Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trái Tim Hoang Dã

"Trái Tim Hoang Dã" là một quyển tiểu thuyết tình yêu mô tả hết sức tinh tế những rung động, đam mê và niềm khao khát yêu đương... đến tận cùng cảm xúc con người. Tác giả của Trái Tim Hoang Dã là Johanna Lindsey, nhà văn nữ nổi tiếng về tiểu thuyết lãng mạn của Mỹ. Kể từ tác phẩm đầu tiên xuất bản năm 1977 là Captive Bride được độc giả đón nhận một cách nhiệt tình cho đến nay gần 30 tác phẩm khác của bà ra đời đều là bestseller (sách bán chạy) với số lượng phát hành hơn 40 triệu bản và được dịch ra 12 thứ tiếng. Johanna Lindsey được coi là người thành công xuất sắc khi viết về đề tài tình yêu lãng mạn. Trái Tim Hoang Dã lấy bối cảnh nước Mỹ vào những năm sau cuộc nội chiến Bắc - Nam (1868) làn sóng di cư miền Nam tràn xuống miền Tây khai khẩn, xây dựng cuộc sống mới. Đây là thời kỳ của những cuộc tàn sát đẫm máu để tranh giành đất đai, cướp bó, biến một miền hoang mạc bao la không còn là miền đất bình yên của các bộ lạc da đỏ. Không chịu diệt vong, cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ, tổ tiên của người da đỏ ngày càng trở nên quyết liệt. Họ lao vào những cuộc trả thù triền miên, không khoan nhượng. Courtney, cô thiếu nữ 15 tuổi, vô cùng trong trắng, xinh đẹp, cùng cha là một bác sĩ từ Chicago xuống Texas nhận nhiệm sở. Giữa đường hai cha con đã rơi vào giữa cuộc đụng độ giữa bộ lạc Comanche trả thù chủ một trang trại – người đã cùng tham gia với một toán người da trắng vừa tàn sát dã man bộ lạc này. Courtney may mắn được một chàng trai da đỏ tha chết. Nhưng cha cô mất tích và mọi người đinh ninh ông đã bị người da đỏ giết chết. Bốn năm sau, Courtney tình cờ nhìn thấy hình cha cô lẫn trong đám đông trong một tờ báo cũ. Tin rằng cha mình còn sống, cô quyết định đi tìm. Trong khi đó, Chandos là chàng trai lai da đỏ, có đôi mắt xanh thăm thẳm với cái nhìn bí hiểm, một tay súng lạnh lùng, cừ khôi... Chandos mang trong lòng mối hận thù và ký ức đau đớn về cái chết thê thảm của mẹ và em gái trong một vụ tàn sát của người da trắng. Anh quyết tâm trả thù cho kỳ hết những kẻ tham gia cuộc tàn sát man rợ đó... Chandos trở thành người bạn đồng hành của Courtney trong cuộc hành trình băng qua những hoang mạc thuộc lãnh thổ của người da đỏ dầy rẫy nguy hiểm đến Texas tìm cha. Courtney cũng không hề biết rằng người đàn ông lạnh lùng đã nhiều lần cứu cô thoát nạn này chính là chàng trai da đỏ cách đây 4 năm đã tha mạng cho cô. Một chuyến đi đầy thử thách của một cô gái trong sáng, xinh đẹp và tự trọng cùng chàng trai hoang dã kiêu hãnh và đầy lòng thù hận. Tình yêu chính là thử thách nghiệt ngã nhất giữa hai con nguời bướng bỉnh đó. Họ vừa phải đương đầu với hiểm nguy luôn rình rập vừa phải đối phó với chính niềm đam mê và mâu thuẫn của bản thân để không làm tổn thương nhau... *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu Nơi Em Thuộc Về Trái Tim Hoang Dã Yêu Lầm Anh? Tình Yêu Tìm Thấy The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Kansas năm 1868, ba năm sau nội chiến Hoa Kỳ, Elroy Brower bực tức dằn ly bia xuống. Tiếng ồn ào trong quán làm hắn không hưởng được trọn vẹn người đẹp đang ngồi trên đùi hắn mà hắn thì ít khi với được một của quý như ả Sal béo này – nàng nghiêng người qua thì thầm vào tai hắn, giọng ngọt lịm: - Sao cưng không lên trên kia, chỉ có mình ta thôi. Hắn ngoái mình ra cười trước viễn ảnh của những giờ khoái lạc. Hắn muốn giành ả trọn đêm nay. Ở thị trấn Rockley, gần khoảnh trại của hắn, chỉ có một mụ điếm già gầy đét, đâu có "mát tay" như Sal béo của gã đêm nay nên hắn thầm cảm ơn Chúa đã với được của quý trong chuyến đi Wichita lần này Thế mà cái tiếng giận dữ của gã trại chủ nào đó cứ dội vào tai hắn. Elroy nhớ lại qua giọng nói của người chủ trại chăn nuôi tên Bill Chapman, có trại ở phía bắc quán này một chút và ông ta đang tìm người để cùng đi lo về chuyện "bọn da đỏ đang hoành hành trong vùng" Elroy giật mình khi nghe đến hai tiếng "da đỏ" dù hắn chưa bao giờ gặp rắc rối với họ. Hắn chỉ mới đến Kansas gần hai năm trước, nhưng khoảnh trại của hắn dễ bị tấn công lắm. Trại hàng xóm gần nhất cũng cách hắn gần hai cây số. Và Elroy chỉ lại có một mình cùng với người thợ làm thuê cho mỗi mùa gặt. Vợ hắn chết ngay vào tháng thứ sáu khi họ đến Kansas Kể riêng một mình Elroy, lẽ ra chẳng phải lo lắng hắn là người cao hơn hai thước, to như thùng dầu hai trăm lít, đủ bảo đảm vượt khó khăn trong cuộc đời, trừ khi hắn muốn gây sự. Nhưng lúc này Elroy đang lo lắng vì cái bọn "mọi rợ" kia đang tìm cách tràn vào vùng này để xua những "người hiền lành, kính Chúa mới định cư vào vùng này". Cái bọn đó là dân "chơi không đẹp" và nhiều chuyện kể làm cho Elroy thấy ớn lạnh. Người ta đã cảnh cáo hắn đi quá gần vào vùng lãnh thổ phân chia cho người da đỏ gọi là "Biệt khu da đỏ", hay đúng hơn là một vùng bao la, trơ trụi nằm giữa Kansas và Texas. Cái khoảnh trại của Elroy lại chỉ cách đường biên Kansas có ba mươi dặm và khốn nỗi, đó là vùng đất tốt, nằm ngay giữa hai con sông Arkansas và Walnut. Khi chiến tranh phân ly chấm dứt, Elroy vẫn nghĩ rằng quân đội sẽ chận đứng và buộc được "bọn da đỏ" ấy quay quần trong cái phần đất phân chia cho họ mà thôi. Thực tế khác hẳn. Quân đội không thể chận đứng khắp được và khi cuộc nội chiến chấm dứt, thì cuộc chiến của người da đỏ lại dâng lên cao điểm. Họ không giao nộp những phần đất mà tổ tiên họ, luôn nghĩ là của người da đỏ Hai ngày trước khi đến Wichita, Elroy đã phát hiện ra một nhóm nhỏ người da đỏ qua ranh đất của hắn đi về phía nam. Elroy lo lắng, đi theo tám người từ khoảng cách xa cho đến ngã ba sông Arkansas – Ninnescah. Ở đây đã có chừng mười chiếc tàu tepee dựng lên ven song Arkansas và Elroy còn thấy hơn chục gã trai khác, cùng với phụ nữ, trẻ con ra vào như một ngôi làng của họ từ lâu rồi Nằm quan sát cái làng ấy cũng đã làm cho Elroy thấy máu muốn đông lại trong người hắn: Đây là nhóm dân Kiowa hoặc Comanche và họ chỉ ở cách trại của hắn vài giờ đi ngựa Khi đến Wichita, hắn đã kể chuyện này khắp thị trấn và bây giờ gã Bill Chapman lại đang khuấy động những người khách cố hữu của quán rượu này. Chapman đã rủ được ba ông khách rượu và sáu tay chăn bò ... ra đi. Một khách rượu lại nêu ra rằng hai chàng phiêu bạc thích "giết tụi nó" và họ đang đi tìm hai chàng đó ở các sòng bài Bill Chapman kể đến lực lượng mình đã có và liếc mắt nhìn Elroy nãy giờ hậm hực lắng nghe - Còn anh thì sao? Anh bạn ... đi với tụi này đi? Elroy xô Sal béo khỏi đùi mình, nắm lấy cánh tay ả mà kéo tới gần chỗ Chapman - Sao các anh không để bên quân đội họ săn bọn nó? Lão chủ trại cười nghiêng ngả - Để cho quân đội họ tống chúng về vùng đất tự trị ư? Thật chẳng công bằng chút nào! - Cách hay nhất để buộc tên da đỏ không ăn cắp của bạn lần thứ hai là cho nó một con dao. Cái lũ Kiowa này đã hạ của tao hơn mười lăm con bò và cuỗm đi cả chục con ngựa ngoại hạng của tôi tuần trước. Chúng móc túi tôi nhiều lần rồi đấy. Tao phải chặn chúng lại Và cặp mắt sắc của gã nhìn xéo Elroy - Đi nhé? Một cái nhìn lạnh buốt dọc xương sống Elroy. Mười lăm con bò bị hạ. Hắn chỉ có hai con bò đực và gà quê không đủ cho bọn chúng quét. Một ngày không có bò thì cuộc đời hắn tiêu ma. Nếu mấy tên Kiowa ghé thăm là hắn hết đời. Elroy nhìn chằm chằm vào Chapman - Hai ngày trước tao đã theo bọn chúng. Chúng đã dựng trại ở ngã ba sông Arkansas – cách trại tôi chừng mười tám cây số. Nghĩa là cách đây khoảng ba mươi cây số nếu ta đi theo đường sông - Chết thật! Sao anh không nói. Có lẽ chúng là bọn chúng ta đang theo dõi đấy. Ấy, chúng đi mau thế. Bọn quỷ đó đi nhanh hơn tôi tưởng. Có đúng là bọn Kiowa không? Elroy nhún vai: - Tao trông bọn nào cũng vậy. Bọn này không đi ngựa. Nhưng ở trại tụi nó có chừng bốn mươi con - Anh dẫn tụi tôi đến trại tụi nó nhé? Elroy cau mày - Tao mang bò đi để mua máy cày về. Tao không mang theo ngựa. Thế ... làm các ông đi chậm lắm - Tao thuê ngựa cho mày - Nhưng còn bò của tao - Tao trả tiền cho mày gửi lại đây. Sau đó mày trở lại lấy, được chứ? - Bao giờ các ông đi? - Đầu giờ sáng mai ... Nếu ta không đi gấp và nếu chúng còn ếm ở đó, thì ta bắt kịp chúng vào giữa trưa Elroy nhìn Sal béo đang ngoác miệng ra cười ... Chapman đi ngay nghĩa là hắn phải mất buổi tối nay với ả Sal béo thì "xin ngài ..." Nhưng sáng mai ... -Kể như là có tao và anh chàng gặt thuê cho tao nữa ... Mời các bạn đón đọc Trái Tim Hoang Dã của tác giả Johanna Lindsey.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thằng Cười - Victor Hugo
Bộ tiểu thuyết Thằng cười của Victor Hugo đưa chúng ta đến với nước Anh của thế kỷ XVII, chủ yếu dưới các triều đại của dòng họ Xtiua. Giắc II và Annơ Xtiua. Victor Hugo đã đưa vào Thằng cười không biết bao nhiêu chi tiết lịch sử có thật của nước Anh thời bấy giờ với tên tuổi các ông vua, các nữ hoàng, nữ công tước, các vị nguyên lão, miêu tả tỉ mỉ chốn cung điện, các nghi thức triều đình... với một bút pháp độc đáo tài tình.  *** Ở nước Anh, mọi thứ đều phi thường kể cả cái không tốt, kể cả chế độ đại tộc. Giai cấp quí tộc của Anh mới thật sự là giai cấp quí tộc, trong ý nghĩa tuyệt đối của từ ngữ đó. Không có chế độ phong kiến nào nổi tiếng hơn, khủng khiếp hơn và tồn tại dai dẳng hơn. Chế độ phong kiến ấy đã có tác dụng ở thời điểm của nó, chúng ta phải công nhận điều đó. Hiện tượng ấy, hiện tượng Lãnh quyền, cần được nghiên cứu ngay trên đất Anh, cũng như hiện tượng Vương quyền phải được nghiên cứu ngay trên nước Pháp. Lẽ ra nhan đề thật sự của cuốn sách này là Chính thể quí tộc. Một cuốn khác tiếp theo có thể lấy nhan đề là Chính thể quân chủ. Cả hai cuốn đó, nếu tác giả hoàn thành được, sẽ ra trước và sẽ dẫn theo một cuốn khác nhan đề: Chín mươi ba. *** Uyêcxuyt và Ômô gắn bó với nhau bởi một tình bạn thắm thiết. Uyêcxuyt là một con người, Ômô là một con sói. Đôi bên rất tâm đầu ý hợp. Chính con người đã đặt tên cho con sói. Cũng có thể chính ông ta đã tự chọn lấy tên; thấy Uyêcxuyt hợp với mình, nên ông thấy Ômô rất hợp với con vật[3]. Việc kết bạn giữa người này và sói nọ rất có lợi, ở các phiên chợ, ở các hội hè của giáo khu, ở các góc đường có nhiều người qua lại tụ tập, và ở nhu cầu của dân chúng đứng đâu cũng muốn nghe những chuyện lăng nhăng, ngồi đâu cùng muốn mua những thuốc nhảm nhí. Quần chúng rất thích con sói ngoan ngoãn và biết phục tùng một cách rất dễ thương. Còn gì thú vị bằng được xem những trò luyện thú. Thoả mãn nhất là khi chúng ta được nhìn tất cả các kiểu thuần hóa súc vật diễn ra trước mắt. Chính vì vậy mà trên đường đi qua của những đoàn tùy tùng nhà vua, có nhiều người như thế. Uyêcxuyt và Ômô đi hết ngã tư này đến ngã tư khác, hết các quảng trường Aberixuyt đến các quảng trường Yetbua, hết xứ này qua xứ nọ. Hết lãnh địa nọ sang lãnh địa kia, hết phố phường lại đến thị trấn. Chợ này vãn, thầy trò sang chợ khác. Uyêcxuyt ở trong một cái chòi lưu động, được Ômô, khá văn minh, kéo lệch xệch ban ngày và ban đêm thì canh gác hộ. Ở những đoạn đường khó đi, gặp những đoạn dốc, khi có nhiều vết xe quá và có nhiều bùn quá, người lại đóng đai lên cổ và thân mật sát cánh cùng sói kéo xe. Cứ như thế cả hai cùng già đi. Thầy trò gặp đâu cắm lều đó, trên một bãi hoang, ven một trảng trống, giữa giao điểm của đường sá, ở cổng vào thôn xóm, ngay các cửa ô, trong những đình chợ, giữa đường dạo mát, rìa các công viên, trên sân nhà thờ. Khi các xe dừng bánh ở một bãi chợ phiên nào đó, khi các mẹ há mồm đổ xô đến, khi những kẻ tò mò xúm đen xúm đỏ, Uyêcxuyt lại cất tiếng ba hoa, Ômô lại tán thành. Mõm ngậm một cái bát gỗ, Ômô lễ phép đi xin tiền khán giả. Thầy trò cứ thế kiếm sống qua ngày. Sói biết chữ, mà người cũng biết chữ. Sói được người huấn luyện, hoặc tự luyện lấy một mình, làm được nhiều trò sói rất dễ thương, góp thêm phần thu nhập - Cốt nhất chú mình đừng có thoái hóa thành người đấy - ông bạn nói với nó như thế. Sói không bao giờ cắn, nhưng người thì cũng thỉnh thoảng. Ít ra, cắn là ước vọng của Uyêcxuyt. Ông vẫn là một người yếm thế, và để tỏ rõ tính yếm thế của mình, ông đã chọn lấy cái nghề múa rối. Cũng cốt là để kiếm sống vì dạ dày hay áp đặt điều kiện của nó. Hơn nữa ông già yếm thế múa rối này, hoặc để cho mình thêm khó hiểu, hoặc để cho mình được thật hoàn chỉnh. Còn làm thêm nghề thầy thuốc. Bảo là thầy thuốc cũng chưa hết đâu. Uyêcxuyt còn nói được giọng bụng. Người ta thấy ông nói ra nhưng mồm thì lại không mấp máy. Ông bắt chước được giọng nói và cách phát âm của bất cứ ai, người nghe rất dễ lầm; ông giả giọng mà cứ tưởng như có người nói thật. Một mình ông có thể làm được đủ tiếng rì rầm của cả một đám đông, vì vậy ông được tôn là thầy nói bằng bụng. Ông nhận luôn danh hiệu đó. Ông có thể bắt chước đủ mọi tiếng chim, họa mi, cun cút, sơn ca mà người ta còn gọi là bêghinet, sáo yếm trắng, tất cả các loại hay đi lang bạt như ông; thành thử, chốc chốc tùy ý ông, ông lại cho ta nghe một quảng trường đầy tiếng người xôn xao, hoặc một cánh đồng ồn ào tiếng súc vật; lúc thì náo nhiệt như một đám đông, lúc thì nhẹ nhàng, yên tĩnh như giây phút bình minh. ... Mời các bạn đón đọc Thằng Cười của tác giả Victor Hugo.
Vẽ Em Bằng Màu Nỗi Nhớ - Tâm Phạm
Câu chuyện là hồi ký của nhân vật Khanh trong khoảng thời gian quay trở lại Việt Nam đan xen cùng những ký ức của 6 năm trước đó. Tại Sài Gòn, Khanh đã gặp lại Linh - người con gái của miền ký ức và Miu - cô gái tưởng như xa lạ mà thân quen. Độc giả có thể tò mò về Miu, nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng luôn mang theo một điều bí ẩn về thân phận và cách ứng xử lạ lùng. Chỉ bởi Khanh không nhận ra cô sau 6 năm gặp lại mà Miu đã quyết tâm lên kế hoạch khiến Khanh nhận ra con người và tình cảm của mình. Cùng với đó là sự xuất hiện của Linh, người con gái gắn liền với ký ức về khoảng thời gian 3 năm trước khi rời Việt Nam của Khanh. Yêu và dành trọn tình cảm cho Linh, nhưng Khanh nhận lại chỉ là tình cảm bạn bè và một trái tim tan nát bởi trong lòng Linh luôn có hình bóng của người con trai khác. Sau khi Khanh ra đi trong đau đớn thì Linh đã nhận ra tình cảm thực sự của mình. Khoảng thời gian 6 năm đã thay đổi nhiều thứ, Khanh giờ đây đã là một kỹ sư trưởng thành và chững chạc hơn xưa. Đối mặt với một Linh tình cảm nồng nàn đợi chờ và một Miu bí ẩn luôn quan tâm, chăm sóc, Khanh vẫn luôn giữ đúng chừng mực. Điều bất ngờ xảy ra trong ngày sinh nhật của Linh và Miu, như giọt nước làm tràn ly, Miu đã khiến Khanh tự nhận ra thân phận thật của mình là cô bé Trinh thân thuộc và bộc lộ tình cảm bấy lâu dành cho Khanh. Sự thật này làm cho Khanh phải bất ngờ không chỉ bởi sự thay đổi về ngoại hình của Trinh mà Khanh còn phát hiện ra rằng tình cảm từ trước đến nay dành cho ai. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng của Khanh đều khiến mọi người phải ngỡ ngàng. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống thường ngày của những thanh niên trẻ trung và năng động, về tình yêu, tình bạn, tình cô trò và tình thân gia đình với nhiều cung bậc cảm xúc từ hài hước đến tò mò, đôi khi là những giọt nước mắt đầy xúc động. *** - Cho con một tô đặc biệt nhe cô. Sau bao nhiêu năm trở lại đây, mọi thứ vẫn không hề thay đổi gì nhiều. Vẫn con đường nhỏ vào khu chợ Việt Kiều, vẫn dòng người qua lại mua bán tấp nập, lũ trẻ trong xóm vui đùa cùng nhau một cách hồn nhiên. Tôi đang ngồi trong một quán hủ tiếu nhỏ, cái nơi mà nó đã từng gắn liền với tuổi thơ. Là những lúc phải ăn hủ tiếu vì chán cơm thèm phở theo đúng nghĩa đen của nó, là những lúc không cơm nhà vì mẹ bận, là những lúc hội hợp bạn bè và …là những lúc mà cái quán nhỏ này trở thành nơi để lại trong tôi nhiều kỷ niệm vui buồn về tình yêu đầu của tuổi học trò. Vừa ăn vừa hổi tưởng lại nhưng ký ức đã qua, thoáng chốc mà đã gần hết tô hủ tiếu. Cái hương vị của bò viên hòa quyện vào nước lèo thật đậm đà khó tả. Tôi đã từng tìm đến rất nhiều nhà hang ẩm thực Việt tại các tiểu bang Hoa Kỳ chỉ để có được cái hương vị này, hương vị món ăn của quê hương. Đang say sưa với tô hủ tiếu thân yêu, bỗng ngoài cửa, một người con gái xuất hiện. Sẽ chẳng có gì lạ khi một đứa con gái bước vào một quán hủ tiếu. Điều khiến tất cả các gã đàn ông trong quán phải ngưng đũa và ngoái nhìn là vì cô ấy quá nổi bật, một vẻ đẹp kiêu kỳ hút mọi ánh nhìn, ở cô ấy toát lên một sự cuốn hút kỳ lạ. Cùng với chiếc váy trắng bó sát và giày cao gót, làm tôn lên một thân hình hoàn hảo với ba vòng cân. Nước da trắng hồng cùng mái tóc dài được búi cao lên, đúng là người con gái trong mơ của bất cứ gã đàn ông nào. Tôi nghĩ thầm trong bụng, có lẽ em là diễn viên hay người mẫu gì đây. Chả trách nhìn khuôn mặt rất quen, cứ như từng đóng trong một bộ phim nào đó mà tôi đã xem dù vẫn còn đó cặp kính đen trên đôi mắt. Bỗng định thần lại, tôi quay lại với tô hủ tiếu đã sắp nguội của mình và tiếp tục ăn ngon lành. Thình lình có tiếng kéo ghế, một ai đó vừa ngồi vào bàn của tôi theo hướng đối diện. Ngước mặt lên thì chính là cô ấy, tôi nhìn cô ấy và tỏ vẻ hơi bất ngờ vì trong quán vẫn còn nhiều bàn trống mà. Và nếu là một người lịch sự thì ít nhất cũng nên hỏi tôi một tiếng xem có thể ngồi cùng bàn hay không chứ. Nhưng thôi, tôi cũng không quan tâm lắm và tiếp tục sự nghiệp ăn uống của mình. Lâu lâu tôi lại ngước lên thì thấy cô ấy vẫn lặng yên ở đó và nhìn về phía tôi, thật ra thì tôi cũng không dám chắc là sau cặp kính đen ấy, cô ấy đáng nhìn về phía nào. Tự nhiên cảm thấy một chút bối rối và hơi bất an. - Cho con một ly cafe sữa đá nhe dì! – Một giọng nói thánh thoát từ cái miệng nhỏ xinh phát ra, cô ấy thao kính đen, tay vẫy gọi bà chủ quán. Cặp mắt long lanh ấy thật đẹp, nhin rất cuốn hút và vô cùng thân quen. Bây giờ thì tôi có thể tin rằng mình đã từng thấy cô ấy ở đâu đó trên tivi. Thở phào một cái và tiếp tục với tô hủ tiếu của mình, không khí nghiêm trọng nãy giờ mới được giải phong bớt khi cô ấy đặt chiếc kính lên bàn. Nhưng tính tôi khá khó chịu khi phải ngồi ăn chung bàn với một người không quen biết, vì đôi lúc tôi ngước nhin lên ngắm cảnh vật xung quanh thì lại đối mặt với người ngồi đối diện. Ngày xưa, vào những trường hợp thế này tôi thường cắm cuối ăn cho nhanh rồi tính tiền ra về, không thể ngồi lâu thưởng thức món ăn và ngắm nhìn cảnh vật phố phường. Nhưng hôm nay thì khác, có lẽ là một ngoại lệ. Đối diện tôi là một cô gái với vẽ đẹp sắc sảo, lạnh lung, không để ý đên một ai xung quanh. Thể loại này thường bị cho là chảnh, cũng đúng thôi, người ta đẹp thì người ta có quyền mà. - Nước của con đây. – Bà chủ quan nói với cô ây. ... Mời các bạn đón đọc Vẽ Em Bằng Màu Nỗi Nhớ của tác giả Tâm Phạm.
Cố Đô - Yasunari Kawabata
Tác phẩm xuất sắc nhất của Kawabata, tiểu thuyết Cố đô kể về cô gái trẻ Chieko, một đứa trẻ bị cha mẹ nghèo xơ xác bỏ rơi và được gia đình thương gia Takichiro nhận nuôi, ở đây cô được nuôi nấng dạy dỗ theo những nguyên tắc truyền thống của Nhật Bản. Chieko là một cô bé nhạy cảm, trung thành, nhưng thầm ấp ủ câu hỏi về thân thế của mình. Ở Nhật Bản, người ta cho rằng một đứa trẻ bị bỏ rơi sẽ khổ ải với tai ương suốt đời, thêm vào đó, theo một quan điểm hết sức lạ lùng của Nhật Bản, trẻ sinh đôi còn chịu sự nhục nhã đáng xấu hổ. Một ngày nọ tình cờ cô gặp một cô gái lao động xinh đẹp trong rừng tuyết tùng gần thành phố và phát hiện ra rằng cô là người em song sinh của mình. Họ gắn kết sâu sắc với nhau vượt qua hàng rào giai cấp xã hội - cô gái thô kệch, làm việc nặng nhọc Naeko và cô gái thanh nhã, luôn được bảo vệ cẩn mật Chieko, nhưng sự giống nhau lạ lùng giữa họ đã mau chóng làm phát sinh rắc rối, phiền toái. Toàn bộ câu chuyện được đặt trong bối cảnh năm lễ hội tôn giáo ở Kyoto từ mùa xuân anh đào nở rộ đến mùa đông lấp lánh tuyết. Cố đô là một trong ba tác phẩm của Yasunari Kawabata được Ủy Ban Giải Thưởng Nobel dẫn chứng khi tặng giải, có cốt truyện phức tạp liên quan tới một cặp chị em song sinh, đã bị chia cách từ lúc mới chào đời nhưng các yếu tố khiến cho các nhân viên cứu xét Giải Thưởng Nobel phải quan tâm, là do tác phẩm đã nói lên các vẻ đẹp của Thành Phố Kyoto và các truyền thống cổ, với các phụ nữ Kyoto còn giữ các vẻ duyên dáng, không bị nền văn hóa phương Tây làm biến chất. Cùng với phần lớn du khách, Kawabata ước muốn rằng lối sống cổ truyền Nhật Bản vẫn được duy trì. Bản thân thành phố thật sự là một nhân vật quan trọng, thủ đô của vương quốc xưa, từng là nơi đóng đô của Thiên hoàng và triều đình, sau hàng ngàn năm vẫn là một thánh địa lãng mạn, quê hương của mỹ thuật và hàng thủ công trang nhã, ngày nay tuy bị khai thác cho du lịch nhưng vẫn là địa điểm thăm viếng được ưa chuộng. Với các chùa chiền phật giáo và các đền thờ Thần đạo, khu thủ công xưa và vườn thực vật, nơi này mang trong nó chất thơ mà Kawabata thể hiện bằng một phong cách dịu dàng, nhã nhặn, không ủy mị mà tự nhiên như một sự hấp dẫn đầy xúc động. Ông đã sống qua thất bại nặng nề của đất nước và nhận thức chắc chắn rằng tương lai đòi hỏi những gì về tinh thần cầu tiến, nhịp điệu và sức sống công nghiệp. Nhưng trong làn sóng hậu chiến của sự Mỹ hóa mạnh mẽ, tiểu thuyết của ông là lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự cần thiết cứu lấy một cái gì đó trong vẻ đẹp và cá tính của Nhật Bản xưa cho một nước Nhật Bản mới. Ông mô tả những lễ nghi tôn giáo ở Kyoto một cách tỉ mỉ như thể chọn mẫu hoa văn trên khăn thắt lưng truyền thống trong trang phục phụ nữ. Những khía cạnh này trong tiểu thuyết có thể có giá trị tài liệu, nhưng độc giả thích thú với những đoạn mô tả sâu sắc như vậy như đoạn tả nhóm người trung lưu của thành phố thăm viếng vườn thực vật - vốn bị đóng cửa một thời gian dài vì lính Mỹ chiếm đóng lập doanh trại ở đó - để nhìn xem những con đường đáng yêu với hàng cây long não có còn nguyên và có thể làm vui sướng những con mắt thành thạo hay không. Với Kawabata, lần đầu tiên Nhật Bản bước vào thế giới những người đoạt giải Nobel văn chương. Điều cốt yếu dẫn đến quyết định này là, với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có tính thẩm mỹ và đạo đức cao (moral-esthetic cultural awareness) bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông Tây theo cách của ông. *** Chieko để ý thấy những đóa hoa tím đã nở trên cây phong. - Ôi cả năm nay nữa chúng cũng nở kìa? - Hơi thở mùa xuân mơn trớn thoảng vào Chieko. Trong khu vườn nhỏ bé cây phong hóa ra đồ sộ, thân nó to ngang hơn chính Chieko nhiều lắm. Nhưng lẽ nào có thể đem cái thân cây đầy rêu, phủ lớp vỏ chai sần, nứt nẻ, sánh với thân hình con gái của Chieko... Vừa đúng ngang tầm eo lưng, cây phong hơi vẹo về bên phải, rồi đến đoạn cao hơn đầu nàng lại thoắt vươn sang phải thành một vòng cung mà chính từ khúc cong này cành tỏa ra mọi phía, che phủ cả khu vườn. Những cành dài trĩu xuống vì sức nặng bản thân chúng, chạm đầu cành tới đất. Dưới chỗ thân cây đột ngột uốn cong một chút là hai hốc lõm con con, nơi những cây hoa tím mọc. Cứ xuân sang chúng lại trổ hoa. Trong chừng mực mà Chieko còn nhớ được thì trên thân cây vốn bao giờ cũng có hai khóm hoa. Khóm trên cách khóm dưới một khoảng trọn một xiaku 1. Khi đã là cô gái trưởng thành, Chieko thường hay tư lự: liệu có khi nào hai cây hoa tím trên dưới gặp được nhau không? Liệu chúng có biết đến sự tồn tại của nhau không? Nhưng với chúng thì các chữ "gặp", "biết" mang được ý nghĩa gì kia chứ?... Hoa nở không nhiều - thấy chỉ ba đến năm vành hoa nhỏ là cùng. Nhưng dù sao cứ xuân sang, trong hai hốc nhỏ bé trên thân cây phong, chồi mới lại nhú lên, hoa lại nở. Chieko thường ngắm hoa từ chỗ lối đi, hoặc khi đứng trước gốc cây. Nàng nhìn chúng, mắt ngước từ khóm dưới lên khóm trên mà lòng bồi hồi, lúc lấy làm ngạc nhiên cho "kiếp sống" khác thường ấy của loài hoa tím, lúc cảm thấy một cảm giác cô đơn đôi khi đến lạ. - Chính đây là nơi chúng đã lớn lên...Rồi sống...- nàng thầm thì. Khách khứa đến cửa hàng vẫn tỏ vẻ thán phục cây phong nhưng hầu như chả có ai để ý thấy những cây hoa tím đang khiêm nhường trổ hoa. Cái cây cổ thụ làm người ta kinh ngạc bằng sức mạnh của mình, mà khúc thân mọc điểm rêu xanh gợi ra sự nể trọng và tạo thêm cho cây phong một nét mỹ cảm riêng. Hai khóm hoa tím nhỏ nhoi, nương náu trên đó, dường như lu mờ hẳn trong khúc ngợi ca sự hùng vĩ và vẻ đẹp kia. Mời các bạn đón đọc Cố Đô của tác giả Yasunari Kawabata.
Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà - Nguyễn Đức Thiện
NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: .Viển vông quá phải không anh. Ngày mai em có thể chắng còn gặp anh nữa. Ngày mai có thể anh, có thể em sẽ là người của thiên cổ (Cũng sắp rồi còn gì). Ngày mai, có thể sẽ ngưng lại tất cả chấm dứt vòng quay trái đất… Thì em cũng cảm ơn anh đã trả cho em một chút tuổi trẻ. Cũng như anh đã từng cảm ơn em cho anh biết lại một thời nồng nàn. Chỉ nên thế thôi, cho ngày mai còn có mơ ước. Dẫu có muộn màng Đừng hôn em nữa, đủ rồi" NGƯỜI ĐÀN ÔNG NGHĨ: Nhưng không có sự đam mê của người thì sao? Ta sẽ đam mê một mình. Ta cứ mê ta. Một mình thôi, để chẳng làm phiền ai, và cũng chẳng ai làm phiền mình. Có vậy thì ta mới sống. Hãy cứ tin ở ta cái đã. NGƯỜI ĐÀN BÀ VIẾT: Nghe chuyện người ta đã khóc. Khóc vì một nỗi bất hạnh. Người đàn bà cô đơn, yêu cho đến chết một người không bản lĩnh. Giống như ta, đã một thời như thế. Người đàn ông ấy chỉ dám yêu mình không dám làm gì, chẳng dám vượt qua một chút trở ngại của cuộc đời. Họ sống hạnh phúc bên vợ và yêu hạnh phúc một người đàn bà khác. Họ lãng mạn và yếu hèn. Người đàn ông ấy hiền lành và không xứng đáng với một nửa trái tim ta. Bất chợt từ cõi lòng ta một nỗi chán chường đến kinh khủng, ta muốn từ bỏ hết thảy mọi người. Đừng ai yêu ta. Lũ đàn ông rồi sẽ phản bội. Ta thích một mình...)​ *** Bây giờ thì ông chỉ còn có một mình. Một mình trong căn nhà bé như cái hộp diêm quẹt. Bà ấy không đến, và ông cũng không đi tìm bà. Giữa hai người đã một lần, và chỉ có một lần bừng cuộn lên, nhưng rồi lại lắng xuống một hòn đá làm cho nó cuộn lên, nhưng khi những vòng tròn xoáy nước khép lại, thì mặt ao lại phẳng lặng như tờ. Lâu lâu có ngọn gió thổi qua, mặt ao dềnh lên chút ít nhưng cũng đủ gợn lên những con sóng, nhấp nhô, nhấp nhô. Ông thắp nhang lên bàn thờ. Mỗi ngày ông thắp một nén, loại nhang thơm. Không biết có khi nào ông có thể quên thắp nhang không. Nhưng đã thành quen rồi, đêm khi đi ngủ ông không thể thiếu mùi nhang toả ra từ trên bàn thờ. Có những lúc ông nghĩ, ông đang thắp nhang cho chính mình. Lại có lúc ông tưởng như thắp nhang cho một mối tình tưởng còn mà mất, tưởng mất mà còn và tưởng có mà không. Một đời người chỉ thế thôi ư. Ngày nào còn tươi trẻ là thế, nay đã nắng quá chiều hôm. Gắt gao đấy nhưng ngày đang tàn dần. Ông nhớ bà, nhưng hình như cái nhớ nó cũng khác ngày xưa khi còn trẻ. Khi còn trẻ, nhớ ai thì nhớ cồn cào, da diết và chỉ có nhớ người đó mà thôi. Nay nỗi nhớ cứ bị xen vào bởi những suy nghĩ khác. Nhớ mà chẳng đắm đuối chút nào. Nó cứ vẩn vẩn, vơ vơ, không như thời trai trẻ. Thèm gặp đấy nhưng rồi chợt nghĩ đến chuyện khác thế là lại quyên. Nhớ cũng vô tình mà nhớ, và quên cũng vô tình quên. Khi không lúc này mà còn gặp nhau. Trời sắp đặt đấy. Chớ cái tuổi ăn phải cái gì cưng cứng là phải trệu qua, trạo lại, mấy ai còn nghĩ đến chuyện yêu đương. Vây mà yêu đương mới lạ. Bữa đó, ông buồn, ông cô đơn. Đâu có phải đến khi đó ông mới buồn, mới cô đơn. Lần cuối cùng ông có gia đình cách nay đã hơn mười năm. Sau một cuộc cãi lộn vối người đàn bà mà ông để gần hết một đời người cung phụng, ông đã ra đi. Cuộc cãi lộn không lớn nhưng ông bị xúc phạm. Người ta biểu rằng ông chỉ là thứ người vô tích sự. Người ta biểu ông không lo toan được gì cho gia đình, cả một đời ăn bám. Ông đã ra đi sau một đêm trằn trọc. Và cuối cùng thì người ta ném vào mặt ông một câu: ông bây giờ thừa ra rồi. thì ông đi, ông tự cắt bỏ sự thừa thãi là mình, ra khỏi cái nơi một thời ông gắn bó, giống như người ta tự nguyện lên bàn mổ, cắt đi khúc ruột dư ra khỏi cơ thể mình. Không lẽ ngồi để mà kể ra với người đàn ông đã làm ra những cái gì cho gia đình tồn tại ngần ấy năm trời. Đi với hai bàn tay gần như trống trơn. Bạn bè chỉ cho ông một căn phòng nhỏ, vốn là nhà tập thể ở một cơ quan nào đó. Ông bỏ những đồng tiền cuối cùng để mua căn phòng và làm lại từ đầu trong căn phòng chỉ có mười sáu mét vuông kia. Làm lại từ đầu cho riêng mình thôi, chớ chẳng dại dột gì mà kháp với người đàn bà khác. Đàn bà họ có thế mạnh của họ. Thường trong những cuộc tình, lúc ban đầu thì quến rũ là của đàn ông, quyến rũ xong, quyền chủ động bắt đầu chuyển sang cho đàn bà. Người đàn bà muốn sờ mó đến từng công việc dù là rất nhỏ của của người đàn ông. Họ cho họ cái quyền như vậy. Anh đi đâu? Anh làm gì ở chỗ nào? Lương anh có bao nhiêu. Anh mang làm gì nhiều tiền trong túi thế? Sao người ta điện cho anh ngoài cơ quan mà không thấy, giờ đó anh làm gì ở đâu?… Hằng trăm câu hỏi mỗi ngày. Trả lời kiểu nào cũng không thoả mãn được người hỏi. Khi im đừng trả lời nữa cũng không được. Người ta sẽ biểu: làm sao tôi có thể sống được trong căn nhà cứ im lặng như nhà mồ thế này. Có người mong chế ra được một sợi chỉ vô hình, cột vào chân người đàn ông, để đàn ông đi đâu, đàn bà cũng có thể tìm thấy được nhờ sợi chỉ đó. Nên ông thề cuối đời ông sẽ ở một mình, nhất định là một mình, mấy đứa con gả vợ, dựng chồng hết rồi. Một lũ cháu nội ngoại lúc nào thích thì đến thăm ông, không thích thì thôi. Nhà cửa tài sản ông đã để lại hết, không đòi cho mình cái gì, từ chối luôn phần thừa kế, khiến ông chẳng còn nợ ai và cũng chẳng bắt ai phải nợ gì. Có người khuyên ông ly hôn để để tạo dựng cuộc sống khác, ông cười: ngần này tuổi rồi, đưa nhau rồi ra toà giống con nít bày đặt chuyện làm nư quá. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Ông và Những Người Đàn Bà của tác giả Nguyễn Đức Thiện.