Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thánh Giá Rỗng - Higashino Keigo

Đằng sau mỗi vụ án mạng luôn có một câu chuyện đau lòng và đầy nước mắt. Nhưng liệu rằng tử hình có phải là hình phạt thích đáng cuối cùng cho mọi tội ác? Công lý có thực sự được thực thi? Liệu rằng khi lời tuyên bố án tử được vang lên trước tòa, thân nhân của người bị hại có thực sự thấy yên lòng, nỗi đau có phần nào được bù đắp và kẻ gây nên tội ác có chút nào ăn năn, hối cải? Nếu bạn cũng băn khoăn và chưa tìm được lời giải cho những câu hỏi này, hãy tự đi tìm câu trả lời trong cuốn tiểu thuyếtThánh giá rỗng của nhà văn bậc thầy trinh thám hàng đầu Nhật Bản - Higashino Keigo. Thánh giá rỗng là câu chuyện xoay quanh hai vụ án mạng tàn khốc trong cùng một gia đình. Ngày 21 tháng 9 của mười một năm về trước, cô bé Manami ngây thơ, vô tội đã bị sát hại tại nhà riêng. Đúng mười một năm sau, mẹ cô bé - Sayoko, cũng bị giết hại dã man trên con đường thuộc quận Koto. Nakahara - một người chồng, một người cha bất hạnh đã hai lần phải cảm nhận nỗi đau mất người thân. Cái chết đầy uẩn khúc của Sayoko đã khiến anh tạm gác lại niềm riêng để bước vào cuộc hành trình tìm kiếm sự thật. Trên con đường tìm lời giải đáp cho mọi thắc mắc của mình, Nakahara vô tình tìm ra mối liên hệ giữa vụ án mạng của vợ anh và một bí mật động trời khác đã được chôn giấu suốt hai mươi mốt năm trời. Bằng giọng văn giản dị nhưng không kém phần sắc bén Higashino Keigo lại một lần nữa dẫn dắt người đọc đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, lần tìm về quá khứ để từng bước, từng bước gỡ những nút thắt chưa được giải. Không có những pha rượt đổi gay cấn đến nghẹt thở, không có những màn phá án li kì đến xuất thần, nhưng Thánh giá rỗng - cuốn sách có mặt trong top 5 các tiểu thuyết trinh thám hay nhất do Shukan Bunshun bình chọn, bằng một cách rất riêng vẫn ám ảnh và lôi cuốn người đọc vào những câu chuyện cảm động, đầy nước mắt của tình bạn, tình yêu, và tình phụ tử thiêng liêng... *** Higashino Keigo sinh ngày 4/2/1958 tại Osaka. Ông được biết đến như một trong những tác giả nổi tiếng nhất Nhật Bản ở thể loại trinh thám - li kì. Sức lan tỏa và tầm ảnh hưởng của ông với các độc giả Nhật Bản có thể được ví như James Patterson hay Dean Koontz với nhiều thế hệ độc giả Mĩ. Năm 1985, Higashino Keigo giành giải Edogawa Rampo lần thứ 31 cho tác phẩm trinh thám hay nhất với tiểu thuyết Houkago (tạm dịch: Sau giờ học). Năm 1999, ông đoạt giải Mystery Writers of Japan với tiểu thuyết Bí mật của Naoko. Năm 2006, ông tiếp tục nhận giải Naoki lần thứ 134 cho Phía sau nghi can X. Trong năm 2006, Phía sau nghi can X cũng mang về cho Higashino Keigo giải Honkaku Mystery Award. Năm 2012, ông tiếp tục nhận giải thưởng văn nghệ Chuokoron lần thứ 7 cho tiểu thuyết Điều kì diệu của tiệm tạp hóa Namiya. Các tác phẩm của Higashino Keigo có lối tiếp cận rất độc đáo, cuốn hút độc giả dõi theo từng chi tiết, từng nét chuyển biến dù là mong manh nhất trong tâm lí và tình cảm của các nhân vật. Không chỉ là những câu chuyện độc nhất vô nhị đầy ám ảnh, các tác phẩm của ông còn khiến độc giả suy nghĩ về những vấn đề phức tạp của xã hội và mối quan hệ giữa người với người. Rất nhiều trong số các tác phẩm của Higashino Keigo đã được chuyển thể thành phim và mang về cho nhà sản xuất những thành công rực rỡ về cả mặt thương mại cũng như tính nghệ thuật. Cuốn Thánh giá rỗng (tên gốc: Utsuro na Jujika) bạn đang cầm trên tay là một trong những tác phẩm mới nhất của Higashino Keigo. Cuốn sách được ra mắt lần đầu tiên tại Nhật năm 2014 và nhanh chóng có mặt trong top 5 các tiểu thuyết trinh thám hay nhất do Shukan Bunshun bình chọn. Sẽ thế nào nếu một người thân yêu của chúng ta ra đi vì "bị giết?" Liệu án tử hình là cần thiết hay không hề hiệu quả? Phạt tù là sự trừng phạt hay giải thoát những nỗi đau? Sinh mệnh của đứa trẻ còn chưa lọt lòng thuộc về ai? Ngay cả khi hiểu được động cơ của kẻ gây án, ngay cả khi hắn đã phải chịu án phạt tử hình, thì liệu ngày mà tất cả thực sự được cứu rỗi có đến? Có lẽ không chỉ những người thân xung quanh người bị hại, mà gia đình thủ phạm cũng chỉ là nạn nhân. Sau khi gấp lại những trang cuối cùng và ta buộc phải suy nghĩ về những chủ đề nặng nề như một con đường hầm không thấy ánh sáng như vậy, bạn chỉ có thể thốt lên rằng: Thật đúng là Higashino! Skynovel Iguchi Saori hầu như không nhớ gì về mẹ mình, khi cô bé bắt đầu nhận thức được thế giới xung quanh, bà đã không còn trên đời. Saori vẫn nhớ hồi mẫu giáo cô bé đã ghen tị với đám bạn như thế nào vì chúng có mẹ đến đón mà mình thì không. Đến lúc học tiểu học, cô bé mới hay mẹ đã mất năm mình 3 tuổi, và mãi lên lớp 5 cô bé mới biết bà mất vì bệnh u não khi chỉ vừa 31 xuân xanh. "Mẹ con nấu ăn rất ngon, lại vô cùng dịu dàng. Bà ấy vốn là người rất khỏe mạnh, lúc đó ba cũng không dám nghĩ mẹ con lại mắc bệnh đó", Yosuke - ba của cô bé vẫn luôn nói về mẹ cô như vậy. Yosuke là kỹ sư làm việc tại một công ty chuyên về sản phẩm công nghiệp hóa chất. Trụ sở chính của công ty đặt ở Osaka, nhưng công xưởng Fuji, nơi anh làm việc lại nằm ngay ở thành phố Fuji gần đó, vì thế hàng ngày anh đi ô tô đến công xưởng. Đến năm lớp 4, anh vẫn gửi Saori ở trường giáo dục trẻ em¹. Giờ trả học sinh của trường là 6 giờ 30 phút, nhưng ngày nào Yosuke cũng đến đón cô bé sát giờ trường đóng cửa. Mỗi ngày nhìn thấy mặt ba là cô bé lại an tâm phần nào. ____________________________ (1) Là một dạng trường dành cho trẻ em cấp 1 sau khi tan học nếu về nhà không có người bảo hộ thì sẽ tới đây cho đến khi có người nhà tới đón Khi Saori lên lớp 5, cô bé không đến trường giáo dục trẻ em nữa mà đi thẳng từ trường tiểu học về nhà. Cô bé không chán ghét việc ở nhà một mình, chỉ cần đọc sách, xem đĩa phim là thời gian sẽ mau trôi qua. Ở trường cô bé cũng có bạn, nhưng Saori vốn thích được ở một mình như vậy. Cũng từ lúc đó, Yosuke về nhà muộn hơn. Trước đây, anh vẫn làm bữa sáng và bữa tối đều đặn, nhưng vì công việc càng ngày càng bận rộn, nên có những lúc anh mua cơm hộp ở cửa hàng tiện lợi để hai ba con ăn tối, cũng có những khi Saori một mình gọi pizza vừa ăn vừa đợi ba về. Được một thời gian, Saori nhận ra mình nên tự nấu cơm. Một ngày nọ, Saori đi siêu thị mua thức ăn, rồi ghé qua thư viện mượn một quyển sách dạy nấu ăn. Bữa tối hôm đó cô bé đã làm món thịt hầm khoai tây, canh miso và cơm trắng. Hôm ấy, Yosuke hiếm hoi có một ngày về sớm, mắt anh ánh lên tia lấp lánh, miệng liên tục khen con gái "Saori giỏi quá!". Và dù món thịt hầm thực ra hơi nhạt, canh miso cũng không thể nói là ngon, nhưng chỉ cần nghĩ mình đã giúp được ba cũng khiến cô bé cảm thấy vui vẻ. Từ đó trở đi, Saori trở thành người chăm lo chuyện cơm nước trong gia đình. Không phải ngày nào cô bé cũng có thể nấu, vì thế có những lúc, trước khi Yosuke đi làm cô bé sẽ dặn ba rằng, "Ba, hôm nay ba ăn tối ở ngoài nhé. Con sẽ mua bánh kẹp ở cửa hàng tiện lợi ăn tối". Ngoài nấu cơm, Saori cũng dần dần làm cả việc dọn dẹp hay giặt giũ trong nhà. Cô bé không cảm thấy có gì khổ cực, ngược lại làm việc nhà còn khiến cô bé cảm thấy vui vẻ. Có lẽ Saori hợp với công việc nội trợ gia đình. Yosuke vẫn thường khen con mình đầy tự hào rằng, "Saori sau này sẽ trở thành cô con dâu tốt đây, ba cũng rất yên tâm". Thế nhưng, sau câu khen đó, anh không quên nói thêm, "Nhưng ngoài việc nhà ra, Saori còn phải làm rất nhiều việc khác. Bây giờ điều quan trọng nhất là con phải học tập thật chăm chỉ, như thế sau này con mới được hạnh phúc. Việc nhà hay chuyện của ba, con xếp thứ hai cũng được". Nói như vậy, nhưng Yosuke cũng yên tâm khi con gái quán xuyến việc trong gia đình. Anh về nhà muộn hơn trước, có lẽ vì công việc trở nên bận bịu hơn. Thậm chí khi đã về đến nhà, anh vẫn nhận được những cuộc gọi liên quan đến công việc, số ngày lễ phải đi làm cũng tăng dần, các chuyến công tác qua đêm cũng trở nên thường xuyên. Khi Saori lên cấp hai, cuộc sống ở nhà của Yosuke chỉ là về nhà để ngủ. Cũng vì thế, hai ba con hiếm khi có thể nhàn nhã ngồi nói chuyện với nhau. ... Mời các bạn đón đọc Thánh Giá Rỗng của tác giả Higashino Keigo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bướm Trắng - Walter Mosley
Tác phẩm Bướm Trắng xoay quanh hai nhân vật đi tìm sự hủy diệt những giá trị tốt đẹp của chính mình: Một bên vì mặc cảm với tội lỗi, bên kia vì tính tự kiêu. Hai người, một là kẻ sát thủ, một là thám tử Easy Rawlins đang lần theo dấu vết gã.  Cho đến khi án mạng thứ ba được phát hiện bọn cớm mới nhờ tới Easy. Thời gian lúc đó là năm 1956 trong bối cảnh thành phố Los Angeles thêm một nạn nhân là người da đen bọn cớm mới chịu ra tay nhưng phải nhờ tới Easy, gã nói ra ngay, "Muốn xâm nhập vô khu Ghetto phải nhờ tới tôi, cả một lực lượng cảnh sát cấp quận không làm nên trò". Song nghĩ làm sao Easy lại từ chối vì gã đã có vợ con, một người cha gương mẫu - gã muốn gác kiếm. Cho đến khi con bé sinh viên da trắng bị giết chết do cùng một thủ phạm, bọn cớm lên tiếng nếu Easy không ra tay thì người bạn thân nhất của gã bị ngồi tù. Easy đành phải nhập cuộc, đêm đêm rảo quanh khu phố Watter, qua những ngõ ngách tối om lần theo dấu vết tên sát thủ quỷ quyệt. *** Bộ sách về Easy Rawlins gồm có:  Con Quỷ Áo Xanh Bướm Trắng Nàng Betty Đen ... *** Walter Mosley là nhà văn Mỹ da đen, tác giả nhiều tập truyện trinh thám huyền ảo. Ông là một tác giả được tổng thống Bill Clinton ưa chuộng nhất với lối viết trang nhã, lôi cuốn người đọc. Nhân vật chính trong những tập truyện trinh thám của ông là nhà thám tử Easy Rawlins. Ông đã từng được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn trinh thám Mỹ, thành viên Ban giám khảo giải sách hàng năm, sáng lập viên Hội sách Trung tâm văn bút Mỹ. Hiện ông là nhà văn trinh thám hàng đầu ở Mỹ, tác phẩm của ông được báo New York Times xếp hạng bestseller. Liền sau đó các tác phẩm nổi tiếng ra đời: Cái chết đỏ; Nàng Betty đen; Bướm trắng; Thủ lĩnh Jones v.v... *** Easy Rawlins!”, có tiếng ai vừa gọi. Tôi quay lại nhìn thấy Quinten Naylor đưa tay vặn núm cửa trước cổng. Quinten khổ ngườitầm thước,gã có cái nhìn thật quyết liệt. Hai bàn tay chai sần, khoác bên ngoài chiếc áo jacket nhìn thấy cả hai vai gã nổi cộm lên như hai quả dưa. Gã có nước da nâu lấm chấm những vết đỏ nhìn qua tưởng đâu gã là người hay cáu giận. Băng ngang qua bãi cỏ gã giơ tay bốc một nhúm rau thơm tôi trồng đã được bảy năm nay. Anh chàng vẻ mặt bặm trợn nhếch mép cườinhìn tôi. Gã chìa cái cằm rắn chắc ra chào “Hân hạnh được gặp ông tại nhà”. “Ờ hơ”, tôi bước tới bên gã chìa tay ra bắt, nhìn vô ánh mắt. Thấy tôi không nói gì, tay cảnh sát ởLos Angeles này có vẻ khó chịu. Gã trố mắt chờtôi lên tiếng hỏi vì sao gã tới đây. Lúc này tôi chỉ mong gã ra về để tôi vui chơi với vợ con. “Con ông đấy hả?” gã hỏi. Quinten quê miền đông nhưng giọng nói nghe như dân miền bắc. “Ờ”. “Trông xinh đấy chứ?” “Ờ, con bé xinh lắm”. “Xinh chứ”, Quinten nhắc lại. “Chắc hẳn nó giống mẹ lắm?” “Ông đến có việc gì không?” tôi hỏi. “Tôi muốn ông đi theo tôi”. “Ông định bắt giữ tôi à?”. “Ồ, không đâu, ông Rawlins”. Nghe gã xưng gọi bằng ông lịchsự tôi biết ngay là Sở MậtThám Los Angeles lại muốn nhờ vảtôi. Cũng có khi Nhà nướccử mấytên da đen đến nhờ tôigiải quyết chút việc ở nhữngnơi khôngthể xâm nhập được.Coi vậy chứ tôi có oai nhưmột ông cò cảnh sát nắm trong tay cả một tiểu đội thám tử khi cần nhào vô khu ghetto. “Vậy thì sao lại có chuyện tôi phải đi theo ông? Tôi đang ởnhà vui vớivợcon. Tôi không muốn thấy ngày nghỉ Chủ nhật phải đi theo bọn cớm”. “Chúng tôi nhờ ônggiúp đỡ mà ôngRawlins”. Vẻ mặt Quinten sa sầm dưới lànda màu nâu sậm. Tôi chỉ mong ởnhà với vợcon. Nay nghe Naylor nài nỉ khó mà khước từ cho được. Chừng như gã đang gặp khó khăn nên phải tới cầucạnh. Khó khăn này gặp bọn da đen thì nguy to, bọn chúng tôi đứa nào cũng vậy cả. “Ta sẽ đi đâu ?” “Chẳng bao xa đâu. Cách đây khoảng một chục dãy số. Ta đến phố 110th”. Vừa nói xong gã quay đầu nhìn về hướng đó. Đứng bên ngoài tôi nói to vào trong nhà. “Tôi có việc cần đi với ngài Naylor. Lát nữa về”. “Sao?” Regina đang bận tay ủi đồ hỏi vọng ra. “Tôi đi đây có chút việc”. Tôi hét to, giơ tay vẫy vẫy nhắm vô chỗ cây lê tàu trước ngõ. Thằng nhóc Jesus nhô đầu ra khỏi cành cây cười theo. “Xuống đây!”. Tôi nói. Thằng nhóc dân Mễ tụt xuống thân cây chạy tới bên tôi lặng lẽ cười một mình. Vẻ mặt nó hệt như dân Mỹ thời xa xưa, da ngăm ngăm đen, sáng dạ. “Con không đi đâu xa, nghe Jesus”. Tôi dặn. “Ở nhà với mẹ và em nhỏ Edna”. Jesus gật đầu. “Con nhìn đây nè”. Tôi nói một hơi cho nó nghebởi nuôi nó đã tám năm mà chưa hề nghe nónói chuyện. Jesus liếc nhìn theo tôi. “Con chỉ ở quanh nhà thôi. Con nghe chưa?” Quinten đang chờ ngoài xe, gã liếc nhìn đồng hồ. Jesus gật đầu. Nó nhìn vào mắt tôi. “Ngoan nhé”. Tôi xoa lên mái tóc xoăn màu hồng đào rồi bước ra ngoài xe. ... Mời các bạn đón đọc Bướm Trắng của tác giả Walter Mosley.
Chiến Dịch 'Cặp Bài Trùng' - Gyorgy Falus & Gábor József
Có một ông Banks nào đó cử nhân viên tình báo tấn công vào đất Hungary, lọt vào một công ty năng lượng thì phải. Bối cảnh truyện xảy ra ở Hungary, Đức, Áo... Sau nhiều tình tiết li kỳ thì mấy tay gián điệp đó hẳn nhiên sa lưới ^^. *** Ban đêm, phòng đợi dành cho hành khách của sân bay Pherissen ở gần Budapest thường vắng vẻ nên hành lang dường như càng trống trải. Bãi đỗ xe ôtô bus trước nhà ga lại càng trống vắng và mênh mông hơn. Quá nửa đêm ở đây chỉ có một vài chiếc máy bay đưa thư đậu, ngoài ra không còn loại máy bay nào khác. Việc bốc dỡ hàng chỉ chiếm mất rất ít thời gian và người bưu tá hàng không lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Những ngọn đèn pha báo hiệu trên tháp, nơi có điều độ viên chính đang ở, với một phần tư độ sáng, chỉ rực lên trong chốc lát cho các máy bay cất cánh hoặc hạ cánh. Thật ra chung quanh đường băng lên xuống được bảo vệ bằng một mạng đèn dày đặc có độ sáng cực mạnh và sáng suốt đêm nhưng chúng chỉ hướng lên bầu trời. Nhân viên trực ca đêm từ lâu nay đã bị tinh giản tới mức độ chỉ còn lại ít nhất. Vì không có hành khách nên những cuộc gặp gỡ và đưa tiễn cũng không. Bởi vậy sân bay như chìm trong im lặng. Thế nhưng vào đêm mùng 7 tháng 8, toàn cảnh ở đây trông có vẻ không giống với những gì đã miêu tả ở trên. Khi những chiếc kim của chiếc đồng hồ lớn treo trên tường đã chỉ sang giờ thứ hai và tòa nhà của ga hàng không ngập tràn ánh sáng, người ta thấy rất đông nhân viên phục vụ kíp đêm đã có mặt tại nơi làm việc của mình. Những tiếng va chạm khe khẽ phát ra từ vô số ly tách cà phê mà họ đang uống để chống lại sự mệt mỏi khi họ gặp nhau – với họ, những cuộc gặp như vậy cũng đã khá nhiều – và cùng bực dọc đưa mắt nhìn lên bảng điện báo, ở đó sáng lên một cách lì lợm độc một dòng chữ: “ Chuyến bay MA – 424, Frankfurt – Budapest – và sau đó, ở cột cuối viết mấy chữ to hơn, – ĐẾN CHẬM”. Gặp nhau chỉ tổ buồn rầu, một số đến ngồi vào những chiếc ghế fauteuil, số khác đi lại vẩn vơ trong phòng hoặc đến đứng cạnh tấm biển điện báo. Mặc dầu có “ Bản thông báo”đã ghi phía sau bàn điều khiển song họ cũng không biết gì hơn, vì những cô gái mặc đồng phục màu xanh đã tỏ ra mệt mỏi do phải giữ lịch thiệp để lặp đi lặp lại mấy câu: - Vâng, đúng đấy ạ! Chuyến bay đến chậm. Không, không phải tại tôi. Công nhân viên chức làm việc ở sân bay tại Frankfurt đã tuyên bố bãi công… Khi nào bay ấy à? Xin lỗi, cho đến lúc này cũng chưa thể biết gì hơn… Lúc ấy, hai người đã cao tuổi, có lẽ là hai vợ chồng vừa đến kịp chỗ quầy bán vé. Người đàn bà khoảng dưới bảy mươi tuổi, còn người đàn ông trông có vẻ già hơn. Nhẫn nại chờ cho đến lúc cô nàng xinh đẹp với chiếc mũ ca –lô trên đầu ngồi trịnh trọng sau chiếc bàn chỉ dẫn chú ý đến mình, người đàn bà hỏi: - Xin làm ơn cho biết, máy bay từ Frankfurt… ... Mời các bạn đón đọc Chiến Dịch "Cặp Bài Trùng" của hai tác giả György Falus & Gábor József.
Nhân Chứng Đã Chết - Harlan Coben
Vợ chưa cưới KATHY mất tích bí ẩn, sự nghiệp mới chớm nở tưởng như bị đe dọa, nhưng bằng cách nào đó, ngôi sao bóng bầu dục sinh viên CHRISTIAN STEELE vẫn nhẹ nhàng vượt qua được áp lực của dư luận. Mặc dù vậy, khi bức ảnh khỏa thân của KATHY bất ngờ xuất hiện trên một tạp chí khiêu dâm, mọi diễn biến đã đảo lộn đến chóng mặt. Quá nhiều kẻ tình nghi, quá nhiều động cơ, và quá nhiều bí ẩn. Với những lập luận chặt chẽ và hiểu biết sâu sắc của mình về thế giới thể thao Mỹ, HARLAN COBEN đã cùng nhân vật chính của mình, thám tử kiêm nhà đại diện thể thao MYRON, đưa người đọc qua những mặt trái của xã hội, của đời vận động viên để đến với một cái kết đầy bất ngờ và ám ảnh. *** Otto Burke, phù thủy thương thuyết, nâng tầm cuộc đấu lên một bậc. “Đi mà, Myron,” hắn thúc giục với vẻ hăng hái theo cung cách mộ đạo kiểu mới. “Tôi chắc chắn chúng ta có thể thấu hiểu nhau. Anh nhường một ít. Tôi nhường một ít. Titans là một đội. Hiểu theo nghĩa rộng hơn thì tôi muốn tất cả chúng ta là một đội. Bao gồm cả anh nữa. Hãy làm một đội đích thực đi Myron. Anh thấy sao?” Myron Bolitar chụm đầu ngón tay vào nhau. Anh đọc được ở đâu đó rằng hành động đó làm ta trông có vẻ trầm tư. Nhưng bản thân anh thì lại thấy điều đó quả là ngớ ngẩn. “Otto à, tôi nào muốn gì hơn,” anh nhắc lại cái câu vô nghĩa mà suốt từ nãy đã được nhai đi nhai lại không biết bao nhiêu lần. “Thật đấy. Nhưng chúng tôi đã nhường hết mức rồi. Giờ đến lượt anh.” Otto gật đầu lia lịa, như thể hắn vừa nghe thấy một quan điểm triết học kỳ quái khiến ngay cả Socrates cũng phải hổ thẹn. Hắn nghiêng đầu, hướng nụ cười thớ lợ về phía huấn luyện viên đội bóng. “Larry, anh thấy sao?” Bắt lấy tín hiệu gợi ý, Larry Hanson vội gõ nắm tay lông lá to như con chuột nhảy lên chiếc bàn hội nghị. “Quỷ tha ma bắt cậu đi, Bolitar!” gã hét lên. “Nghe thấy không, Bolitar? Cậu có hiểu tôi đang nói gì với cậu không? Quỷ tha ma bắt cậu đi.” “Quỷ tha ma bắt,” Myron gật đầu nhắc lại. “Hiểu rồi.” “Cậu giở trò láu cá với tôi đấy hử? Trả lời tôi xem nào, bố khỉ! Láu tôm láu cá hử?” Myron nhìn gã, “Răng anh giắt hạt anh túc kìa.” “Mẹ kiếp đồ láu cá.” Larry Hanson trợn mắt. Gã liếc mắt về phía sếp rồi quay lại nhìn Myron. “Việc này không hợp với cậu đâu, Bolitar. Mà cậu biết mẹ nó rồi còn gì.” Myron làm thinh. Thực chất, Larry Hanson cũng có phần đúng. Myron không thích hợp. Anh mới làm đại diện thể thao hai năm nay. Phần lớn khách hàng của anh là những trường hợp còn non - những kẻ may mắn đạt đủ tiêu chuẩn và chạm mức tối thiểu của liên đoàn. Và bóng bầu dục chưa bao giờ là món tủ của anh. Anh chỉ có ba cầu thủ chơi ở giải bóng bầu dục nhà nghề Mỹ NPL, trong đó chỉ có một cầu thủ chính thức. Giờ Myron ngồi đối diện bậc tuổi trẻ tài cao - Otto Burke, ba mốt tuổi, người trẻ nhất sở hữu một đội bóng thuộc NFL, và Larry Hanson, một huyền thoại bóng bầu dục nay đã là giám đốc điều hành, đàm phán một hợp đồng mà dù chỉ do một tay non nớt như anh đảm nhận nhưng lại là bản hợp đồng khởi nghiệp bự nhất lịch sử NFL. Phải, anh - Myron Bolitar - đã giành được ‘Hàng nóng’, Christian Steele. Tiền vệ hai lần giành cúp Heisman*. Ba lần lọt vào thẳng bảng xếp hạng của hãng tin AP và UPI với tư cách quán quân. Nếu thế chưa đủ thì cậu nhóc này còn là chàng trai trong mộng của các cô gái. Một sinh viên ưu tú, sáng sủa, ăn nói lưu loát, lịch sự và là người da trắng (hầy, nếu điều này quan trọng). Trên hết, cậu ta thuộc về Myron. “Đề nghị được đưa ra rồi đấy, thưa các quý ông,” Myron nói tiếp. “Chúng tôi nghĩ thế là quá công bằng rồi.” Otto Burke lắc đầu. “Thật vãi cả phân!” Larry Hanson hét lên. “Cậu ngu bỏ mẹ, Bolitar ạ. Cậu sẽ làm sự nghiệp của thằng nhóc đi tong mất.” Myron dang tay ra. “Sao mọi người không cùng ôm nhau một cái cho nó tình cảm nhỉ?” Larry định buông thêm một câu chửi thề, nhưng Otto đã giơ tay lên ngăn lại. Hồi Larry còn thi đấu, những cú đòn chặn của Dick Butkus và Ray Nitzchke không thể cản bước gã. Giờ chỉ một cái khoát tay cũng có thể làm kẻ tốt nghiệp Harvard nặng ngót bảy mươi cân này ngậm miệng. Otto Burke nhoài người ra. Hắn vẫn chưa tắt nụ cười, chưa thôi khua khoắng tay, chưa thôi trao đổi ánh mắt - như một bộ phim quảng cáo sống động về Năng lực Cá nhân của diễn giả Anthony Robbins vậy. Làm người khác bối rối phát điên. Otto nhỏ thó, một gã đàn ông hom hem với những ngón tay bé nhất mà Myron từng thấy. Hắn có mái tóc dài sẫm màu kiểu dân Rock xõa xuống vai. Mặt hắn trông non tơ với chòm râu dê ngớ ngẩn nom như được phác họa bằng bút chì. Hắn hút một điếu thuốc dài ngoẵng, hay có lẽ nằm trên mấy ngón tay bé xíu của hắn nên nó thành ra vậy. “Nào, Myron,” Otto nói, “ta hãy nói chuyện có lý có tình, được chứ?” “Có lý có tình. Mời.” “Tuyệt, Myron, thế sẽ có ích đấy. Sự thật Christian Steele là kẻ vô danh, một tay ất ơ chưa được kiểm chứng. Cậu ta còn chưa từng được khoác đồng phục chuyên nghiệp. Biết đâu cậu ta lại là quả bom xịt của thế kỷ cũng nên.” Larry khịt mũi. “Cậu nên biết chút ít về điều này, Bolitar à, về những cầu thủ chẳng làm được trò trống gì. Những kẻ thất bại.” ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Đã Chết của tác giả Harlan Coben.
Nhân Chứng Câm - Agatha Christie
Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Ngày 1 tháng 5, tiểu thư Arundell từ trần sau một cơn đau ngắn ngủi. Cái chết của tiểu thư không gây ra bất kỳ một chút kinh ngạc nào ở cái thị trấn thôn dã Market Basing nhỏ nhoi này, nơi tiểu thư đã sống từ năm mười sáu tuổi. Thực ra cô gái già này đã quá tuổi bảy mươi, và ai cũng biết là sức khỏe của bà khá mỏng manh. Mười tám tháng trước, bà đã bị một cơn đau gan giống hệt cơn vừa mới rước bà đi. Nếu cái chết của tiểu thư Arundell không làm ai ngạc nhiên thì tờ di chúc của bà lại không phải như vậy. Những ý nguyện cuối cùng của nữ chủ nhân biệt thự Littlegreen đã gây ra ở những người thân của bà biết bao cảm xúc rất khác biệt: kinh ngạc, vui mừng, chê bai, giận dữ và thất vọng. Trong nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng ở Market Basing người ta không nói đến chuyện gì khác cả. Mỗi người phát biểu một cách, từ ông John, bác hàng khô, nhà bảo vệ quyền gia đình đến bà Lampri, cô hàng thuốc lá, ai cũng lặp đi lặp lại cả ngày rằng: "Chắc có gì ám muội đây! Các vị cứ nhớ lấy lời tôi!". Chuyện tiểu thư Arundell viết tờ di chúc này, ngày 21 tháng 4 nghĩa là chỉ ít ngày trước khi chết, cũng đủ để khuấy động tâm trí người ta lên rồi. Hơn nữa, nếu ta biết rằng những người thân cận nhất của Emily Arundell đã đến Littlegreen nghỉ lễ Phục sinh thì sẽ dễ dàng hiểu rằng những giả thuyết tai tiếng nhất đã được phát ra, đem đến cho cuộc sống buồn tẻ của cư dân Market Basing một trò giải khuây thú vị. Người ta ngờ rằng bà Wilhelmina Lawson, tùy nữ của tiểu thư Emily Arundell đã biết nhiều về vụ rắc rối này mà không định nói ra. Tuy thế bà Lawson vẫn khẳng định là mình không biết gì hơn những người khác, và còn tỏ ra sững sờ khi đọc tờ di chúc. Nhiều người nghi ngờ tính thành thực của bà ta. Dù sao thì cũng có một người duy nhất biết đích xác bí mật này: Đó là người chết. Theo thói quen, tiểu thư Arundell chỉ hỏi ý kiến bản thân mình để soạn thảo những ý nguyện cuối cùng của mình và bà cũng tránh bộc lộ cho công chứng viên của bà biết những lý do đã buộc bà đổi ý vào giờ chót. Sự giữ kín này của tiểu thư Arundell là điểm nổi bật về tính cách của bà. Là sản phẩm điển hình của thời Nữ hoàng Victoria, bà có những ưu điểm cũng như những khuyết điểm của thời đại. Bề ngoài kiêu kỳ trong bà ẩn giấu một trái tim vàng. Lời nói của bà ngấn gọn, nhưng hành vi của bà biểu lộ một tâm hồn nhân hậu. Và trong thâm tâm bà bảo tồn nhiều điều tế nhị. Các tùy nữ không tồn tại được lâu ở Littlegreen: tiểu thư Arundell vừa hành hạ họ không thương tiếc, vừa đối đãi rộng lượng với họ. Hơn nữa còn bày tỏ công khai là bà hết sức tôn sùng gia đình dòng họ mình. Thứ Sáu trước ngày Chủ nhật Lễ Phục sinh, Emily Arundell ngồi ở tiền sảnh nhà mình và ra chỉ thị cho bà Lawson. Thời con gái, Emily Arundell rất xinh đẹp. Hiện nay cô gái già này vẫn giữ được dáng dấp thanh nhã, cũng còn rất năng động. Nước da bà khá vàng, cho ta biết bà vẫn phải thực hiện chế độ ăn kiêng. Tiểu thư Arundell nói với bà tùy nữ: - Này u! U đã thu xếp cho họ chỗ nghỉ ở đâu rồi? - Quả là con tin... con hy vọng đã xếp sắp ổn rồi... Bác sĩ Tanios và phu nhân ở phòng gỗ sồi, Theresa ở phòng sơn xanh, còn cậu Charles ở phòng ngày xưa dành cho trẻ con... Tiểu thư Arundell ngắt lời bà ta: - Tốt hơn cho Theresa ở phòng trẻ con, còn phòng xanh để cho Charles. - Vâng, vâng... con xin lỗi... con tưởng phòng trẻ con là thích hợp hơn với... - Theresa ở đó sẽ rất tốt. Tiểu thư Arundell thuộc thế hệ coi phụ nữ là thứ yếu. Trong mắt bà, nam giới là bộ phận quan trọng trong xã hội. - Con tiếc rằng các con nhỏ của bà Tanios không đến. - Bà Lawson nói thì thào, giọng buồn buồn. Bà rất yêu trẻ nhưng lại tỏ ra kém khả năng cai quản chúng. - Bốn vị khách là vừa đủ cho chúng ta rồi. - Tiểu thư Arundell vặc lại, bà rất nuông chiều các cháu bà, còn họ chẳng chịu nghe lời bà chút nào. U Lawson thở dài nói: - Bella Tanios là một người mẹ hiền từ. - Phải, Bella, rất tốt. - Tiểu thư Arundell chấp nhận. ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Câm của tác giả Agatha Christie.