Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khang Kiều (Loan)

Về sau tôi mới biết, thì ra Khang Kiều là tên một người con gái - Các nữ phụ.***

*Bản văn án đầy thành ý:

Mùa hè năm 2006, cảnh sát Indonesia nhận được một cú điện thoại báo án. Khi họ tới hiện trường thì phát hiện hai nam nữ thanh niên đang thoi thóp hơi tàn vì sử dụng thuốc ngủ quá liều, địa điểm xảy ra vụ việc là hang Tình Nhân - thánh địa tự tử vì tình nổi tiếng ở đảo Bali. Về sau, cảnh sát đặt tên cho vụ này là: Tự tử vì tình thất bại. Chàng trai tên Hoắc Liên Ngao, cô gái tên Khang Kiều.

Mười lăm tiếng đồng hồ sau, khi tỉnh lại, Khang Kiều đã hỏi Hoắc Liên Ngao: Vì sao lại gọi điện thoại?

Vì sao anh gọi cú điện thoại ấy vào giây phút cuối cùng, thật ra Khang Kiều đã sớm hiểu rõ, chẳng qua cũng chỉ vì yêu chưa đủ mà thôi.*** Tìm mua: Khang Kiều TiKi Lazada Shopee

*Bản văn án tác giả yêu thích:

Con sinh ra vào thứ Hai thì diện mạo bảnh bao, con sinh ra vào thứ Tư thì dễ đau thương, con sinh ra vào thứ Sáu thì bụng dạ tốt, còn đứa sinh ra vào thứ Năm đã đi xa rồi.

Bài đồng dao của nước Anh cổ kính dường như đã hát lên số phận của họ. Đứa sinh ra vào thứ Hai tên Hoắc Liên Ngao, đứa sinh ra vào thứ Tư tên Khang Kiều, đứa sinh ra vào thứ Sáu tên Văn Tú Thanh, còn đứa sinh ra vào thứ Năm tên Hoắc Tiểu Phàn.***

Trên cây thành công có vô vàn trái táo, nhưng nếu bạn chọn trúng thành phố New York thì tức là bạn đã chọn được trái to nhất trên cái cây ấy đấy…Ngày 31 tháng 12 năm 2013, 7 giờ đúng tại bờ biển phía Đông Bắc Mỹ, chỉ còn năm tiếng nữa là năm 2014 tới.

Khói thuốc vấn vít mù mịt cả một căn phòng. Hút xong điếu cuối cùng, tay còn đang kẹp đầu lọc, Giản Liêu đã đứng dậy khỏi ghế.

Dừng lại trước ô cửa sổ sát sàn rộng lớn, nhìn xuống đô thị hàng đầu thế giới qua làn khói mông lung. Ngọn đèn lung linh che khuất những ánh sao trên trời, từng tòa nhà cao chọc trời được ánh đèn chiếu rọi trông càng giống hàng loạt mũi tên bắn lên bầu trời, mạnh mẽ, thẳng tắp, khí thế hơn người, khiến người ta phải chùn bước.

New York được mệnh danh là thành phố Táo. Về nguyên nhân của cái tên này có rất nhiều phân trần, ý kiến duy nhất Giản Liêu còn nhớ là vì lời bài hát nhạc Jazz đã cũ đến rụng răng: “Trên cây thành công có vô vàn trái táo, nhưng nếu bạn chọn trúng thành phố New York thì tức là bạn đã chọn được trái to nhất trên cái cây ấy đấy”.

Lời bài hát khí thế hăm hở này chắc chắn đã khích lệ những giấc mơ anh hùng còn đang rục rịch nơi lồng ngực.

Mười tám tuổi, Giản Liêu một thân một mình từ Quảng Châu tới New York. Mười năm đã trôi qua, cuộc sống hiện tại của Giản Liêu không tốt cũng không xấu. Anh có một ngôi nhà riêng tại Manhattan, có một số tiền tiết kiệm nhất định tại ngân hàng, tháng trước vừa mua ô tô, Mercedes-Benz C63. Nếu đi trên đường phố Manhattan, anh và những nhân viên hành chính cao cấp tay xách những chiếc cặp công vụ hàng hiệu của những công ty hàng đầu chẳng mấy khác biệt, điều may mắn là so với họ, trông anh trẻ hơn một chút.

Thành tựu hiện thời của Giản Liêu có lẽ là do anh gặp được người tốt, nói chính xác hơn là anh gặp được quý nhân.

Giống như tâm trạng của những người đã quen ăn cá ngon thịt tươi, thi thoảng lại trông sang những bữa cơm rau đạm bạc của những gia đình bình dân vậy, Giản Liêu cũng hay nhớ lại khoảng thời gian ngày ngày đến nhà hàng rửa bát khi mới đặt chân tới New York, nhớ căn nhà ổ chuột bao ngày không nhìn thấy mặt trời, cả cô bạn gái với mái tóc dài và thẳng yêu nhau hồi đó, mặc dù tới bây giờ anh chẳng còn nhớ diện mạo của cô ấy nữa.

Thở hắt một hơi, Giản Liêu quy tất cả những tâm trạng mang theo chút buồn bã vu vơ ấy thành chuyện khi sắp qua một tuổi. Khi đối mặt với một năm mới sắp đến, con người ta dù ít dù nhiều cũng sẽ tưởng nhớ lại năm cũ sắp qua.

Bỏ đầu lọc vào trong gạt tàn, bước ra khỏi phòng hút thuốc, bóc một viên kẹo cao su bỏ vào miệng, năm phút sau, Giản Liêu đẩy cửa lớn phòng họp ra, viên kẹo cao su kia đã thành công mang đi mọi mùi thuốc lá còn sót lại trong khoang miệng.

Đây là một hộp đêm cá nhân, nằm ở gần sông Hudson. Từ tòa nhà xanh màu nước hồ đó, đi thẳng thang máy lên là có thể tới được hộp đêm. Từ tầng 60 trở lên, toàn bộ đều thuộc phạm vi kinh doanh của hộp đêm.

Vẫn giống như mười mấy phút trước khi Giản Liêu ra ngoài, trong không gian rộng bằng hai sân quần vợt, ngoài giọng nói của người tổ chức đấu giá ra thì không còn một tạp âm nào khác.

Giản Liêu trở về vị trí của mình, đó là một góc không mấy nổi bật. Tại đây có mười mấy người cũng không có chỗ người như anh, phải tìm một chỗ kín đáo để đứng. Họ và anh cũng có chung một thân phận: Trợ lý cấp cao.

Tính chất công việc của nghề trợ lý cấp cao thực ra không khác lắm so với một chân lon ton trong văn phòng. Công việc của họ chính là giúp Boss của mình xử lý một vài việc khá lặt vặt.

Boss của Giản Liêu tên là Hoắc Liên Ngao.

Hiện giờ Giản Liêu đang đứng trên tầng cao nhất của hộp đêm, một tháng có tới hai mươi chín ngày nơi đây yên ắng, chỉ tới ngày cuối cùng mỗi tháng mới mở cửa. Chỉ những hội viên cấp kim cương mới có tư cách nhận được lời mời. Tất cả những người cầm thiếp mời trên tay ngoài việc đều là những nhà tỷ phú thì còn cần có thêm một thân phận khác: Những nhà sưu tầm.

Tại rất nhiều địa điểm công cộng, càng ngày càng nhiều những người tiền tài như nước vui vẻ nói về những món đồ mình sưu tầm. Người nghe hùa theo, ngợi khen chúng hết lời. Lâu dần, sưu tầm trở thành một trào lưu trong thế giới thượng lưu. Dường như số lượng và chất lượng các món đồ sưu tầm của ai nhiều hơn và tốt hơn thì đời sống tinh thần của họ sẽ vô cùng giàu có, phong phú vậy.

Về sở thích sưu tầm của những nhà tỷ phú, người ngoài thi thoảng lại truyền tai nhau những câu chuyện cười như “Bảo bối mà ông trùm dầu mỏ Trung Đông bỏ ra số tiền hàng triệu mới mua được lại là lon nước tiểu của ông nội của ông nội của người đẹp Trung Mỹ tên Vanessa”.

Nhắm vào trào lưu này, một vài “triển lãm nghệ thuật” do những hộp đêm tư nhân đẳng cấp tổ chức đã ra đời. Các triển lãm này chủ yếu là những buổi đấu giá, quy mô tuy không lớn nhưng các sản phẩm được trưng bày lại khiến người ta phải tặc lưỡi.

Bây giờ đây, tại hội trường được trang trí bằng hai tông màu chủ đạo là vàng hồng và xanh dương Địa Trung Hải đang diễn ra một buổi triển lãm như thế. Ngoài bốn cây cột trụ to đùng và sân khấu thủy tinh ra thì không còn thiết kế dư thừa nào khác. Mấy chục chỗ ngồi được xếp vòng quanh sân khấu, không một chỗ nào trống. Các vị khách quý ăn diện xuất hiện cùng với món đồ đặc biệt mới mẻ khiến buổi triển lãm này trông giống như một buổi ra mắt những đồ xa xỉ.

Buổi triển lãm đã sắp kết thúc, đại gia người Nga bụng phệ là người giành được nhiều nhất. Ngoài việc sở hữu bản nháp của người nổi tiếng cùng điếu xì gà đang rất hot gần đây thì ông ta còn giành được cho tình nhân của mình món trang sức mà vị phu nhân bá trước thời trung cổ từng sưu tầm.

Cô gái chỉ vừa đôi mươi mãn nguyện dựa vào lòng người đàn ông đáng tuổi bố mình. Món trang sức trị giá mấy chục vạn khiến đôi mắt cô ta cần nũng nịu bao nhiêu có bấy nhiêu.

Từ phía Giản Liêu có thể nhìn rõ cô gái đang nằm trong vòng tay đại gia người Nga ấy vô thức liếc mắt sang trái. Sân khấu thủy tinh thay đổi nhiều hình ảnh này rất có lợi cho trò chơi ánh mắt giữa nam và nữ.

Người đàn ông trẻ ngồi ở mé trái chính là Hoắc Liên Ngao. Có lẽ, tuyệt đại đa số mọi người sẽ giống Giản Liêu, lần đầu tiên gặp Hoắc Liên Ngao, trong đầu đã lập tức hiện lên một suy nghĩ: Đó quả thực là một người đàn ông đẹp.

Vẻ đẹp của Hoắc Liên Ngao là kiểu đẹp phi điển hình mà khi dùng những từ ngữ bình thường như “vẻ đẹp tỏa nắng”, “anh tuấn phi phàm”, “cao lớn vạm vỡ” để miêu tả vẫn cảm thấy thiếu chút gì đó.

Vẻ đẹp của Hoắc Liên Ngao thuộc kiểu tinh tế, lạnh lùng, kết hợp với đôi mắt hờ hững sẽ càng khiến anh giống một bức tượng đá tuyệt diệu yên lặng ngồi đó.

“Người đàn ông trẻ đó giống một kẻ xâm nhập và quan sát vô tình đến Trái Đất, mang theo sự mê hoặc trí mạng, khiến người ta không thể hiểu được.” Năm ngoái đã có một nhân vật nổi tiếng cấp giáo chủ nào đó hình dung về Hoắc Liên Ngao như thế.

Cho dù nghe có vẻ khoa trương, nhưng cũng được rất nhiều người đồng tình, vì cho dù Hoắc Liên Ngao mặc một chiếc áo phông tầm thường giá mười đồng xếp hàng mua McDonald thì cũng có thể thu hút đám con gái ngay từ cái nhìn đầu tiên. Ý nghĩa này cũng giống như việc “một vị hoàng tử thực thụ cho dù bị vứt vào cuộc sống bình thường vẫn vô cùng nổi bật”.

Khi những lời hình dung kia lọt vào tai Hoắc Liên Ngao, anh cũng chỉ cười, sau đó trả lời bằng một chất giọng nghiêm túc, nửa phản bác, nửa đùa giỡn: “Cảm ơn lời ngợi khen của ngài Enge. Tôi nghĩ, tôi phải sửa lại, tôi chắc chắn là một người tham gia vào cuộc sống trên hành tinh này. Sự nhiệt tình của tôi không kém bất kỳ ai cùng tuổi. Tôi và họ đều có những sở thích giống nhau, thích ăn uống, du lịch, những cô gái xinh đẹp và gợi cảm, ba thứ này không thể thiếu thứ gì”.

Câu nói này của Hoắc Liên Ngao không còn nghi ngờ gì, chính là muốn tuyên bố với mọi người: Thật ra, tôi chỉ là một kẻ phàm phu tục tử.

Việc thích ăn uống và du lịch cỡ nào thì anh chưa thể hiện ra ngoài, vì anh quá bận rộn, anh đã dồn mọi sức lực vào việc kinh doanh của mình.

Có điều, thứ cuối cùng mà Hoắc Liên Ngao nhấn mạnh thì đúng. Những cô gái từng hẹn hò với anh đa số đều xinh đẹp, ngực to, eo thon và chân dài.

Đương nhiên, thi thoảng cũng có ngoại lệ, ví dụ như cô gái tên Miêu Tiểu Cơ đang ngồi bên cạnh anh kia. Miêu Tiểu Cơ ngoài điều kiện xinh xắn ra thì không một điều kiện nào khác phù hợp với thẩm mỹ quan của anh, ngực lép, chân gầy, dáng người cũng không cao ráo.

Về Miêu Tiểu Cơ, tối qua Hoắc Liên Ngao khi đối mặt với những lời đùa cợt của đám bạn đã thản nhiên buông một câu: “Thỉnh thoảng đổi khẩu vị một chút”. Khi đó, Miêu Tiểu Cơ cũng có mặt.

Miêu Tiểu Cơ là cô sinh viên vừa tốt nghiệp trường mỹ thuật, món đồ đặc biệt của triển lãm nghệ thuật là tác phẩm tốt nghiệp của cô ấy. Tác phẩm được đấu giá ba mươi ngàn đô la Mỹ đó do Hoắc Liên Ngao mở hầu bao.

Hoắc Liên Ngao nói thế này về tác phẩm mình vừa đấu giá: “Ba năm sau, nó có thể giúp tôi kiếm được năm mươi ngàn đô”.

Giản Liêu không chút nghi ngờ gì về câu nói của Hoắc Liên Ngao. Bà ngoại anh là một nhà nghệ thuật nổi tiếng, anh di truyền từ bà mình sự nhanh nhẹn và nhạy bén đối với nghệ thuật.

Trong số các sản phẩm đấu giá lần này tại triển lãm có những món đồ của riêng Hoắc Liên Ngao, bản nháp của người nổi tiếng do người Nga đấu giá thành công và con dao võ sỹ mà người Trung Đông nắm chắc phần thắng. Hai sản phẩm này mấy năm nay luôn được cất dưới tầng hầm của Hoắc Liên Ngao, khi bán ra anh kiếm được không dưới một triệu.

Tầng hầm của Hoắc Liên Ngao còn rất nhiều món đồ sưu tầm kiểu như vậy. Anh sở hữu một đoàn đội với kinh nghiệm phong phú. Những thứ này đều được họ thu về từ khắp nơi trên thế giới, sau đó đút tiền cho những nhà bình luận, nhà giám định hoạt bát trên thị trường triển lãm vào một thời cơ thích hợp, thế là, chúng trở thành những sản phẩm nghệ thuật đáng sưu tầm, có một không gian thăng tiến vô hạn.

Tiền đầu tư vào sản phẩm nghệ thuật là một trong những nguồn thu nhập của Hoắc Liên Ngao.

Vì buổi triển lãm kéo dài sáu mươi phút vừa vui vẻ kết thúc, hai mươi mốt vật phẩm đã được các đại gia tới từ khắp nơi trên thế giới chia chác nhau.

Hoắc Liên Ngao không chỉ là người khởi xướng là buổi triển lãm, đồng thời cũng là chủ nhân của hộp đêm này. Hoắc Liên Ngao sở hữu sáu hộp đêm cao cấp có quy mô đạt tiêu chuẩn quốc tế, hai căn ở New York, hai căn ở Chicago, Las Vegas và Los Angeles mỗi nơi một căn. Sáu hộp đêm này có thể mang tới cho Hoắc Liên Ngao lợi nhuận xấp xỉ tám trăm triệu đô mỗi năm.

Theo thông lệ, sau khi buổi triển lãm kết thúc, Hoắc Liên Ngao sẽ mời những người này tới căn phòng mình chuẩn bị trước để giao lưu một bữa rượu tiệc. Lần này cũng không phải là ngoại lệ. Rõ ràng các khách mời rất hứng thú với lời mời của Hoắc Liên Ngao, ngược lại, Miêu Tiểu Cơ nãy giờ vẫn yên lặng ngồi bên cạnh anh lại có vẻ ủ dột.

Khi Hoắc Liên Ngao giành được tác phẩm tốt nghiệp của Miêu Tiểu Cơ với giá ba mươi ngàn đô, cô ấy không như vậy. Lúc đó, Miêu Tiểu Cơ còn đỏ bừng mặt vì phấn khích.

Điều khiến Miêu Tiểu Cơ không vui có lẽ là khi Hoắc Liên Ngao đùa cợt nói: “Ba năm sau, nó có thể kiếm về cho tôi năm mươi ngàn đô”.

Những người theo nghiệp nghệ thuật trước nay luôn thanh cao, Miêu Tiểu Cơ cũng vậy.

Dường như ý thức được mình đã khiến bạn gái không vui, Hoắc Liên Ngao nghiêng mặt hôn nhẹ lên tóc Miêu Tiểu Cơ. Lúc đó, Giản Liêu đang ở ngay phía sau.

“Tưởng anh bán tác phẩm của em đi thật sao?” Vì khoảng cách gần, Giản Liêu nghe rất rõ những lời thầm thì của Hoắc Liên Ngao.

Miêu Tiểu Cơ không nói gì.

“Ngốc ạ, đó rõ ràng là một lời ngợi khen và tin tưởng. ‘Anh tin tưởng em, em làm được’.” Anh dịu dàng lẩm nhẩm, câu nói cuối cùng nghe còn thánh thót.

Cho dù Giản Liêu không nhìn thấy biểu cảm của Hoắc Liên Ngao khi nói những lời này nhưng cũng có thể dễ dàng đoán ra, người đàn ông dịu dàng kia ánh mắt lúc này nhất định vẫn rất thản nhiên, không một gợn sóng, giống như mặt biển phẳng lặng mà ánh trăng đổ xuống, lạnh lẽo, hoa mỹ, xa xăm và hư ảo.

Nhưng, mấy cô gái đang chìm đắm trong ái tình, chẳng thể nào nhận ra những điều ấy.

“Thật ư?” Giọng nói khe khẽ, có chút mừng thầm, vui thầm.

“Đương nhiên!”

Thế là cơ thể nhỏ bé sát lại gần cơ thể cao gầy, dính rất chặt, có thể tưởng tượng được khuôn mặt Miêu Tiểu Cơ lúc này như đang nở hoa.

Đúng là một cô gái không giấu được tâm sự thầm kín…

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Khang Kiều PDF của tác giả Loan nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Một Nỗi Đau Riêng (Kenzaburo Oe)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Nỗi Đau Riêng PDF của tác giả Kenzaburo Oe nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Một Người Chân Chính (Boris Polevoi)
Năm 1954, khi từ bưng biền về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, tôi đến cửa hàng Albert Portail ở đường Catinat mua sách báo ngoại văn. Tình cờ tôi thấy một số sách Liên Xô dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Xã hội Pháp (Editions Sociales) bày bán tự do. Tôi lựa được một cuốn tiểu thuyết rất hay: “Một người chân chính” (Un homme veritable) của nhà văn Xô viết Bôris Pôlêvôi. Tôi bắt đầu dịch ngay trong những thời gian rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm. Lúc đầu tôi định chuyển thể để có thể đăng trên các báo Sài Gòn hoặc ra sách, như kiểu anh Năm Châu chuyển thể vở “Người mặt cháy”. Nhưng dưới sự kiểm duyệt rất khắc nghiệt của địch nên không thể qua mặt được. Tôi liền gửi đăng trên báo Sông Chung (sau này là báo Trung Lập) của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Sau đó tôi sửa chữa lại lần nữa bản dịch gửi ra Hà Nội. Vợ tôi (chị Lê Đoan) lúc đó là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam đã đưa bản dịch cho Nhà xuất bản Thanh Niên. Cuốn sách được in 2 lần, mỗi lần với số lượng lớn 15.000 bản. Nhà xuất bản còn đề nghị tác giả Bôris Pôlêvôi gửi ảnh và lời tựa cho cuốn sách kèm với bản tự thuật của ông. Vì tôi dịch cuốn sách từ tiếng Pháp, chớ không phải tiếng Nga, nên phải nhờ Giáo sư Phạm Huy Thông hiệu đính theo nguyên bản tiếng Nga. Anh Phạm Huy Thông lại có dịp gặp cả tác giả Bôris Pôlêvôi và anh hùng Xô viết Alếchxây Mêrétxép nên việc xuất bản cuốn “Một người chân chính” càng có giá trị thắt chặt quan hệ anh em giữa Liên Xô và Việt Nam. Đây là bản dịch rất sớm các tác phẩm văn học của Liên Xô. Vì cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài, tôi rất tiếc không gặp được Bôris Pôlêvôi và anh hùng Alếchxây Mêrétxép, chỉ có liên hệ thư từ với Bôris Pôlêvôi. Chính tác giả đã gởi cho tôi nhiều tác phẩm văn học của Liên Xô và cả sách học tiếng Nga để tôi tự học khi còn ở chiến khu. Bôris Pôlêvôi còn khuyên tôi nên dịch cuốn “Tấm kiếng Parabôn” của Alếchxây Tônstôi, tôi cũng đã dịch và in thành truyện nhiều kỳ (feuilleton) trong tuần san “Hòa bình trung lập” của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Tìm mua: Một Người Chân Chính TiKi Lazada Shopee Cuốn “Một người chân chính” có tính giáo dục, rèn luyện thanh niên rất cao, gần như cuốn “Thép đã tôi thế đấy”. Bởi vì phi công Alếchxây Mêrétxép sau khi bị bắn hạ trên bầu trời Đức chiếm đóng, gãy hai chân, đã bằng hai tay bò suốt 18 ngày đêm vừa đói vừa rét, để về căn cứ Hồng Quân. Sau khi lắp chân giả, anh lại bay nhiều ngày tấn công địch đến thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh chống Phát xít. Anh được phong Anh hùng lực lượng võ trang Liên Xô và được bầu vào Ban Chấp hành “Hội đồng Hòa bình thế giới” chính anh đã lên tiếng nhiều lần ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam trên các diễn đàn Quốc tế. Tôi có ý định tái bản cuốn “Một người chân chính” vì cuốn sách là một tác phẩm có giá trị văn học, có giá trị giáo dục thanh thiếu niên, ngay cả trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Người dịch Minh Đô (Phạm Dân). *** LỜI TÁC GIẢ Tôi chưa sang thăm nước Việt Nam. Nhưng tôi có cảm tưởng là mình đã từng sống ở đấy, đã quen biết cảnh thiên nhiên giàu đẹp của đất nước này, với những khu rừng nhiệt đới, những con sông hùng tráng và những thung lũng phì nhiêu, những người Việt Nam tuy tầm vóc không cao lắm, nhưng gần cảnh vật và những con người ấy, không ai có thể coi là bé nhỏ. Những năm trước đây, khi nhân dân Việt Nam đang tiến hành cuộc đấu tranh thần thánh và anh dũng chống bọn thực dân được trang bị đẩy đủ thì những người Xô viết chúng tôi đã theo dõi quá trình các trận chiến đấu anh dũng của các bạn với tấm lòng kính phục và thông cảm sâu sắc. Nhân dân chúng tôi biết rõ giá trị của lòng dũng cảm, tinh thần can đảm và lòng yêu mến tự do. Người anh hùng họ biết kính phục tinh thần anh dũng của những người anh hùng khác. Vì vậy người Việt Nam ở xa chúng tôi, đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết. Chúng tôi rất vui mừng trước mỗi thắng lợi chống thực dân của các bạn và đã gửi đến đất nước các bạn lời chào hòa bình. Ngày nay với tấm lòng kính phục anh em, chúng tôi rất yêu mến những người Việt Nam quang vinh đang nắm trong tay vận mệnh của mình để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Tôi hy vọng Alếchxây Mêrétxép, nhân vật có thực trong cuốn sách của tôi, một người Xô viết bình thường sẽ được gặp những người bạn tốt trong hàng ngàn vạn người lao động của nước Việt Nam mới. Chính vì ở nước các bạn cũng biết rõ giá trị tinh thần anh dũng chân chính, nên Alếchxây Mêrétxép đã đến với các bạn như tình anh em.Mạc tư khoa (Mascơva)2-1960Bôris Pôlêvôi***LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ Tôi sinh ngày 17 tháng 3 năm 1908 tại Mátxcơva, nhưng tôi lớn lên ở Tưve (bây giờ gọi là Calinin); cho nên tôi có thể có lý do để tự coi mình là một công dân Calinin. Cha tôi xưa là luật gia. Ông chết vì bệnh lao năm 1916. Tôi gần như không còn nhớ gì hết về ông, nhưng cứ phán đoán theo tủ sách rất tốt ông để lại, trong đó có đầy đủ các nhà văn cổ điển Nga và nước ngoài, và theo lời mẹ tôi nói lại, thì đối với thời ông, ông là một người có đầu óc tiến bộ và có học vấn cao rộng. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi vào làm việc ở một nhà thương xưởng máy, làm thầy thuốc, và mẹ con chúng tôi dọn đến ở trong một xưởng dệt lớn của bọn buôn bán Marôdốp. Tôi ở đấy suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu của tôi. Chúng tôi ở trong chỗ gọi là “nhà nhân viên”, nhưng bạn học và bạn chơi của tôi là các con cái thợ thuyền, và vì mẹ tôi làm việc ở nhà thương nên công việc bận rộn bù đầu và chả mấy khi gần gũi con được, có những khi tôi cứ cả ngày ở trong các nhà ngủ công cộng của công nhân hay ở vùng ngoại ô quanh đấy. Tôi học hành không đến nỗi quá kém ở trường, nhưng cũng không hào hứng quá độ, và vào ngày giờ rảnh, tôi hoặc ra giữa dòng sông Tưmaca - một dòng nước hôi thối chảy ngang qua xưởng - và hoặc đắm chìm trong sách vở trong thư viện của cha. Tuy bận bịu, mẹ tôi cũng cố gắng hướng dẫn tôi đọc sách và khuyên nhủ tôi đọc sách của những tác giả mà mẹ tôi ưa thích nhất. Những cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Gôgôn, Sêkhốp, Nêcưraxốp, Pimialốpski. Nhà văn tôi thích nhất là Goócki. Khi còn là sinh viên, cha mẹ tôi đều rất tôn sùng ông, và tủ sách của gia đình gồm hầu tất cả những sách của ông xuất bản trước cách mạng. Thời còn bé, tôi lại còn có một chiều hướng thích thú khác nữa, là yêu thiên nhiên. Học lớp tư, tôi đã là một “người lãnh đạo” nhóm các nhà sinh vật học trẻ tuổi và đã tham dự những cuộc gặp gỡ của thanh thiếu niên thành phố và của thanh thiếu niên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô viết Nga. Ở nhà tôi lúc nào cũng có chứa những khách lạ: một lần, có con ưng không biết tại sao lạc đến bay lới phới trong sân xưởng và đụng phải dây điện tín gẫy cánh; một lần khác, có con quạ con bị ngã từ trên ổ xuống được tôi cứu thoát khỏi móng mèo, có con nhím và có cả con rắn nước mà tôi dọn dẹp chỗ cho ở giữa hai khung cửa sổ, trong một đường rãnh nhỏ đã đào riêng cho nó. Trong thành phố bấy giờ có xuất bản một tờ báo địa phương: tờ Sự thật Tưve. Trong những năm hai mươi[1] có thành lập nên trong xưởng một mạng lưới quan trọng các thông tín viên công nhân. Tòa báo đặt trong căn nhà sắp xếp dụng cụ cứu hỏa. Và lũ bé con chúng tôi vô cùng kính phục nhìn những kẻ ra vào căn nhà gạch nhỏ ấy. Những thông tín viên công nhân mà! Những người viết bài trong báo mà! Chủ tịch của tổ chức đó, bác thợ nguội Gurianốp, là một trong những người được trọng vọng nhất nhà máy. Chắc hẳn là từ thuở xa xăm ấy đã chớm nở trong tôi cái chiều hướng thích thú đối với nghề viết báo, bấy giờ tôi đã coi như nghề hay nhất, quan trọng vô cùng, lại có cái khía cạnh đôi chút huyền bí. Tôi đang học lớp sáu khi báo Sự thật Tưve đăng bài báo nhỏ đầu tiên của tôi. Bài, theo như tôi còn nhớ được, có bảy dòng; nó kể chuyện một nhà thơ nông dân có tiếng tên là Đưrốtgin, đến thăm trường. Báo đăng bài đó cuối trang tư và tôi nhớ là đâu không có ký tên. Nhưng tôi thì tôi biết là ai viết bài đó, nên tôi không bao giờ rời số báo có đăng bài đó cho đến lúc nó rách tan từng mảnh trong túi tôi. Từ đó, tôi viết đều đặn trong báo Sự thật Tưve: bắt đầu là phản ánh mọi việc gì lôi thôi ở thành phố, rồi vào những đề nghiêm chỉnh hơn; cuối cùng, khi tòa soạn chú ý đến tôi, tôi được giao cho làm những phóng sự nho nhỏ về thời sự ở thành phố trong các xưởng, các nhà máy. Tôi tiếp tục học phổ thông, rồi tôi vào trường kỹ thuật công nghiệp; tôi chuyển ngành hóa học và cắm đầu vào phân tích chất lượng và số lượng. Nhưng tôi đã mơ màng tới những phòng tòa soạn phảng phất mùi mực in; trong những giờ nghe giảng, tôi viết trộm những bài báo hay những thiên phóng sự về những đề khá là xa với những đề mà giáo sư đang diễn đạt. Cứ như thế dần dần tôi đi đến làm cái nghề làm báo Xô viết, cái nghề mà tôi luôn vẫn coi như ngành văn chương nhiều hứng thú hơn tất cả các ngành khác. Báo Sự thật Tưve bấy giờ là một tờ báo rất là sinh động: Nhờ báo biết nắm lấy đúng lúc và “cho ra” cái gì có vẻ mới, hay và có giá trị trong công tác lao động xã hội chủ nghĩa ở xí nghiệp và ở thôn xóm. Làm việc báo chí, tôi quen quan sát cẩn thận, suy nghĩ về các sự việc, và chỉ viết về những vấn đề mà tôi biết thật đầy đủ. Tôi bỏ những tháng nghỉ ngơi của tôi để làm việc cho nhà báo, cố gắng lợi dụng thì giờ ấy để mà quan sát. Tấm gương huy hoàng của Goócki, mà tôi đọc tác phẩm từ bé, soi sáng đường đi cho tôi chẳng khác ngọn hải đăng. Tôi học được tinh thần quan sát là chính ở nơi ông. Một mùa hè nọ, tôi định sẽ cho tòa soạn một thiên phóng sự về những xí nghiệp làm nghề rừng và những xí nghiệp làm nghề thả bè trên sông trong vùng Tưve. Tôi đi tuốt đến quận Xêligiarốpski. Ở đó, tôi tới những xí nghiệp làm nghề rừng, tôi lên bè trôi sông và tôi làm việc ở đó, cầm tay lái, giữ tay chèo ở phía sau bè. Cứ thế là từ nguồn sông Vonga tôi xuống đến tận Calinin, rồi lại còn xuống thấp hơn thế nữa, đến tận Rưbinscơ, nơi đó kết thúc thật là mỹ mãn, lịch trình của tôi vừa lúc những bè cây cặp đúng bến. Trong khi rong ruổi như vậy, báo đăng loạt bài của tôi tựa là Trên những bè trôi sông. Tôi viết những bài đó ban đêm, gần ngọn lửa nhỏ đốt ở giữa nhà lều trên bè. Một mùa hè khác, tòa soạn báo Thôn xóm Tưve giao cho tôi làm một thiên phóng sự về tình hình chủ nghĩa xã hội thâm nhập đời sống các thôn xóm chưa tổ chức thành nông trang. Tôi đến làng Míchsina một nơi cùng tận trong tỉnh Tưve, làm nghề sắp xếp sách trong thư viện và viết một loạt bài báo về đời sống trong làng về những bước đầu tiên của lao động tập thể. Năm 1927, tập bài báo đầu tiên của tôi ra đời. Các bạn tôi trong tòa báo của thanh niên cộng sản Thế hệ trẻ không bảo gì tôi cả mà cứ gửi nó đến cho Mácxim Goócki ở Xorente. Khi hay biết được, tôi cuống cuồng cả lên. Bắt nhà đại văn hào phải mất công đọc các sáng tác chẳng ra gì mấy đó, mà tôi lại nhận thức được vô cùng rõ ràng là thật là còn non nớt, thì theo tôi thật là một việc xúc phạm. Cho nên tôi ngạc nhiên lạ lùng khi nhận được một cái gói to lùm lùm đề tên tôi, có dán tem nước ngoài, chữ viết to và cứng cáp lắm. Tự tay viết đến sáu trang giấy, Goócki nghiên cứu tỉ mỉ và rất đỗi khoan dung các tác phẩm tuổi trẻ đó của tôi. Ông khuyên tôi nên làm việc không ngừng, học tập các nhà văn cổ điển mà mài giũa văn như “anh thợ tiện mài giũa kim khí”. Bức thư ấy của nhà đại văn hào đối với tôi thật là bằng không biết bao nhiêu năm học tập. Tôi đã từng phen suy nghĩ về mỗi chữ ông viết, ra sức rút ra những kết luận đúng đắn và hữu ích. Goócki đã giúp tôi hiểu được rằng nghề làm báo và nghề viết văn là những nghề khó khăn, đòi hỏi phải học tập và lao động nhiều hơn bất cứ nghề nào khác. Tôi hiểu rằng không thể nào làm được những nghề ấy theo lối tài tử được, phải bỏ hết tâm lực vào, và chỉ có thế mới mong trở nên được một người lao động thực sự trong ngành báo chí bônsêvích. Thời ấy, tôi học xong trường kỹ thuật, vừa vào làm việc ở xưởng nhuộm, nơi in những thứ vải gọi là “vải Ấn độ”. Xưởng này là một bộ phận của nhà máy liên hợp Vô sản. Chẳng bao lâu, tôi đứng đầu một nhóm thông tín viên công nhân ở đó. Công việc của tôi ở xưởng và công tác xã hội của tôi ở nhà máy chẳng để cho tôi mấy thì giờ để làm cái việc tôi thích thú hơn cả, là làm báo. Mà sự ưa thích của tôi thì lại cứ ngày càng rõ. Cuối cùng, suy nghĩ chín chắn rồi, tôi thôi việc ở xưởng để vào làm biên tập viên tờ báo của thanh niên trong tỉnh, là tờ Thế hệ trẻ. Ở đó có một tập thể biên tập viên tốt, sau đó nhiều người đã trở nên những người làm báo có giá trị. Hoạt động thật là sôi nổi. Quỹ tờ báo nhỏ bé, rõ là không đủ cho sáu hay tám trang báo mà chúng tôi cứ hàng tuần cho ra hai kỳ. Cho nên phần chính công việc là phải do những nhà thông tín viên trẻ tuổi làm công không giúp cho. Tinh thần phát huy sáng kiến của báo đó đã khiến cho báo được từng phen khen ngợi trên những cột báo của Sự thật. Tôi đã làm việc ở tòa báo Thế hệ trẻ rồi, khi báo thôi, làm việc cho báo địa phương của Calinin là tờ Sự thật Vô sản, cứ thế không lúc nào ngừng mãi cho tới chiến tranh. Tôi viết những thiên phóng sự cùng những bài báo, và tôi phụ trách các mục kinh tế và văn hóa. Tôi được kết nạp Thanh niên năm 1930; năm 1940 tôi gia nhập Đảng Cộng sản, Nhờ trường học lớn của Đảng bônsêvích mà tôi trở nên được một nhà văn. Vừa tiếp tục cộng tác biên tập, tôi vừa viết truyện, nhưng, nghe đúng theo lời khuyên nhủ của Goócki, tôi chỉ cho đăng một phần nhỏ thôi trên báo hay trong tập niên lịch của vùng, là tập Ngày nay. Năm 1939, tập san Tháng Mười đăng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi: Xưởng nóng hổi. Tôi định cố tóm thâu trong cuốn sách đó toàn bộ kết quả của những điều tôi đã quan sát được về tình hình phát triển của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong những xí nghiệp ở Calinin và về hoàn cảnh trong đó phát sinh ra được những sáng kiến của những kẻ phát minh. Tôi đã tự mắt mình quan sát tất cả những cái đó và tôi đã viết phóng sự nhiều về việc này. Sách, sở dĩ thời ấy được đôi chút hoan nghênh, đó là nhờ trước hết ở sự vĩ đại của những sự việc mà sách viết ra, kể đến và của những con người đã là những vai chính của truyện. Tôi muốn được nhấn mạnh nhất là vào một điểm, là đề truyện và nhân vật trong truyện đều là từ trong đời sống mà lấy ra; những ai công tác từ lâu trong các xưởng chế tạo dụng cụ vận chuyển ở Calinin đều đã nhận ra ngay bạn mình trong đám nhân vật trong truyện, và, rốt cuộc, anh là vai nam chính trong truyện đã mời tôi dự lễ cưới chị là vai nữ chính. Hôm lễ, đã đùa khá nhiều về cái điều đó: chính là nhân vật trong tiểu thuyết bắt buộc phải làm cho xong hẳn công việc của tác giả, để cho tác phẩm được kết thúc có hậu, dầu không ly kỳ chi mấy. Công tác lâu năm trong báo chí đã khiến tôi viết được những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, nhưng chính công tác của tôi trong tờ Sự thật, mà tôi là thông tín viên chiến tranh khi cuộc chiến tranh dân tộc vĩ đại bùng nổ, đã là bổ ích nhất cho sự nghiệp nhà văn của tôi. Có người đôi khi hỏi tôi: - Cố nhiên là anh làm báo thành ra bị trở ngại nhiều trong công tác viết văn của anh; cái đời nhà làm báo vốn rồn rập, cứ bắt là phải viết về những đề tài nhất định phải gửi bài đến những ngày giờ hẹn trước, chẳng kể tâm tình mình mỗi lúc thế nào, rồi lại kèm vào đấy nữa là phải viết đúng là bao nhiêu hàng chữ. Những câu hỏi loạt ấy không khiến tôi khó chịu, chỉ khiến tôi buồn cười, vì chính là công tác trong báo chí bônsêvích đã đưa tôi tới con đường văn chương. Làm báo giúp tôi biết rút ra cái chủ yếu, ghi cái gì là mới, là đã cộng sản rồi trong tâm tình của những người đương thời. Là thông tín viên chiến tranh của báo Sự thật, tôi lúc nào cũng ở những điểm quyết định của mặt trận mênh mông, nơi quyết định số mạng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Tôi đã thu thập được ở đó một khối lượng tài liệu vô giá. Mọi người đã biết rằng những vai chính trong những cuốn sách của tôi: Một Người chân chính và Người Xô viết chúng ta, đều là những nhân vật có thật. Phần lớn tên thật ngoài đời thế nào, tên trong sách của tôi cũng là thế, đôi khi có thay đổi rất ít mà thôi. Ý đầu tiên của hai cuốn sách này là do ở tòa báo Sự thật mà ra. Sự việc xảy ra như thế này này. Tháng 2 năm 1942, có đăng một bài tựa là: Thành tích của Mátvây Cuzơmin. Bài ấy, tôi đã viết vội vã, sau khi đưa ma vị anh hùng ấy. Đó là chuyện một nông dân tập thể, đã bát tuần, thuộc nông trang tập thể Bình minh, trồng gai, cụ nông dân này đã lập lại cử chỉ anh hùng của Ivan Xuxanin. Bài viết vội và không có giá trị chi mấy. Lần đầu tôi ở mặt trận về, anh chủ bút báo Sự thật gọi tôi đến và trách tôi viết về một thành tích đáng kính phục như vậy một cách quá ư vội vã, y như một phóng viên nhà báo. - Thật tiếc là lẽ ra có thể kể câu chuyện này một cách khác hẳn, - anh trách tôi như vậy. Rồi, với thói quen của anh là hay tổng quát, anh nói thêm: - Tôi đã bảo tất cả các anh thông tín viên chiến tranh, và tôi xin hết điều căn dặn anh: Cứ ghi cho đầy đủ chi tiết những công trạng của những người Xô viết mà các anh có cái may mắn được chứng kiến. Đó là bổn phận công dân của các anh, và, hơn thế nữa, đó là bổn phận đảng viên Đảng Cộng sản của các anh. Nghĩ coi: trong cuộc chiến tranh này, nhân dân Liên Xô đã vượt qua về dũng cảm tất cả các vị anh hùng của tất cả các thời đại xưa cũ. Và để cho không quên chi hết về những thành tích hiển hách ấy, để cho mọi người Xô viết biết rõ đồng bào mình đã đánh phát xít như thế nào, đã thắng nó như thế nào, thì phải ghi tất cả, tất cả. Tôi liền mang theo một tập vở to, đóng bìa cứng, và tôi bắt đầu ghi vào đó thật là rành mạch địa chỉ các vị anh hùng hay những người đã chứng kiến những sự việc quan trọng, nhất là những tấm gương anh dũng mà tôi biết được. Là thông tín viên chiến tranh, tôi bay nhảy từ góc mặt trận này đến một góc mặt trận khác, khi thì tôi tới cùng quân du kích, khi thì tôi vào rừng, nơi các biệt đội nhảy dù chuẩn bị đánh chớp nhoáng phía sau lưng địch, rồi tôi lại trở về chiến tuyến ở Stalingơrát, về tuyến lồi Cuốcscơ ở Goócxun Sépchengơrat, tới sông Visla, tới sông Naixơ, tới sông Spưtê, và đâu đâu tôi cũng đã được chứng kiến cái bản lĩnh anh hùng của người Xô viết, đã làm phai mờ cả những thành tích hiển hách của các bậc anh hùng xưa: Ivan Xuxanin, Mácpha, Côgina, Côsơca người thủy thủ Xêbastôpôn, và biết bao nhiêu người nữa mà lịch sử ta, văn chương ta còn nhớ tên, nhớ tuổi. Suốt thời chiến tranh như thế là tôi đã ghi chép được sự việc về sáu mươi nhăm câu chuyện thuộc loại ấy. Một trong những câu chuyện ấy kể lại buổi gặp gỡ kỳ lạ với trung úy Vệ quốc Marétxép, phi công ở một phi trường lâm chiến, gần Oren, thời tấn công đánh lấy thành phố ấy. Đó là đề tài cuốn Một Người chân chính. Tôi đã rút ra từ những điều tôi đã ghi chép được hai mươi bốn câu chuyện tôi cho là quan trọng hơn cả, điển hình hơn cả, bộc lộ rõ hơn cả tinh thần của con người Xô viết. Và tôi đã viết thành những bài truyện ngắn, tập hợp lại trong một cuốn sách lấy tựa là Người Xô viết chúng ta. Giờ đây, xong chiến tranh rồi, tôi cứ tiếp tục làm việc theo đúng phương châm ấy, là kể những cái mà tôi đã chứng kiến. Trong truyện lấy tên là Trở về, tôi đã cố gắng trình bày bằng một hình thức nghệ thuật một mẫu đời của một anh thợ đúc nổi tiếng ở Mátxcơva. Đề tài của cuốn tiếu thuyết Vàng cũng là lấy ra từ trong đời sống thực sự: nó kết liễu vào lúc tấn công trên mặt trận Calinin, đầu năm 1942. Cái quan tâm đến sự xác thực đó, không phải là một cái gì riêng cho một mình tôi chút nào. Đời sống của chúng ta, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cứ ngày một đổi thay hoài; nó tiến lên, nó cung cấp cứ mỗi ngày, mỗi giờ, cho nhà văn những đề vừa giản dị vừa say mê, lấy ở kinh nghiệm hàng ngày thấy có. Người Xô viết, được lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản dìu dắt, đạt đến đỉnh cao của sự vĩ đại trong lao động cũng như trong chiến đấu. Những công lao cao cả làm nên vì Tổ quốc, ta cố suy diễn đặt để nó ra thì thật là rất khó, ngay đối với một nghệ sĩ có trí tưởng tượng mãnh liệt nhất. Nhưng đời sống Xô viết chúng ta thì cung cấp cho nhà văn biết bao nhiêu tâm tình thật vô cùng là phong phú. Công tác làm báo luôn luôn đưa chúng tôi tiếp xúc với những người đáng lưu ý nhất của thời buổi này, và cho phép chúng tôi được thấy những người ấy trong lao động và trong đấu tranh. Nghề làm báo khiến cho mắt chúng tôi sắc hơn, tai chúng tôi thính hơn. Riêng về bản thân tôi, thì những sự việc mà đời sống hiến dâng cho, thay thế vào chỗ trí tưởng tượng văn chương của tôi bị thiếu sót. Những nhân vật mà tôi phác họa ra, mà đời sống vượt tràn ra khỏi những trang sách của tôi, hoàn thành cái gì còn chưa hoàn chỉnh trong sách tôi: chúng tôi đã cùng nhau gặp gỡ nhau lại với anh Marétxép ở Vácxava, không phải với danh nghĩa nhân vật và tác giả tiểu thuyết, mà lần này với danh nghĩa cùng là đại biểu Liên Xô tại Đại hội thế giới lần thứ hai của các Chiến sĩ Hòa bình. Malích Gápđulin, nhân vật truyện Một anh hùng ca ra đời hiện lãnh đạo Viện Văn học trong Viện Hàn lâm khoa học nước Cadắc và chị nông dân ở Pôntava, chị Uliana Bialôgơrút, người đã cứu được lá cờ của một trung đoàn chiến xa, trong truyện Lá cờ của trung đoàn của tôi, thì sau chiến tranh đã được tặng thưởng huân chương về kết quả chị đã thu được trong vụ mùa củ cải. Được chứng kiến hạnh phúc của những con người ấy, hoạt động say mê của những con người ấy, lao động sáng tác của những con người ấy, lòng ta thật là vui sướng không cùng không tận. Làm nhà văn ở xứ sở của chủ nghĩa xã hội, là được hướng một hạnh phúc lớn lao không bờ bến. Bôris Pôlêvôi Mátxcơva Tháng 11 năm 1950Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Người Chân Chính PDF của tác giả Boris Polevoi nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Một Ngày Mưa Đẹp Trời (Eric Emmanuel Schmitt)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Ngày Mưa Đẹp Trời PDF của tác giả Eric Emmanuel Schmitt nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Một Ngày Của Ivan Denisovich (Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn)
Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1925 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông thường bị bạn bè chế diễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cách mạng, năm 1936 vào Đoàn thanh niên cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin. Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post, NewYork Times *** Tìm mua: Một Ngày Của Ivan Denisovich TiKi Lazada Shopee ... Người ta la hét, chửi bới ông, thúc vào lưng ông đòi chỗ. Pavlo nói:- Trung tá! Trung tá!Buinovski giật bắn mình, như bị đánh thức và quay lại.Pavlo đưa bát cháo cho ông, không hỏi xem ông có muốn ăn hay không.Cặp lông mày của Buinovski dựng ngược lên, hai mắt nhìn vào bát cháo như thể nhìn vào một vật lạ chưa từng thấy bao giờ.- Cầm lấy, cầm lấy, - Pavlo nói cho ông yên tâm, rồi cầm lấy bát cháo cuối cùng cho đội trưởng, đứng dậy, bước ra ngoài.Nụ cười ngượng ngập nở trên đôi môi nứt nẻ của viên trung tá, người đã từng bôn ba bốn biển, vòng quanh châu Âu và vùng cực Bắc mênh mông. Ông sung sướng cúi xuống bát cháo mạch đong vơi, loãng hoét, không một chút mỡ, chỉ có hạt mạch và nước.... Fechiukov hậm hực nhìn Sukhov và trung tá rồi bỏ đi.Theo Sukhov thì việc Pavlo cho ông trung tá bát cháo là đúng. Rồi sẽ đến lúc ông ta tự học được cách xoay xở, chứ như bây giờ ông còn ngu ngơ lắm. Sukhov còn có thêm một niềm hi vọng mỏng manh nữa: Sezar có thể sẽ cho anh bát cháo của hắn chăng?Sau khi ăn xong xuất thứ hai, Sukhov lại lấy cùi bánh vét sạch lòng bát, vừa lau vừa liếm miếng bánh, cuối cùng thì anh ăn hết miếng bánh đó. Xong xuôi anh mới bưng bát cháo đã nguội của Sezar và đứng dậy đi ra ngoài.- Mang lên văn phòng! - anh ẩy tên phạm canh bát đĩa ở cạnh cửa định không cho anh ra.Văn phòng là một cái nhà gỗ thô mộc cạnh trạm gác. Vẫn như lúc sáng, khói cuồn cuộn tuồn từ trong ống khói ngôi nhà ra. Bếp lò lúc nào cũng được một tên cần vụ kiêm tuỳ phái trông nom. Hắn được trả lương khoán để làm những việc này. Đối với văn phòng người ta không tiếc củi.Sukhov kẹt mở cửa ngoài, rồi đến một cửa nữa được nhồi kín chặt bằng những sợi đay. Anh bước lẹ vào mang theo một đám hơi nước băng giá, vội vàng sập cửa lại (kẻo lại bị la tướng lên: “Ê, đồ ngu, đóng cửa lại!”).Anh thấy trong phòng nóng như nhà tắm hơi vậy. Qua lớp băng chảy trên mặt kính cửa sổ, mặt trời vui vẻ đùa nghịch, không giận dữ như ở phía trên nhà máy điện. Và khói từ trong chiếc tẩu của Sezar nhả ra cuồn cuộn như hương trầm trong nhà thờ. Còn lò thì cháy đỏ rực, các ngài ở đây xài củi khiếp thật. Đến cả ống dẫn khói cũng đỏ rực.Nóng như thế này ngồi xuống một tí là ngủ ngay.Văn phòng chia làm hai căn. Cửa phòng của ông giám công hé mở, tiếng ông oang oang vọng ra:- Ta đã chi quá mức cho quỹ tiền lương và cho vật liệu xây dựng. Có những tấm gỗ rất quý, đây tôi còn chưa nói đến những bộ ván, tù nhân đem bổ ra chặt làm củi sưởi, thế mà các anh chẳng biết gì cả. Mấy ngày hôm nay trời gió to như vậy mà tù nhân bốc dỡ xi măng ở cạnh kho, lại còn lấy cáng mà khiêng xi măng đi đến cả chục mét. Xung quanh kho đâu cũng thấy xi măng ngập đến mắt cá chân, lúc ra về áo tù không phải màu đen nữa, mà là màu xám. Mất mát bao nhiêu các anh có biết không hả?Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Ngày Của Ivan Denisovich PDF của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.