra trên hai mươi hai thứ tiếng, nhiều tiểu thuyết trong series là sách bán chạy xuyên lục địa. Ian Rankin là thành viên ủy ban giải thưởng Hawthorden, tác gia đoạt giải thưởng Chandler Fullbirght Award cao quý, cùng với bốn giải Dao găm do Hội Nhà văn Trinh thám (CWA) trao tặng. Cho những cống hiến đối với nền văn học, ông còn được trao Huân chương Anh quốc. *** Gọi tên kẻ chết “Chúng ta phải quan tâm đến chính trị, vì chính thứ đó đẩy quay bánh xe cuộc sống của chúng ta.” Chính câu nói này đã khiến tôi có thêm động lực để nhảy vào cái hố khá sâu của tác phẩm này. Câu chuyện kéo dài gần 600 trang, theo như mọi cuốn sách ngôn tình khác, nó có thể kể hết câu chuyện tình yêu đau thương mấy đời mấy kiếp của các nhân vật, nhưng trong “ Gọi tên kẻ chết”, đó là câu chuyện vỏn vẹn trong vòng chín ngày : 1/7/205 – 9/7/205. Đây là thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh của khối G8 tại Scotland, một giai đoạn lịch sử đã từng tốn không biết bao nhiêu bút mực của giới báo chí, và sự quan tâm của thế giới.   Một vụ án mạng 6 tuần ngay trước hội nghị thượng đỉnh nhưng không nhận được sự quan tâm tối thiểu nhất của giới pháp luật và cảnh sát. Cái chết của Cyril Colliar, một kẻ vừa mãn hạn tù với một lố những tiền án tiền sự và nóng hổi nhất là vụ cưỡng hiếp hắn vừa thụ án xong. Tất cả điều tra viên đều lãnh đạm không thèm dùng đến từ “ nạn nhân” như thường lệ, mà thay bằng từ “kẻ chết”, đủ hiểu bọn họ đối với hắn chán ghét cỡ nào. Cyril Colliar bị chết do nứt sọ và kẻ sát nhân đã bồi thêm cho hắn một cylinder đầy heroin nguyên chất. Một mảnh của áo khoác da hắn mặc bị cắt ra và sau đó được tìm thấy treo lủng lẳng trên cây ở một nơi gọi là Clootie Well chung với rất nhiều mảnh vải và thứ đồ dị hợm khác như một phong tục âm linh quái dị. Sau khi pháp chứng làm việc, qua một số manh mối, họ lại tìm ra được 2 nạn nhân khác và xác định đây là một vụ giết người hàng loạt, và nạn nhân là những kẻ có tiền án tiền sự và đặc biệt là đã từng dính dáng đến tội dâm ô- cưỡng hiếp hoặc quấy rối tình dục. Dự định đi theo phương hướng này để điều tra, nhưng thanh tra- sắp-về-hưu John Rebus và hạ sĩ trẻ Siobhan Clarke không được sự ủng hộ của cấp trên lẫn sự trợ giúp của các đồng nghiệp. Tất cả bọn họ đều thờ ơ với cái chết của những kẻ đã từng phạm tội và cho rằng đó chính là quả báo của cuộc sống ngoài vòng luật pháp. Trong lúc vụ án này có tiến triển thì lại một vụ án khác xảy ra, một nghị sĩ rơi từ tường cao của lâu đài Edinburgh khi buổi tiệc chào đón trước thềm G8, không nhân chứng, không một dấu vết chứng tỏ anh ấy bị giết hay tai nạn. Nhưng mối quan hệ của nạn nhân và những manh mối trong cuộc sống và công việc của anh ta để lại khiến Rebus và Siobhan không thể đánh đồng vụ này với một tai nạn. Một vụ án mạng liên hoàn còn chưa được kết thúc lại xuất hiện thêm một vụ án khác, nhưng tất cả đều bị giấu nhẹm đi và ém tin tức một cách triệt để vì hội nghị thượng đinh chính là rào cản lớn nhất với vô số bạo loạn, diễu hành, an ninh và thể diện quốc gia cần được đặt lên hàng đầu. Mọi thứ như những bánh xe trong một guồng máy phức tạp, một khi một chiếc bánh đã quay sẽ kéo theo hàng loạt thứ trượt xa hơn so với những gì ban đầu dự tính.Mở đầu tác phẩm là một không khí ảm đạm, tang thương và có phần bức bối của gia đình Rebus và các vụ án mạng, tiếp theo đó là sự náo loạn vồn vập của hội nghị thượng đỉnh và giới chính trị. Tác phẩm hội tụ đầy đủ một xã hội với giới pháp luật, chính trị, thương nhân, ký giả , tội phạm và người dân. Họ xâu xé lẫn nhau, tính kế lẫn nhau, đối địch lẫn nhau nhưng rồi lại có lúc như những sinh vật lại chạy về cộng sinh với nhau để cầu sống, cầu tài, cầu danh vọng và cầu bình an. Tác phẩm này có lẽ sẽ không để dành cho những bạn trẻ không đủ kiên nhẫn vì nó rất chậm, và rất thật. Trong một mớ bòng bong hỗn loạn và không có một đội điều tra của riêng mình, thanh tra Rebus và hạ sĩ Siobhan phải tranh thủ từng li từng tí các mối quan hệ hoặc cơ hội để gom về chút ít thông tin và manh mối từ miệng của cấp trên, những kẻ trong cuộc và ngoài cuộc, thậm chí là những con chốt được cài vào các ván cờ chính trị của những kẻ đứng sau đó. Họ chật vật với từng giây từng phút, ngột ngạt trong một mạng nhện khổng lồ càng ngày càng thít chặt họ. Họ đặt cược cả sinh mạng và tiền đồ chỉ để mong không một kẻ phạm tội nào có thể thoát được lưới pháp luật. Câu chuyện rất dài nhưng tác giả không để độc giả nghỉ ngơi trong một giây một phút nào. Không một trang giấy nào để các nhân vật chúng ta nói chuyện phiếm hay thư giãn phí hoài thời gian. Mọi mối quan hệ đều qui về công việc, mỗi trang giấy đều chạy từ đầu này của vụ án đến đầu kia của cuộc bạo loạn. Từng chi tiết, từng ngõ ngách của cuộc diễu hành, từng nét mặt của những người bạo loạn đều được mô tả kỹ càng. Kỹ năng mô tả và liên hệ của tác giả rất tốt, liên kết rành mạch từ chuyện này sang chuyện kia rồi quay lại nhưng không bị quá lố hoặc quá lan man. Tuy nhiên, vì cố gắng giăng một cái bẫy quá lớn, quá nhiều người bị kéo vào vòng xoáy vụ án này mà câu chuyện rề rà đến mức khá mệt mỏi. Chạy một vòng lớn, rất lớn, và đôi lúc bị trì trệ một cách thảm hại, các nhân vật của chúng ta lại quay trở về điểm xuất phát và phát hiện ra sự thật đơn giản sau vấn đề phức tạp. Một cái kết vô lý nhưng vô cùng hợp lý trở thành điểm trừ cho tác phẩm vì nó thực sự gây ức chế với độc giả sau chặng đường dài gian nan đã đi qua. Điểm trừ lớn nhất cho tác phẩm này chính là dich thuật và biên tập của Nhã Nam. Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi dịch thuật đầy rẫy trong cuốn sách như một chén cơm nóng đầy sạn và đá. Từ ngữ Anh-Việt được dùng lẫn lộn, danh từ chỉ tên riêng của địa danh và nhân vật lại bị dịch ra một cách không mượt mà, viết hoa tá lả linh tinh và chưa kể một số từ tiếng anh được phiên âm để đọc theo tiếng việt thực sự gây ức chế tột cùng khi đọc. Meeting- mít tinh London- Luân Đôn ( nhưng Scotland, Edinburgh và Clootie Well giữ nguyên) Blouse- Áo bờ-lu Pudding- bánh pút đinh Gothic- kiến trúc gô- tích Techno- tếch-nô Minh Hằng *** Tiếng nhạc nổi lên tiếp nối những thanh âm vang vọng của bản thánh ca. Ca khúc “Tình yêu bao trùm lên tôi” của ban nhạc Kẻ Nào. Rebus nhận ra bài hát ngay từ đoạn dạo đầu với tiếng sấm và tiếng mưa rơi đặc trưng giờ đã tràn ngập không gian nhà thờ. Chrissie cứ nhất định muốn Rebus ngồi ở hàng ghế trên. Ông thực lòng chỉ muốn lui xuống phía sau: nơi ông thường ngồi mỗi khi dự tang lễ. Con trai và con gái của Chrissie ngồi ngay bên cạnh bà. Lesley đang vỗ về mẹ, vòng tay ôm lấy người bà khẽ siết chặt mỗi khi bà nức nở. Kenny chỉ đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt, cố gắng kìm chặt mọi cảm xúc. Buổi sáng, khi còn ở nhà, Rebus đã hỏi tuổi cháu trai. Vào tháng tới Kenny sẽ tròn ba mươi, còn Lesley kém anh trai hai tuổi. Trông hai anh em đều rất giống mẹ, khiến cho Rebus nhớ lại những lời nhận xét kiểu như Giỏ nhà ai, quai nhà ấy mà mọi người vẫn nói về Michael và ông. Michael… mà mọi người vẫn quen gọi là Mickey. Em trai của Rebus, giờ đang lặng thinh nằm đó trong chiếc quan tài có tay cầm sáng bóng, ra đi ở tuổi năm mươi tư, cái tuổi mà theo tiêu chuẩn của xứ Scotland này thì chỉ ngang với tuổi thọ người dân ở một nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Có rất nhiều giả định - nào là lối sống, chế độ ăn, rồi cả yếu tố di truyền. Biên bản khám nghiệm tử thi đầy đủ vẫn chưa được thực hiện. Qua điện thoại, Rebus được Chrissie cho hay đó là một cơn đột quỵ nghiêm trọng, trấn an ông rằng mọi chuyện xảy ra “hoàn toàn đột ngột” - cứ như thể như thế thì có gì khác biệt. Đột ngột - tức là Rebus chẳng thể nói lời từ biệt với em trai. Cũng có nghĩa những lời cuối cùng giữa hai anh em chỉ là một mẩu chuyện phiếm trên điện thoại hồi ba tháng trước về câu lạc bộ Raith Rovers mà Michael yêu mến. Một chiếc khăn quàng của đội Raith, màu xanh lục pha trắng, được vắt ngang qua quan tài, kế bên vòng hoa tang. Kenny đeo chiếc cà vạt mà bố Michael từng dùng, trên có tấm khiên biểu tượng của đội Raith - con mãnh thú gì đó đang giơ cao một cái đai lưng. Rebus đã hỏi về ý nghĩa của biểu tượng đó nhưng Kenny chỉ khẽ nhún vai. Dõi mắt dọc theo hàng ghế, Rebus thấy người chỉ dẫn làm dấu. Tất cả những người dự tang lễ đều đứng lên. Chrissie chậm rãi bước dọc lối đi, hai người con theo sát ở hai bên. Người chỉ dẫn đưa mắt nhìn Rebus, nhưng ông vẫn đứng yên tại chỗ. Xong ngồi xuống để ra hiệu cho em dâu và các cháu không phải chờ mình. Bài hát mới được nửa chừng. Đó là ca khúc cuối cùng trong đĩa nhạc Quadrophenia. Michael vẫn luôn là fan hâm mộ cuồng nhiệt của nhóm Kẻ Nào, còn cá nhân Rebus thì lại yêu thích ban nhạc Rolling Stones hơn. Dù vậy vẫn phải công nhận rằng các album như Tommy và Quadrophenia đã làm được những điều mà The Rolling Stones không tài nào có thể. Giọng ca Daltrey của ban nhạc đang phấn khích gào về việc muốn uống rượu. Rebus cũng đồng tình, nhưng còn phải tỉnh táo cả chặng lái xe trở về Edinburgh. Phòng họp của một khách sạn địa phương đã được đặt trước. Đứng trên bục giảng kinh, vị mục sư chủ tọa nhắc nhở rằng tất cả bạn bè thân hữu đã tới chia buồn đều được mời. Những ly whisky và những tách trà được bưng ra, rồi bánh kẹp cũng sẽ được mang lên. Mọi người sẽ cùng nhau ôn lại những câu chuyện và kỷ niệm thân thương về người quá cố, mỉm cười an ủi, trầm ngâm đồng cảm với nhau và cùng chia sẻ nỗi buồn qua ánh mắt. Các nhân viên khách sạn sẽ rút lui trong lặng lẽ, để tôn trọng bầu không khí. Rebus cố gắng sắp xếp câu chữ trong đầu mình, những từ ngữ sẽ thay ông xin lỗi. Chrissie à, tôi cần phải trở về ngay. Có quá nhiều việc. Ông có thể nói dối và đổ lỗi cho hội nghị thượng đỉnh G8. Buổi sáng nay, trước khi ra khỏi nhà, Lesley đã nói rằng Rebus chắc hẳn đang rất bận rộn với công tác chuẩn bị cho hội nghị này. Ông đã có thể nói thế này với cô cháu gái, Ta là viên cảnh sát duy nhất mà dường như họ không cần tới. Cảnh sát được triệu tập từ khắp mọi nơi. Chỉ tính riêng ở Luân Đôn đã có tới mười lăm nghìn sĩ quan. Thế nhưng thanh tra John Rebus dường như lại trở thành người thừa trong cuộc điều động nhân lực khổng lồ này. Phải có người ở lại chèo lái con thuyền chứ - những lời từ chính miệng tổng thanh tra James Macrae, đi kèm kiểu cười thầy dòng tự mãn đáng ghét quăng lại. Thanh tra Derek Starr đoan chắc mình sẽ trở thành người kế vị ngai vàng của triều đại Macrae. Rồi sẽ có ngày hắn nắm trong tay quyền điều hành Sở Cảnh sát quảng trường Gayfield này. John Rebus chẳng thể nào là một mối họa cho viễn cảnh đó, còn chưa đầy một năm nữa là đến ngày ông phải về hưu. Chính Starr cũng đã nói những lời đại loại như: John à, sẽ không ai chê trách anh về việc tụt dốc trong nghề đâu. Ai ở độ tuổi của anh cũng vậy cả. Có thể là đúng vậy thật, nhưng các thành viên nhóm The Rolling Stones đều già hơn Rebus; cả Daltrey và Townshend cũng nhiều tuổi hơn ông. Ấy vậy mà họ vẫn chơi nhạc, vẫn cứ đi lưu diễn đấy thôi. Bài hát đang dần đi vào đoạn kết, Rebus lại nhỏm người đứng dậy. Lúc này chỉ còn mình ông trong nhà thờ. Đưa mắt nhìn về phía tấm màn nhung màu tía lần cuối. Chiếc quan tài có thể vẫn nằm sau tấm màn; nhưng cũng có thể nó đã được chuyển tới khu khác của lò hỏa táng. Rebus ngẫm nghĩ nhớ lại thời niên thiếu, hai anh em ông hào hứng thưởng thức những ca khúc của thập niên 45 trong căn phòng chung trên con phố High của thị trấn Kirkcaldy, bài ”Thế hệ của Tôi” và ”Sự thay thế”, Michael thắc mắc về cách mà Daltrey nhấn nhá ca từ trong bài hát đầu tiên, còn Rebus thì nói ông đã từng đọc được ở đâu đó rằng việc hát như thế là có dính líu đến chất kích thích. Hồi ấy, chất kích thích duy nhất mà hai anh em cùng ham mê là chất cồn, những ngụm đầy tràn từ các chai trên chạn bếp, một can bia đen mùi tanh tanh được khui ra, vậy là say sưa trong bóng đêm sau giờ tắt đèn. Mickey đứng trên khu phố tản bộ của Kirkcaldy, hướng ánh nhìn chăm chú ra ngoài biển, miệng lẩm nhẩm lời hát “Tôi có thể trông qua hàng dặm trường”. Nhưng liệu khung cảnh này có thực sự là những gì đã xảy ra không nhỉ? Đĩa nhạc này ra lò vào những năm 66-67, khoảng thời gian ấy Rebus vẫn đang phục vụ trong quân ngũ. Ắt hẳn là một kỳ nghỉ phép của Rebus. Phải rồi, Mickey khi ấy để tóc dài ngang vai, cố gắng bắt chước phong cách của thần tượng Daltrey, còn Rebus để kiểu đầu quân nhân đặc trưng, bịa những mẩu chuyện nhằm tô hồng cho cuộc sống quân ngũ, Bắc Ai-len vẫn đang ở phía trước…   Mời các bạn mượn đọc sách Gọi Tên Kẻ Chết của tác giả Ian Rankin & Trịnh Xuân Thắng (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ác Quỷ Thành Phố Trắng
“Ác quỷ thành phố trắng” là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất của tác giả Erik Larson, và được tờ The New York Times bình chọn là cuốn sách best seller. Năm 2004, cuốn sách nhận giải thưởng Edgar cho hạng mục Tác phẩm về tội phạm có thật xuất sắc nhất.  Cuốn sách thuật lại hành trình xây dựng Hội chợ thế giới của nhóm kiến trúc sư tài hoa ở Chicago sau khi thành phố này giành quyền đăng cai tổ chức hội chợ. Thành phố Chicago nhanh chóng thành lập một công ty chính thức mang tên là: “Công ty hội chợ thế giới Hoa Kì”, nhằm cung cấp tài chính và xây dựng. Và nhà thiết kễ chính là Burnham và Root, được yêu cầu phải xây dựng gần như cả một thành phố và vượt lên trên sự tuyệt vời của hội chợ Paris, gánh nặng đè lên vai, việc thất bại là không thể vì nó sẽ ảnh hưởng đến danh dự và tổn hại của quốc gia. Quá trình xây dựng được bắt đầu, nhưng không ai ngờ rằng chỉ cách khu hội chợ quy mô và hấp dẫn nhất thế giới vào thời kì ấy chỉ vài bước chân, tên sát nhân hàng loạt đã xây dựng một khách sạn được trang bị bàn mổ, lò thiêu và những thùng axit. Cả thành phố hối hả với hội chợ mà “bỏ lỡ” kẻ sát nhân tàn ác với những thủ đoạn tinh vi. Thời gian diễn ra hội chợ hắn đã giết chết hàng chục người, đa số là phụ nữ trẻ. “Tôi sinh ra với ác quỷ trong mình. Tôi không thể thay đổi sự thật rằng tôi là kẻ sát nhân, giống như các nhà thơ biến cảm hứng thành vần điệu”.Vậy hắn là ai mà giết chóc nhiều như vậy nhưng không bị phát hiện? *** Erik Larson là tác giả nổi tiếng với dòng truyện phi hư cấu về lịch sử và trong đó không thể không nhắc tới cuốn “Sống sót ở Berlin”. Cuốn sách nói về lịch sử nước Đức ngày càng chìm sâu trong bóng tối sau thời khắc Trùm Phát xít Adolf Hitler trở thành Thủ tướng của Đế chế Đức vào năm 1933. Kể từ đó trở đi, nước Đức xảy ra bạo lực liên miên và nạn phân biệt chủng tộc, đặc biệt đối với người Do Thái, Hitler quan ngại với người Do Thái bởi chính sự tài năng của nhóm người đó sẽ làm ảnh hưởng, cản trở đối với quyền lực của hắn. Đúng vào thời điểm đó, ông William E.Dodd – một giáo sư lịch sử được cử sang Berlin làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Đức. Ông cùng cô con gái – Martha sớm được trải nghiệm một nước Đức kỳ lạ, tươi đẹp, nhưng cũng đầy rẫy hiểm nguy bủa vây. Trong khi đó, Hitler lại ngày càng tỏ ra thiện chí và ưa chuộng hòa bình. Nhưng liệu mọi người nghe thấy, nhìn thấy và ngửi thấy gì? Các nhà ngoại giao và du khách giải thích những sự kiện diễn ra xung quanh họ như thế nào? Và có ai thấy được bộ mặt thật của Trùm Phát xít Hitler và ngăn hắn lại khi quá muộn???... *** CÁI ÁC ẨN HIỆN (GHI CHÚ) Tại Chicago vào cuối thế kỷ XIX, giữa làn khói công nghiệp và tiếng còi tàu vang vọng, xuất hiện hai người đàn ông, cả hai đều đẹp trai, mắt xanh và đều lão luyện một cách bất thường trong các kĩ năng của họ. Mỗi người là hiện thân của một yếu tố trong động lực vĩ đại đặc trưng cho sự hối hả tiến vào thế kỷ XX của nước Mỹ. Một người là kiến trúc sư, đã xây dựng rất nhiều những công trình quan trọng bậc nhất của Mỹ, trong đó có tòa nhà Flatiron tại New York và Nhà Ga Trung Tâm của Washington, D.C.; người còn lại là một tên sát nhân, một trong những kẻ khát máu nhất trong lịch sử và là điềm báo của một hình mẫu Mỹ: Kẻ giết người hàng loạt tại đô thị. Mặc dù cả hai không bao giờ gặp nhau, ít nhất là một cách chính thức, số phận của họ lại được liên kết bởi một sự kiện huyền diệu độc nhất, dù hiện tại không còn được nhớ đến nhiều, tuy nhiên vào thời điểm bấy giờ thì lại sở hữu một sức mạnh có khả năng làm xáo trộn gần tương đương với cuộc nội chiến. Trong những trang tiếp theo, tôi sẽ kể câu chuyện của hai người đàn ông và sự kiện này, nhưng tôi phải thông báo trước: Dù một vài sự kiện sau đây có kỳ lạ hoặc rùng rợn đến đâu chăng nữa, đây không phải là một tác phẩm hư cấu. Bất cứ điều gì nằm trong dấu ngoặc kép đều đến từ một lá thư, hồi kí, hoặc các văn bản khác. Sự việc chủ yếu diễn ra ở Chicago, nhưng tôi xin độc giả lượng thứ khi thỉnh thoảng lại đảo qua ranh giới bang khác, như khi Thám tử Geyer đau buồn nhưng kiên cường bước vào căn hầm khủng khiếp cuối cùng. Tôi cũng mong độc giả kiên nhẫn khi đọc các cuộc hành trình bên lề thường xuyên diễn ra theo yêu cầu của câu chuyện, bao gồm cả những chuyến du ngoạn vào ngành kinh doanh xác chết nhằm mục đích y tế và việc sử dụng cây phong lữ Hoàng Tử Đen trong cảnh quan của Olmsted. Phía sau làn khói, máu me và mùn đất, cuốn sách này viết về sự phù du của cuộc sống và lí do tại sao một số người chọn cách lấp đầy thời gian trên cõi đời ngắn ngủi của mình bằng việc thực hiện những điều không tưởng, trong khi những người khác tạo ra nỗi buồn đau. Cuối cùng, đây là một câu chuyện của những xung đột không thể tránh khỏi giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Thành Phố Trắng và Thành Phố Đen. ERIK LARSON SEATTLE  Mời bạn đón đọc Ác Quỷ Thành Phố Trắng của tác giả Erik Larson.
Kẻ Cướp Cuối Cùng
David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của Kẻ Cướp Cuối Cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. *** “Kẻ cướp cuối cùng” tạo sức hút với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính của Harry Dolan, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Tác giả Harry Dolan sinh trưởng ở Rome, New York trước khi chuyển đến sống tại Ann Arbor, Michigan. Ông đã lấy chính thành phố nơi mình sinh sống làm bối cảnh chủ yếu cho series tác phẩm về nhân vật David Loogan, giúp câu chuyện trong cuốn sách thêm phần chân thực. Hiện hai cuốn sách sách trong series đã được phát hành tại Việt Nam là Vòng xoáy tội ác và mới đây nhất là Kẻ cướp cuối cùng. Cuốn cuối cùng trong series là The Last Dead Girl cũng sẽ sớm ra mắt bạn đọc Việt Nam. Kẻ cướp cuối cùng bắt đầu với việc David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của kẻ cướp cuối cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. Nhưng David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. Kẻ cướp cuối cùng vẫn duy trì được sức hút như ở Vòng xoáy tội ác, với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Nhịp truyện nhanh và các âm mưu được xây dựng chặt chẽ. Câu hỏi quan trọng, và cũng là điểm mấu chốt của cả câu chuyện, là tại sao có kẻ lại muốn giết họ sau từng ấy năm, được giữ kín cho đến nửa sau của cuốn sách. Trong cuốn sách thứ hai, nhân vật David Loogan tiếp tục giữ vai trò một biên tập viên nhiều thuyết âm mưu và một thám tử nghiệp dư liều lĩnh. Giờ đây, đồng hành bên anh còn có nữ cảnh sát Elizabeth Waishkey điềm tĩnh và mạnh mẽ. Truyện dành cho Elizabeth và cô con gái thông minh của mình, Sarah, nhiều cơ hội tỏa sáng. Câu chuyện bắt đầu bằng lời tự thuật của David Loogan, sau đó được chuyển đổi góc nhìn giữa các nhân vật khác nhau, để người đọc có thể hình dung những gì đang xảy ra bên ngoài tầm ảnh hưởng của nhân vật chính. Mặc dù được tiếp xúc với tên sát nhân qua điểm nhìn của hắn ngay từ những chương đầu, độc giả vẫn khó lòng suy ra toàn bộ âm mưu phía sau. Khi một nhà báo láu cá, một thượng nghị sĩ sắp nghỉ hưu, ứng cử viên Thượng nghị sĩ Callie Spencer cùng cha mình, viên cảnh sát bị bắn trong vụ cướp cách đây 17 năm, lần lượt xuất hiện trong cuốn sách, câu chuyện nhanh chóng trở nên phức tạp và khó đoán vô cùng. *** Trong văn phòng của tôi có một chuỗi hạt thủy tinh. Nó được treo trên thanh ngang của chiếc đèn bàn, đung đưa theo từng rung động nhỏ nhất. Những hạt thủy tinh có màu xanh thẳm như nền trời đêm. Khi ánh sáng nhảy múa trên đó, chúng toát lên vẻ dịu dàng, rạng rỡ và đầy sức sống. Tôi sẽ kể cho các bạn xuất xứ của chuỗi hạt này. Elizabeth đã đeo nó khi chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu. Chuyện đó xảy ra ngay tại đây, trong văn phòng này vào một đêm đông, sáu tầng nhà bên trên phố Main ở Ann Arbor. Elizabeth là thám tử. Tối hôm đó, cô được triệu tập tới hiện trường một vụ tai nạn xe hơi: Những đống kim loại nát bét, kính vỡ khắp nơi. Ba người chết, trong đó có một trẻ em. Đó là loại tai nạn bạn không bao giờ muốn chứng kiến, còn khi đã thấy rồi, bạn chỉ còn biết hi vọng mình có thể quên được nó. Cô đã nhìn thấy mọi chuyện và sau đấy muốn tránh khỏi đó càng xa càng tốt. Rồi cô đến chỗ tôi. Hôm đó, tôi ở lại làm việc muộn, nghe thấy tiếng cửa mở cùng tiếng chân cô bước qua văn phòng trống không phía ngoài. Và rồi cô đứng đó, trước ngưỡng cửa văn phòng. Elizabeth vốn có vóc người cao, chiếc áo khoác dài chỉ càng khiến cô trông cao hơn. Trên vai áo cô, mấy bông tuyết đang tan. Hai tà áo khoác mở rộng, chiếc áo cánh cô mặc bên trong cũng không cài cúc cổ áo. Ngón tay cô mân mê những hạt thủy tinh màu xanh dương đeo trên cổ. Nhưng toàn thân cô thì vẫn bất động. Tôi biết ngay có điều gì đó không ổn. Mặt cô tái nhợt, mái tóc đen nhánh và óng ả như cánh quạ buông xõa quanh khuôn mặt. Tôi đứng dậy khỏi bàn và bước tới chỗ cô, nhưng sự bất động của cô khiến tôi e ngại không dám đụng tới. Sau cùng, tôi đặt một bàn tay lên vai cô, rồi rút tay lại. Tuyết rơi nhẹ ngoài cửa sổ văn phòng. Chúng tôi đứng bên nhau một lúc lâu, tôi chẳng hỏi cô bất cứ điều gì. Tôi chờ đợi và rồi cô bắt đầu kể. Cô kể lại cho tôi nghe mọi điều, tất cả những gì cô đã chứng kiến. Lời nói tuôn ra như dòng chảy không ngừng. Những ngón tay cô lần trên chuỗi hạt sau mỗi tình tiết kinh hoàng. Kể xong, cô quay mặt đi. Ngượng ngập, gần như lúng túng. Và cũng lúng túng không kém, tôi lùi lại phía sau. Không biết phải làm gì, tôi mời cô một ly từ chai Scotch cất sâu trong ngăn kéo bàn. Nhưng cô không muốn uống. Tôi nhìn cô cởi áo khoác vắt lên lưng ghế, nhìn cô tiến tới gần, mắt cô nhìn thẳng vào mắt tôi. Cô vẫn mở mắt khi hôn tôi, đôi mắt cũng xanh như chuỗi hạt thủy tinh. Nụ hôn đầu thật chậm rãi, vương vấn và khoan thai. Cả hai đều hiểu đó là gì: Một hành động thách thức. Đó là bản tính tự nhiên của con người. Ta đối diện cái chết, thách thức nó, tự chứng tỏ với bản thân là ta vẫn đang sống. Những ý nghĩ đó lướt qua tâm trí tôi, nhưng tôi chẳng có thời gian mà nghiền ngẫm. Nụ hôn thứ hai mãnh liệt và hứng khởi hơn. Tôi cảm thấy tay cô choàng qua vai mình ra sau cổ, cảm thấy những ngón tay cô xoắn lấy tóc tôi. Cô ép sát người vào tôi và chúng tôi ôm chặt lấy nhau. Tôi có thể cảm nhận rõ ràng hơi ấm, sức sống, nghị lực tiềm tàng trong cô. Tôi chỉ muốn chia sẻ kỉ niệm này một cách có chừng mực thôi và giờ tôi cho rằng chúng ta đã đạt tới giới hạn đó rồi. Những gì còn lại là bí mật của riêng hai chúng tôi. Tuy thế, đó chính là xuất xứ chuỗi hạt mà tôi cất trong văn phòng. Elizabeth đã để nó lại vào đêm hôm ấy. Không phải bỗng dưng tôi kể cho các bạn chuyện này đâu. Nó liên quan tới động cơ hành động. Nếu bạn đưa chuỗi hạt này cho một người thợ kim hoàn, hẳn là ông ta sẽ nói rằng nó chẳng có giá trị gì. Chỉ là mấy hạt thủy tinh được xâu lại bằng một sợi dây thôi. Ở một chừng mực nào đó, tôi biết đó là sự thật. Nhưng tôi cũng biết nếu một tên trộm cố đánh cắp nó, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn hắn lại. Thậm chí, tôi sẽ không ngần ngại giết hắn nếu cần thiết. Câu chuyện tôi kể sau đây không phải là về chuỗi vòng, mà là về động cơ khiến con người giết hại lẫn nhau. Tôi khá rành về chủ đề này, một phần vì tôi là biên tập viên và mọi người gửi truyện giết chóc tới chỗ tôi suốt ngày. Tên tôi là David Loogan. Phần lớn bản thảo gửi tới chỗ tôi đều dở tệ, nhưng một vài trong số đó cũng có chút tiềm năng. Tôi lọc ra những bản thảo khá nhất, chỉnh sửa lại rồi cho xuất bản trên tạp chí truyện trinh thám mang tên Gray Streets. Vậy nên, có lẽ cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi vai trò của tôi trong câu chuyện này cũng bắt đầu từ một tập bản thảo. Sự việc thật ra khá đơn giản. Tôi tìm thấy nó vào một tối thứ Tư khoảng giữa tháng Bảy, trên hành lang phía ngoài văn phòng. Chuyện này chẳng có gì lạ. Các nhà văn trong vùng để lại bản thảo của mình ở đó thường xuyên hơn mọi người vẫn tưởng. Tuy vậy, đây là một bản thảo rất đặc biệt. Nó dài chưa tới mười trang, được bỏ trong một chiếc phong bì trắng trơn, không ghi địa chỉ. Đó là câu chuyện về ba vụ giết người, hai vụ đã xảy ra, một sắp được tiến hành. Và đây chẳng phải chuyện hư cấu. Không có chữ ký hay tên tác giả. Người viết bản thảo này không muốn để lộ danh tính. Hắn ta đã viết nó trên máy tính và đem in ở một hiệu photocopy. Dĩ nhiên, khi đó tôi chẳng thể biết được. Sau này, Elizabeth mới khám phá ra điều đó. Khi đưa tập bản thảo cho cô, tôi có chút hi vọng mong manh rằng nó có thể cung cấp chứng cứ xác thực nào đó. Thời buổi này, phòng giám định có thể làm được những điều kỳ diệu với tóc, sợi vải và ADN. Tôi chắc rằng phải có dấu vân tay trên trang giấy, ngoài vân tay của chính tôi. Nhưng khi cô gửi tập bản thảo tới phòng thí nghiệm, mọi thứ đi vào ngõ cụt. Nó chẳng hé lộ bí mật nào - ai là tác giả tập bản thảo và động cơ của hắn ta là gì? Muốn giải đáp những câu hỏi này, chúng ta phải quay ngược thời gian, tới trước cả cái ngày trung tuần tháng Bảy đó. Chúng ta cũng phải gạt bỏ những quy tắc thông thường, vì câu chuyện này chẳng hề tuân theo chúng. Nó bao hàm những ý nghĩa riêng. Mặc dù đây là câu chuyện của tôi và của cả Elizabeth nữa, thực ra nó không bắt đầu từ chúng tôi. Mọi chuyện khởi đầu ở vùng phía bắc Michigan, tại thành phố Sault Sainte Marie, trong một phòng khách sạn. Chuyện bắt đầu từ một cuốn sổ tay.   Mời các bạn đón đọc Mục Tiêu Cuối Cùng của tác giả Harry Dolan.
Kẻ Đoạt Hồn
Kẻ đoạt hồn của Sebastian Fitzek được Phan Ba dịch, do Nhà Xuất Bản Hồng Đức năm 2018. Cuốn sách nói về: Một ông giáo sư mời các sinh viên của ông tham gia một thí nghiệm khác thường. Những người tham gia thí nghiệm cần phải đọc một tập hồ sơ bệnh án mà người ta tìm thấy trong số đồ vật còn để lại của một bác sĩ tâm lý. Tập hồ sơ bệnh án này được viết giống như một quyển tiểu thuyết, thuật lại sự việc đã xảy ra tại một bệnh viện tâm thần trước đây, cũng là nơi mà các sinh viên phải ngồi đọc. Câu chuyện thuật về ba người phụ nữ – trẻ trung, xinh đẹp, hoạt bát – mất tích không để lại một dấu vết. Chỉ một tuần là đủ để hung thủ biến họ thành những cái xác không hồn. Khi cảnh sát phát hiện ra thì họ nằm bất động, không có phản ứng lại với thế giới bên ngoài, nhưng vẫn không chết. Cũng vì vậy mà giới báo chí đã đặt cho hắn cái tên “Kẻ Đoạt Hồn”. Ngay trước lễ Giáng Sinh, Kẻ Đoạt Hồn này lại xuất hiện, lần này thì ở trong một bệnh viện tâm thần tư nhân sang trọng. Toàn bộ bệnh viện bị cắt đứt với thế giới bên ngoài vì một cơn bão tuyết, và ở giữa họ là “Kẻ Đoạt Hồn”. Đêm kinh hoàng trong bệnh viện đã bắt đầu như vậy, và Kẻ Đoạt Hồn không cho bất cứ ai trốn thoát. Đây là một quyển nhiều thành công của Sebastian Fitzek. Đọc hết sức hồi hộp. Đọc đến chừng một nửa thì thật không muốn bỏ xuống. Cái tài của ông là để cho hiện thực với quá khứ hòa vào nhau, để cho người đọc có cảm giác như mình giống như những người sinh viên đang đọc tập hồ sơ bệnh án kinh hoàng đó. *** 71 NGÀY TRƯỚC CƠN SỢ HÃI Trang 1 và tiếp theo sau đó của hồ sơ bệnh nhân số 131071/VL   Thật may, tất cả chỉ là một giấc mơ. Cô không trần truồng. Và chân cô cũng không bị cột chặt vào chiếc ghế khám bệnh phụ khoa cổ lỗ, trong khi tên điên đó đang sắp xếp những dụng cụ của hắn trên một cái bàn phụ đã rỉ sét. Khi hắn quay lại, lúc đầu cô không nhận ra được rằng hắn đang cầm cái gì trên bàn tay vấy máu khô. Thế rồi, khi nhìn thấy, cô muốn nhắm mắt lại, nhưng không làm được. Cô không thể rời mắt khỏi cái mỏ hàn nóng đỏ rực đang tiến tới gần chỗ mình. Kẻ xa lạ với gương mặt bị bỏng nước sôi đó đã kéo hai mi mắt của cô lên và dùng máy dập ghim khí nén kẹp chặt nó vào gờ ổ mắt. Cô nghĩ rằng cô sẽ không còn phải chịu đựng cơn đau nào khủng khiếp hơn thế nữa trong phần ngắn ngủi còn lại của cuộc đời mình. Nhưng khi cái mỏ hàn biến mất khỏi tầm nhìn của cô và ở giữa hai chân cô càng lúc càng nóng hơn, cô cảm nhận được rằng đau đớn của những giờ vừa qua chỉ là màn dạo đầu. Thế rồi, trong khoảnh khắc mà cô tin rằng mình đã ngửi được mùi thịt bị cháy sém, thì mọi thứ trở nên trong suốt. Căn hầm ẩm ướt lạnh lẽo nơi cô bị lôi đến, ngọn đèn halogen chớp tắt trên đầu cô, chiếc ghế của kẻ tra tấn và cái bàn bằng kim loại - tất cả đều bốc hơi biến mất, chỉ còn lại một khoảng không đen kịt. Ơn Chúa, cô nghĩ thầm, chỉ là một giấc mơ thôi. Cô mở mắt ra, và hoàn toàn không hiểu gì cả. Cơn ác mộng mà cô vừa mới bị giam hãm bên trong không hề mất đi hình dạng của nó, mà chỉ biến đổi. Mình đang ở đâu đây? Xét theo nội thất thì đây là phòng của một khách sạn đã xuống cấp. Tấm phủ đầy vết bẩn trên chiếc giường đôi cũ rích cũng dơ dáy và đầy lỗ cháy do đầu mẩu thuốc lá giống như cái thảm trải sàn nhà màu nâu xanh. Cô có thể cảm nhận được những sợi thảm thô cứng dưới chân mình, nên cô co rút người lại nhiều hơn nữa trên chiếc ghế gỗ khó chịu. Mình đi chân đất. Tại sao mình không mang giày nhỉ? Và tại sao mình lại ở trong một cái khách sạn rẻ tiền bẩn thỉu và nhìn trừng trừng vào hình ảnh kiểm tra tín hiệu truyền hình đầy đốm trắng trên một cái ti vi đen trắng cơ chứ? Các câu hỏi bật nảy thật mạnh như những trái bi da trong đầu cô. Bất thình lình, cô giật bắn người, như thể có ai đó đã đánh cô một phát, rồi nhìn xem tiếng ồn phát ra từ đâu. Từ cửa phòng. Cánh cửa lung lay một lần, rồi thêm lần nữa, và cuối cùng bật tung ra. Hai viên cảnh sát lao vào. Cả hai đều mặc cảnh phục và mang súng - cô chỉ có thể nhận thấy được ngần ấy. Lúc đầu, họ chĩa súng vào thân trên của cô, nhưng rồi họ từ từ hạ súng xuống. Sự hồi hộp, căng thẳng trên gương mặt họ nhường chỗ cho sự kinh hoàng, sửng sốt. "Mẹ kiếp, có chuyện gì thế này?", cô nghe người nhỏ con hơn nói. Chính người này đã đạp cánh cửa và lao vào đầu tiên. "Cứu thương", người kia hét lên. "Gọi bác sĩ đi. Chúng tôi cần giúp đỡ ngay lập tức!" Ơn Chúa, cô nghĩ thầm, đây là lần thứ hai cô cầu Chúa trong vòng vài giây. Cô sợ tới mức gần như không thở được nữa. Cô đau toàn thân, cả người đầy mùi phân với nước tiểu. Tất cả những điều đó, và việc cô không biết cô đến đây bằng cách nào, khiến cho cô gần như phát điên lên, nhưng giờ thì ít ra cũng có hai cảnh sát đứng trước cô và gọi trợ giúp cứu thương. Điều này không tốt lắm, nhưng vẫn tốt hơn một tên điên với cái mỏ hàn rất nhiều. Chỉ vài giây sau, một bác sĩ cấp cứu hói đầu đeo hoa tai lao vào phòng và quỳ xuống bên cạnh cô. Rõ ràng là dịch vụ cấp cứu đã đến đây cùng với một chiếc xe cứu thương. Đó cũng không phải là một dấu hiệu tốt. "Cô có nghe tôi nói không?" "Có…", cô trả lời ông bác sĩ. Những quầng thâm trên mắt trông như được xăm vĩnh viễn lên gương mặt ông. "Cô ấy có vẻ không hiểu tôi." "Có chứ, có chứ," cô muốn giơ cánh tay lên, nhưng cơ bắp của cô không tuân lệnh. "Cô tên gì?" Ông bác sĩ lấy ra từ túi áo một cái đèn pin trông giống như cây bút và chiếu vào mắt cô. "Vanessa", cô cất giọng khàn khàn, rồi nói thêm, "Vanessa Strassmann." "Cô ấy chết rồi à?" Cô nghe một người cảnh sát hỏi từ phía sau. "Chết tiệt, con ngươi hầu như không phản ứng lại với ánh sáng nữa. Và cô ấy dường như không nghe thấy và cũng không nhìn thấy chúng ta. Cô ấy bị căng trương lực*, có lẽ là hôn mê rồi." "Thật vô lí quá!" Vanessa hét lên và muốn đứng dậy, thế nhưng cô thậm chí còn không thể nhấc tay lên được. Chuyện gì đang xảy ra thế này? Cô nhắc lại thật to ý nghĩ đó và cố gắng nói càng rõ ràng càng tốt. Dường như không ai muốn lắng nghe cô. Thay vào đó, tất cả mọi người đều quay lưng lại với cô và nói chuyện với một người nào đó cô chưa thấy bao giờ. "Chị nói là cô ấy đã không rời gian phòng này bao lâu rồi?" Đầu của vị bác sĩ che mất tầm nhìn của cô ra cửa. Giọng một phụ nữ trẻ tuổi vang lên, "Chắc chắn là ba ngày rồi. Có thể còn lâu hơn nữa. Lúc cô ấy làm thủ tục nhận phòng, tôi đã nghĩ có cái gì đó không ổn với cô ấy rồi. Nhưng cô ấy nói không muốn bị quấy rầy." Chị ta nói cái gì vớ vẩn thế nhỉ? Vanessa lắc đầu. Tôi sẽ không bao giờ tự ý vào đây đâu. Một đêm cũng không! "Lẽ ra tôi không định gọi cô ấy đâu, nhưng mà tiếng thở khò khè đáng sợ đó cứ mỗi lúc một to hơn, và…" "Nhìn kìa!" Giọng nói của viên cảnh sát nhỏ người hơn vang lên ngay bên tai cô. "Cái gì?" "Ở đây có cái gì đó. Đây này." Vanessa cảm thấy ông bác sĩ gỡ ngón tay cô ra và dùng nhíp cẩn thận gắp một cái gì đó ra khỏi bàn tay trái của cô. "Cái gì thế?" Viên cảnh sát hỏi. Vanessa cũng ngạc nhiên như tất cả những người khác trong phòng. Cô không hề nhận ra là mình có cầm một cái gì đó. "Một tờ giấy ghi chú." Ông bác sĩ mở tờ giấy được gập làm đôi ra. Vanessa cố liếc mắt để có thể đọc được, thế nhưng cô chỉ thấy những chữ viết tượng hình khó hiểu. Những chữ trên đó được viết bằng một thứ tiếng hoàn toàn lạ lẫm đối với cô. "Nó viết gì thế?" Viên cảnh sát đứng gần cửa lên tiếng hói. "Thật lạ," ông bác sĩ cau mày đọc, "Người ta chỉ mua nó để ném nó đi ngay thôi." Lạy Chúa. Ông bác sĩ cấp cứu đọc những chữ đó mà không ngần ngừ. Việc này khiến cho cô thấy rõ toàn bộ nỗi kinh hoàng của cơn ác mộng đang giam giữ cô. Không hiểu vì lí do gì mà cô đã mất mọi khả năng trao đổi. Trong khoảnh khắc này, Vanessa không thể nói hay đọc, và cô đoán rằng thậm chí cô còn không thể viết được nữa. Ông bác sĩ lại chiếu đèn thẳng vào con ngươi của cô, và rồi bất thình lình, tất cả các giác quan còn lại của cô dường như cũng bị gây mê. Cô không còn ngửi được mùi hôi của cơ thể, không còn cảm nhận được chiếc thảm dưới đôi chân trần của mình nữa. Cô chỉ nhận thấy nỗi sợ hãi trong cô càng lúc càng lớn hơn và những tiếng nói lộn xộn quanh cô mỗi lúc một nhỏ đi. Bởi lẽ, khi ông bác sĩ vừa mới đọc xong dòng chữ ngắn ngủi đó, một sức mạnh vô hình đã chiếm lấy cô. "Người ta chỉ mua nó để ném nó đi ngay thôi." Một sức mạnh đang vươn bàn tay lạnh giá của nó tới và kéo cô xuống dưới - trở lại nơi mà cô không bao giờ muốn nhìn thấy lần nữa trong đời, nơi cô vừa mới rời bỏ vài phút trước. Đây không phải là một giấc mơ. Hay đúng là mơ? Cô cố ra dấu cho ông bác sĩ, thế nhưng khi hình dáng của ông ấy tan biến dần thì cô bắt đầu hiểu được, và một nỗi kinh hoàng trần trụi chiếm lấy cô. Họ thực sự không nghe thấy những lời cô nói. Cả ông bác sĩ lẫn cô nhân viên tiếp tân và các viên cảnh sát đều không thể nói chuyện với cô. Bởi lẽ cô chưa từng tỉnh dậy trong cái khách sạn tồi tàn này, thậm chí là ngược lại. Khi ngọn đèn halogen ở phía trên cô lại bắt đầu lóe lên, cô nhận ra rằng cô đã bất tỉnh khi cuộc tra tấn bắt đầu. Không phải tên điên đó, mà căn phòng khách sạn mới là một phần của giấc mơ. Giấc mơ ấy giờ đây đã trốn chạy, nhường chỗ cho hiện thực tàn khốc. Hay là mình lại nhầm lẫn nữa rồi? Cứu. Cứu tôi với! Tôi không còn có thể phân biệt được gì nữa. Cái gì là thực? Cái gì là mơ? Và tất cả mọi thứ lại giống như trước đó - căn hầm ẩm thấp, cái bàn kim loại. Cô bị trói chặt trên chiếc ghế khám phụ khoa. Trần truồng. Trần truồng tới mức cô cảm nhận được hơi thở của tên điên đó giữa hai chân mình. Hắn hà hơi vào người cô, ở đúng chỗ nhạy cảm nhất trên cơ thể cô. Rồi gương mặt đầy thẹo của hắn xuất hiện trong giây lát trước mắt cô, và cái miệng không môi cất tiếng nói, "Chỉ đánh dấu thêm lần nữa thôi. Bây giờ có thể bắt đầu rồi." Hắn nắm lấy cái mỏ hàn. Mời bạn đón đọc Kẻ Đoạt Hồn của tác giả Sebastian Fitzek & Phan Ba (dịch).
Bí Mật Đen Tối
Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lí học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. *** Tác giả: Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt. Dịch giả: Nguyễn Hữu Công. Thể loại: Trinh thám Thụy Điển, tâm lý xã hội . Mức độ ưa thích: 6/10. Cậu bé Roger Eriksson 16 được tìm thấy đã chết rất thảm ở vùng đầm lầy Listakarr. Quá trình điều tra diễn tiến chậm chạp với sự tắc trách của cảnh sát địa phương, do đó Riskmord – Đơn vị chống tội phạm giết người quốc gia được mời vào cuộc. Người phụ trách Riskmord là Torkel Hoglund vì cả nể tình bạn xưa cũ với Sebastian Bergman nên đã đồng ý để ông tham gia điều tra trong sự phản đối của các thành viên khác. Sebastian vốn là chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt, nhưng lần này ông ở Vasteras chỉ để lo thủ tục bán nhà sau khi mẹ ông qua đời. Càng điều tra, họ càng thấy mình như đang bước vào một mê cung vô cùng rối rắm chứa đầy những bí mật đen tối. Khi biết quyển sách này hơn 700 trang, mình bị thôi thúc bởi ý nghĩ “phải đọc”. Vốn đã quen với các thể loại trinh thám Mỹ thiên về loại hình siêu anh hùng, tốc chiến tốc thắng, không quá lắt léo đau lòng nên khi đọc “Bí mật đen tối”, nhịp văn chậm kiểu trinh thám Bắc Âu, quá nhấn mạnh vào cảm xúc + hành động sai trái của nhân vật, đọc hoài không có tiến triển gì mới – khiến mình hơi chán. Có một chi tiết trong truyện sau 500 trang cảnh sát vẫn chưa đoán được thì mình đoán đúng từ sớm. Cũng sau 500 trang thì mình mới thấy câu chuyện bắt đầu thú vị hơn, nhưng lúc kết thúc quyển sách thì mình không có được cảm giác hài lòng quen thuộc sau khi đọc một tuyệt phẩm. Trong cả truyện, mình chỉ tìm được vài đoạn hài hước hiếm hoi, thường là hài hước kiểu châm biếm sâu cay. “…chiếc túi chứa thứ gì đó, mà ông đoán chừng chắc trước kia là phó-mát, nhưng giờ nó chẳng khác nào dự án nghiên cứu trong phòng thì nghiệm chuyên về nấm mốc rất thành công”. Sau khi đọc “Tàn thế” và “Dị chủng”, mình có một tư duy lối mòn là cuốn nào do hai tác giả chấp bút thì cuốn đó đều rất dày và rất hay, nhưng cốt truyện trong “Bí mật đen tối” không gây ấn tượng sâu sắc với mình. Có lẽ các tác giả muốn nhấn mạnh tính thực tế tàn nhẫn của xã hội, nên các nhân vật trong truyện đều bị mô tả đầy khuyết điểm, từ chính diện đến phản diện. Chưa bao giờ mình đọc quyển sách nào mà mình ghét tất cả các nhân vật như quyển này, đặc biệt ghét nhân vật chính vì cách ông ta [dùng tình dục để lãng quên nỗi đau mất vợ con trong quá khứ]. Dù xã hội ông đang sống có nghĩ thoáng đến đâu, dù những người phụ nữ hoàn toàn tự nguyện trong những chuyện tình một đêm của ông thì mình vẫn cho rằng hành động đó […] vẫn gây ra rất nhiều tổn thương cho người khác. Ngay trong quyển này, độc giả sẽ thấy Sebastian phải trả giá cho những chuyện ông đã làm. Bìa sách bình thường, giấy màu ngà rất đẹp, chữ in to rõ, không có lỗi in ấn, trình bày đẹp, có kèm bookmark cùng thiết kế với bìa sách. Với một tác phẩm đồ sộ như “Bí mật đen tối” thì phần dịch thuật quả thật rất được chăm chút, nhưng dường như vẫn còn một chỗ viết nhầm “Bergman” thành “Berman”. Vì mình không thích cốt truyện nên không thích quyển này nhưng đối với một số độc giả khác, nhất là những ai thích “Bạch Dạ Hành” hoặc các quyển của Donato Carrisi thì có lẽ “Bí mật đen tối” sẽ là một tác phẩm rất đáng đọc và sở hữu. (Sea, 21-7-2019) Camellia Phoenix *** Suốt chiều dài hơn 700 trang, tác phẩm có nhiều chi tiết thừa, những nhân vật có cũng được, không có cũng chẳng sao, chỉ có tác dụng tung hỏa mù làm cho người đọc bối rối, hoang mang. Tuy nhiên, cách dẫn chuyện vẫn có nét hấp dẫn riêng, khiến cho người đọc cứ phải lật hết trang này đến trang khác để xem tác giả đưa mình đến đâu. Mỗi nhân vật sẽ tự kể câu chuyện cuộc đời họ trong một chừng mực. Họ có riêng "sàn diễn" để mặc sức vẫy vùng. Câu chuyện mở màn bằng một cuộc gọi đến sở cảnh sát. Roger Eriksson, một thiếu niên bị mất tích trong thị trấn thuộc tỉnh lị Västerås. Cuộc tìm kiếm nhanh chóng được tổ chức và một nhóm hướng đạo sinh trẻ tuổi trong lần khảo sát đầm lầy đã phát hiện ra sự thật khủng khiếp: Roger bị chết thảm. Cùng lúc đó, Sebastian Bergman - chuyên gia tâm lý học, điều tra viên hình sự đồng thời là chuyên gia hàng đầu Thụy Điển về các vụ giết người hàng loạt - đang ở Västerås thu xếp điền sản của mẹ mình sau cái chết của bà. Sebastian đã rút chân khỏi ngành cảnh sát sau cái chết của vợ và con gái trong trận sóng thần Ấn Độ Dương năm 2004. Khi Cục Điều tra Tội phạm nhờ Sebastian giúp sức trong vụ án mạng Roger, với tính kiêu ngạo của mình, ban đầu Sebastian tỏ ra xa cách với đồng đội. Nhưng rồi khi đi sâu vào vụ án, ông bắt xóa bỏ dần khoảng cách và cùng đội điều tra phát hiện ra những bất thường tại trường tư thục Roger đang theo học. Một cách tiếp cận vấn đề khiến người đọc có phần… sốt ruột và thôi thúc việc đọc không thể ngừng nghỉ, chỉ với một mục đích: đọc đến trang cuối cùng để tìm thấy ánh sáng, để nhìn rõ sự thật. Bằng lối viết tinh tế, sắc sảo, Michael Hjorth và Hans Rosenfeldt dẫn dắt bạn đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Những chi tiết được khéo léo cài cắm, đầy những nút thắt, mở và cũng rất nhiều chi tiết tưởng như không cần thiết nhưng đến cuối, bạn sẽ hiểu tại sao chi tiết ấy lại xuất hiện. Trong các tiểu thuyết trinh thám không thiếu những cảnh tra tấn và giết người, nhưng ở “Bí mật đen tối” thì quá trình đó được miêu tả chân thực và rùng rợn đến mức chúng ta không tưởng tượng được làm thế nào tác giả lại có thể nghĩ ra những chi tiết đó một cách tài tình đến như vậy. Quả tim của nạn nhân đã biến mất, chi tiết mở đầu tiểu thuyết đã đủ lôi cuốn trí tò mò của người đọc.  Tác giả đã rất biết cách xây dựng một vụ án vừa đáng sợ vừa hóc búa và gay cấn đến phút cuối cùng, khiến cho người đọc tuy sợ nhưng cũng phải mau chóng lia mắt đọc tới dòng tiếp theo vì họ hoàn toàn không muốn bỏ lỡ bất kỳ tình tiết nào trong chuyến hành trình tìm ra sự thật. Bên cạnh những chi tiết hấp dẫn, gây tò mò, độc giả cũng sẽ bắt gặp những dòng văn nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu sắc, giản dị. Con người gai góc của Sebastian cũng có lúc lắng sâu, thâm trầm khi ông nhận ra thứ đơn giản như nước mắt: "Những năm gần đây, đó là điều biến đổi. Nước mắt. Thật lạ lùng, ông nghĩ, từng tuổi này, mình lại phải phát hiện ra thứ đơn giản như nước mắt". Nếu bạn là một độc giả yêu thích thể loại truyện trinh thám, chắc chắn "Bí mật đen tối" sẽ không làm bạn thất vọng. *** Gàkhông phải là kẻ giết người. Gã lặp lại trong đầu khi kéo xác thằng bé xuống dốc: Mình không phải là sát nhân. Sát nhân là tội phạm. Sát nhân thật kinh tởm. Bóng tối đã nuốt chửng linh hồn họ, và vì nhiều lý do họ đã nương theo và chào đón nó, quay lưng lại với ánh sáng. Gã không kinh tởm. Ngược lại là đằng khác. Chẳng phải gần đây gã không chứng minh được điều hoàn toàn ngược lại sao? Chẳng phải gã đã không gạt cảm xúc, ao ước của riêng mình sang một bên, mà tự kiềm chế, tất cả vì hạnh phúc của người khác? Làm ngơ – đó là những gì gã đã làm. Chẳng phải sự hiện diện của gã ở bãi lầy này, giữa một nơi xa xôi hẻo lánh với thi thể thằng bé càng chứng tỏ rằng gã muốn làm điều lương thiện sao? Phải làm điều lương thiện? Như thể gã chẳng bao giờ muốn làm việc tốt một lần nào nữa? Gã dùng chân và thở ra một hơi dài. Dù thằng bé chưa thật sự trưởng thành nhưng nó rất nặng. Rắn chắc. Nhiều giờ đã đổ ra ở phòng tập thể hình. Nhưng quãng đường không còn quá xa. Gã túm lấy hai ống quần, từng mang màu trắng nhưng giờ đây hầu như đã chuyển sang đen trong bóng đêm. Thằng bé máu me đầm đìa. Đúng, giết người là sai. Điều răn thứ năm nói rằng: Ngươi không được giết người. Nhưng có những ngoại lệ. Ở nhiều nơi, Kinh Thánh thực ra biện hộ cho giết chóc. Có người xứng đáng được như thế. Sai có thể thành đúng. Không có gì tuyệt đối cả. Rồi thế nào đây nếu lý do đằng sau việc giết người không phải vì ích kỷ? Nếu mất đi một nhân mạng mà cứu được những người khác? Thì hãy cho những người đó cơ hội. Cho họ được sống. Vào hoàn cảnh này, hành động ấy chắc chắn không thể liệt vào loại tàn ác. Nếu có động cơ tốt. Gã dừng chân bên làn nước đen của cái ao. Thường ngày, ao sâu chừng vài thước, nhưng cơn mưa gần đây đã làm mặt đất úng thủy, và giờ đây nó giống cái hồ giữa bãi lầy ứ đọng hơn. Gã cúi xuống và túm lấy hai vai chiếc áo phông của thằng bé. Cũng khá nhọc công, gã vần cho đến khi xác chết gập lại. Trong thoáng chốc, gã nhìn thẳng vào mắt thằng bé. Nó đã nghĩ gì trước khi chết? Liệu có đủ thời gian cho ý nghĩ cuối cùng? Nó có biết mình sắp chết không? Có tự hỏi tại sao không? Nó đã nghĩ về những thứ chưa làm được trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, hay về những thứ đã thật sự làm được? Không còn quan trọng nữa. Tại sao gã lại tra tấn bản thân thế này – hơn cả cần thiết? Gã không còn cách nào khác. Gã không thể làm họ thất vọng. Không một lần nào nữa. Tuy nhiên, gã đã do dự. Nhưng không, họ chẳng cảm thông đâu. Sẽ không tha thứ. Sẽ không làm ngơ, như gã đã làm. Gã đẩy thằng bé và thi thể nó rớt xuống nước, nghe rõ tiếng nước bắn tóe. Gã giật bắn người bởi thứ âm thanh không mong đợi vang lên trong khoảng không thinh lặng, mù mịt. Thi thể thằng bé chìm xuống nước và dần biến mất. Gã đàn ông không phải là sát nhân cuốc bộ về chiếc xe hơi của mình, đang đậu ở con đường mòn dẫn vào rừng, rồi lái xe về nhà. “Cảnh sát thành phố Västerås, Klara Lidman nghe đây.” “Tôi muốn báo con trai mình đã mất tích.” Giọng người phụ nữ nghe có vẻ ái ngại, như thể cô không chắc là mình gọi đúng số, hay cô không nghĩ là người ta tin mình. Klara Lidman với tay lấy xấp giấy ghi chú dù cuộc nói chuyện đang được ghi âm. "Vui lòng cho biết tên cô?" “Eriksson, là Lena Eriksson. Con trai tôi là Roger. Roger Eriksson.” “Con cô bao nhiêu tuổi?" “Mười sáu. Tôi vẫn chưa gặp lại nó kể từ chiều hôm qua." Klara chú ý đến độ tuổi thằng bé và nhận ra mình phải hành động ngay. Tất nhiên là nếu thằng bé đã mất tích. “Hồi mấy giờ chiều hôm qua?” “Nó dông mất lúc năm giờ.” Vậy là hai mươi hai giờ trước. Hai mươi hai giờ mấu chốt nếu đó là một vụ mất tích. “Cô có biết con mình đi đâu không?” “Có, đi gặp Lisa." “Lisa là ai?” “Bạn gái nó. Hôm nay tôi đã gọi cho con bé, nhưng nó bảo con tôi rời khỏi chỗ nó lúc mười giờ tối qua." Klara gạt bỏ con số “hai mươi hai” và thay bằng “mười bảy”. “Sau đó thằng bé đi đâu?" “Con nhỏ không biết. Nó nghĩ là về nhà. Nhưng con trai tôi vẫn chưa về nhà. Nó không hề về nhà cả đêm hôm qua. Và bây giờ sắp hết một ngày nữa rồi.” Và cô đã không gọi điện báo cho đến tận bây giờ, Klara nghĩ. Trong cô bỗng bật ra ý nghĩ rằng người phụ nữ ở đầu dây bên kia đã không cuống lên. Mà thờ ơ. Cam chịu. “Họ của Lisa là gì?” “Hansson." Klara ghi lại họ của con bé. “Roger có dùng điện thoại di động không? Cô thử gọi cho thằng bé chưa?” “Rồi, nhưng không ai trả lời.” "Và cô không biết nó có thể đi đâu? Liệu thằng bé có qua đêm ở chỗ bạn bè hay nơi nào đại loại như thế không?” “Không, như thế thì nó đã gọi cho tôi rồi.” Lena Eriksson ngưng lại một chút và Klara đoán chừng là người kia đang nghẹn ngào, nhưng khi nghe làn hơi rít vào ở đầu dây bên kia, cô nhận ra là cô ta đang kéo một hơi thuốc dài. Cô nghe thấy Lena thổi khói thuốc ra. “Nó đã biến mất.” Mời bạn đón đọc Bí Mật Đen Tối của tác giả Michael Hjorth & Hans Rosenfeldt & Nguyễn Hữu Công (dịch).