Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Câu Chuyện Kỳ Thú Trong Kinh Thánh (Logan Marshell)

ADAM VÀ EVA

Tên người đàn ông đầu tiên là Adam và vợ của ông ta là Eva. Họ sống trong một khu vườn xinh đẹp cách xa các phương Đông và được gọi là Địa Đàng. Vườn Địa Đàng là một vùng đất có loài cây quí hiếm và nhiều hoa thơm cỏ lạ. Nhưng không lâu sau, họ đã không vâng lệnh Chúa, họ bị dụ dỗ bởi một vị quỷ thần nên đã ăn phải trái cấm trong vườn Địa Đàng. Thế là họ phải rời bỏ căn nhà xinh đẹp để ra đi.

Thế rồi hai vợ chồng Adam và Eva phải rời khỏi vườn Địa Đàng và trở về nhân gian sinh sống và làm việc. Hai người họ sống với nhau một thời gian thì Chúa Trời ban cho họ những đứa con. Đứa trẻ đầu tiên ra đời được mẹ Eva đã đặt tên là Cain, ít lâu sau lại một đứa bé nữa ra đời và được mẹ đặt tên là Abel.

Những đứa con của Adam và Eva lớn lên, đã nối nghiệp cha mẹ để làm những công việc mà trước đây cha mẹ mình đã làm. Cain, người anh lớn chọn công việc đồng áng và trồng trọt những loại cây ăn quả. Abel, người em nhỏ làm công việc nhồi lông cừu và trở thành người chăn cừu.

Lúc Adam và Eva còn sống trong vườn Địa Đàng, họ có thể nói chuyện với Chúa Trời cũng như nghe những lời Chúa Trời dạy bảo. Nhưng giờ đây họ đã trở về với nhân gian, họ không còn được nghe những lời của Chúa Trời như trước đây nữa. Vì vậy, cách đến với Chúa duy nhất là họ xếp những viên đá thành một bệ thờ và đặt bàn thờ Chúa lên đó, đặt lên những phẩm vật để cúng tế và đốt đi với mong muốn gửi vào đó những nỗi niềm riêng của mình và mong muốn đức Chúa sẽ nghe thấy, nhưng rồi đức Chúa cũng không nghe thấy. Sau đó, mỗi lần cúng tế Chúa Trời họ đều cầu nguyện và xưng tội với Chúa, họ nói lên tất cả những lỗi lầm của mình và cầu mong đức Chúa ban phúc lành cho họ. Tìm mua: Những Câu Chuyện Kỳ Thú Trong Kinh Thánh TiKi Lazada Shopee

Trong hai anh em Cain và Abel, mỗi người có mỗi cách phụng sự Chúa Trời riêng.

Cain thì dâng Chúa Trời hoa quả và hạt giống, Abel thì nướng một chú lừa do chính mình nuôi lớn để cúng đức Chúa Trời. Không biết vì lý do gì mà Chúa Trời hài lòng với sự dâng cúng của Abel và không hài lòng với sự dâng cúng của Cain. Có lẽ đức Chúa mong muốn Cain dâng lên ngài những đồ vật có sự sống như Abel đã làm và cũng có lẽ Cain đã không dâng cúng đức Chúa Trời bằng tất cả lòng thành của mình.

Đức Chúa thể hiện rằng mình không hài lòng với Cain và Cain lẽ ra phải biết hối lỗi và xưng tội trước Chúa để cầu mong tha thứ, nhưng cậu ta đã rất giận dữ Chúa và cũng nổi giận với cả Abel. Khi họ cùng nhau ra đồng để làm việc, Cain đã đánh đập người em của mình là Abel và giết anh ta. Thế là đứa trẻ đầu tiên xuất hiện trong nhân gian đã trở thành kẻ sát nhân giết hại em trai của mình.

Và đức Chúa đã bảo với Cain,

“Đây là Abel, người em của ngươi!”.

Cain đã trả lời đức Chúa,

“Con không biết tại sao con phải nhận đó là em trai của con?”

Thế là đức Chúa hỏi Cain,

“Điều gì khiến con làm như thế? Dòng máu của em trai con nhưng một tiếng khóc kêu cứu phát ra từ mặt đất. Con có thấy mặt đất mở ra như một chiếc mồm rộng lớn để uống máu của em trai con không? Chừng nào con còn sống, con sẽ phải sống dưới lời nguyền của Chúa đối với kẻ sát nhân đã giết hại em mình như con. Con sẽ phải đi lang thang khắp đất trời và không bao giờ tìm thấy nhà cửa, bởi vì con đã làm một việc xấu xa.

Cain nói với Chúa,

“Sự trừng phạt đối với con sẽ nặng hơn bất kỳ hình phạt nào khác.

Ngài hãy đuổi con ra khỏi cộng đồng và giấu con đi, nếu không bất kỳ người nào nhìn thấy họ cũng sẽ giết con, bởi vì con đơn độc chỉ có một mình và sẽ không có bất kỳ người bạn nào cả”. Sau đó, đức Chúa bảo với Cain, “Nếu ai làm hại Cain, người ấy sẽ bị trừng phạt vì hành động đó”. Và đức Chúa khắc dấu vào người của Cain vì vậy mà ai cũng biết cậu ta và đồng thời cũng biết rằng đức Chúa cấm không cho ai làm hại đến cậu ấy. Thế rồi Cain và vợ của mình trở lại ngôi nhà của Adam để sinh sống ở phần đất của mình, vợ chồng họ sinh con đẻ cái và xây dựng một thành phố trên mảnh đất này; Cain đặt tên cho thành phố sau khi sinh đứa con đầu lòng, anh ta gọi nó là Enoch.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Những Câu Chuyện Kỳ Thú Trong Kinh Thánh PDF của tác giả Logan Marshell nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đập vỡ vỏ hồ đào - Thích Nhất Hạnh
Lời tựaĐập vỡ vỏ hồ đào – Thiền sư Nhất Hạnh giảng Trung Quán LuậnNếu trong khoa học có những khối óc như Einstein thì trong Phật học cũng có những trái tim như Long Thọ. Bộ óc là để thấy và để hiểu, trái tim cũng là để thấy và để hiểu. Không phải chỉ có bộ óc mới biết lý luận. Trái tim cũng biết lý luận, và có khi trái tim có thể đi xa hơn bộ óc, bởi vì trong trái tim có nhiều trực giác hơn. Biện chứng pháp của Long Thọ là một loại lý luận siêu tuyệt có công năng phá vỡ mọi phạm trù khái niệm để thực tại có cơ hội hiển bày. Ngôn ngữ của biện chứng pháp có khả năng phá tung được màng lưới khái niệm. Ngôn ngữ của toán học chưa làm được như thế.Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng. Long Thọ thừa hưởng không gian khoáng đạt do các cánh cửa ấy cung cấp và vì vậy đã có khả năng khám phá trong kinh điển Phật giáo những viên bảo châu sáng ngời bị chôn lấp trong nền văn học Nikaya. Long Thọ nắm được cái tinh hoa của phương pháp học Phật giáo: loại bỏ được cái nhìn nhị nguyên để giúp tiếp xúc được với thực tại, một thứ thực tại bất khả đắc đối với những ai còn kẹt vào những phạm trù của khái niệm. Khoa học còn đang vùng vẫy để thoát ra khỏi cái nhìn nhị nguyên ấy: sinh-diệt, có-không, thành-hoại, tới-đi, trong-ngoài, chủ thể và đối tượng. Bụt Thích Ca nói: Có cái không sinh, không diệt, không có, không không, không thành, không hoại để làm chỗ quay về cho tất cả những cái có, không, sinh, diệt, thành, hoại. Mà cái không sinh không diệt ấy, cái không chủ thể không đối tượng ấy, mình chỉ có thể tiếp cận được khi mình vượt thoát màn lưới khái niệm nhị nguyên. Trung Quán là nhìn cho rõ để vượt ra được màn lưới nhị nguyên. Biện chứng pháp Trung Quán, theo Long Thọ, là chìa khóa của phương pháp học Phật giáo. Tác phẩm tiêu biểu nhất của bộ óc và trái tim Phật học này là Trung Quán Luận. Long Thọ không cần sử dụng tới bất cứ một kinh điển Đại thừa nào để thiết lập pháp môn của mình. Ông chỉ sử dụng các kinh điển truyền thống nguyên thỉ. Ông chỉ cần trích dẫn một vài kinh như kinh Kaccāyanagotta Sutta. Ông không cần viện dẫn bất cứ một kinh Đại thừa nào. Nếu Einstein có thuyết Tương Đối Luận thì Long Thọ có Tương Đãi Luận. Tương đãi có khác với tương đối. Trong tuệ giác của đạo Phật, cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái kia không có mặt thì cái này cũng không. Vì ngắn cho nên mới có dài, vì có cho nên mới có không, vì sinh cho nên mới có diệt, vì nhơ cho nên mới có sạch, nhờ sáng cho nên mới có tối. Ta có thể vượt thoát cái thế tương đãi ấy để đi tới cái thấy bất nhị. Biện chứng pháp Trung Quán giúp ta làm việc ấy. Theo tuệ giác Trung Quán, nếu khoa học không đi mau được là vì khoa học gia còn kẹt vào cái thấy nhị nguyên, nhất là về mặt chủ thể và đối tượng, tâm thức và đối tượng tâm thức. Kinh Kaccāyanagotta cho ta biết là người đời phần lớn đang bị kẹt vào hai ý niệm có và không. Kinh Bản Pháp (S.2, 149-150) và kinh tương đương Tạp A Hàm (Tạp 456) cho ta thấy cái sáng có là nhờ cái tối, cái sạch có là nhờ cái nhơ, cái không gian có là vì có cái vật thể, cái không có là nhờ cái có, cái diệt có là vì có cái sinh. Đó là những câu kinh làm nền tảng cho tuệ giác tương đãi. Niết bàn là cái thực tại không sinh, không diệt, không có, không không, không không gian cũng không vật thể… và Niết bàn có thể chứng đắc nhờ cái thấy bất nhị. Ban đầu ta có ý niệm tương duyên (pratītyasamutpāda), rồi ta có các ý niệm tương sinh, tương đãi. Sau đó ta lại có ý niệm tương tức và tương nhập. Tất cả cũng đều có một nội dung như nhau. Những ý niệm không, giả danh và trung đạo cũng đều có ý nghĩa đó.Hạt hồ đào (walnut) ăn rất ngon nhưng cái vỏ của nó rất cứng. Ở Tây phương người ta có chế ra một cái kẹp sắt, chỉ cần bóp mạnh cái kẹp thì vỏ hồ đào vỡ và ta có thể thưởng thức ngay hương vị thơm ngọt và bùi của hồ đào. Có những kẻ trong chúng ta đã từng bị lúng túng trong khi đọc những bài kệ Trung Quán Luận. Nhưng trong hai mùa Đông năm 2001-2002 và 2002-2003, thầy của chúng tôi là thiền sư Nhất Hạnh đã giảng giải cho chúng tôi nghe và hiểu được những bài kệ ấy một cách dễ dàng và thích thú. Sách này ghi lại những bài giảng của thầy về sáu phẩm căn bản của Trung Quán Luận, các phẩm Nhân Duyên, Khứ Lai, Tứ Đế, Hữu Vô, Nhiên Khả Nhiên và Niết Bàn. Những phẩm này đại diện được cho toàn bộ Trung Quán Luận.Thầy Long Thọ sinh vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai trước Thiên chúa giáng sinh(B.C.), trong một gia đình Ấn Độ giáo. Lớn lên thầy đã học Phật và theo Phật giáo. Thầy đã sáng tác bằng tiếng Phạn thuần túy, thay vì bằng tiếng Pali hay bằng tiếng Phạn lai Phật giáo.Tác phẩm Trung Quán Luận của thầy có mục đích xiển dương Đệ Nhất Nghĩa Đế (Paramartha) của đạo Bụt. Đệ nhất nghĩa đế là sự thật tuyệt đối. Ngoài sự thật tuyệt đối còn sự thật tương đối, tức là Thế tục đế (Saṃvrti). Sự thật tương đối tuy không phải là sự thật tuyệt đối nhưng cũng có khả năng chỉ bày, chuyển hóa và trị liệu, do đó không phải là cái gì chống đối lại với sự thật tuyệt đối. Mục đích của Long Thọ, như thế không phải là để bài bác chống đối sự thật tương đối mà chỉ là để diễn bày sự thật tuyệt đối. Nếu không có sự thật tuyệt đối thì thiếu phương tiện hướng dẫn thể nhập thực tại tuyệt đối, tức chân như hay Niết bàn. Vì vậy trong khi đọc Trung Quán Luận, ta thấy có khi như Long Thọ đang phê bình các bộ phái Phật giáo đương thời như Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvāstivāda) hay Độc Tử Bộ (Pudgalavāda) hay Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika). Long Thọ không đứng về phía một bộ phái nào, không bênh vực một bộ phái nào, cũng không chỉ trích bài bác một bộ phái nào. Ông chỉ có ý nguyện trình bày Đệ Nhất Nghĩa Đế của đạo Bụt, thế thôi.
Phật Học Ngụ Ngôn Pháp Vị Quyển 1 PDF - Lê Khánh Hòa (NXB Bùi Văn Nhẩn 1930)
Kể lại một số câu chuyện ngụ ngôn về đạo phật, cũng là những lời răn dạy ở đời như: Lão Khờ ăn muối, con yêu bị giết, người tham tưới mía, cởi thuyền vạch sóng, người đói sợ gương.Phật Học Ngụ Ngôn Pháp Vị Quyển 1NXB Bùi Văn Nhẩn 1930Lê Khánh Hòa44 TrangFile PDF-SCAN
Tịnh Độ Huyền Cảnh PDF - Trí Hải (NXB Đức Lưu Phương 1935)
Pháp môn Tịnh độ tuy chư Phật, chư Tổ cùng chung khen ngợi, nhưng bậc sĩ phu đương thời đối với giáo lý cả đời của đức Phật chưa từng để mắt. Nếu chẳng phải trước kia đã có căn lành thì sao lại được nghe rồi tin tưởng sâu sắc! Nay nêu sơ lược một hai bộ kinh lớn và luận quan trọng, để khái quát những kinh luận khác, giúp cho mọi người biết được sự thù thắng của pháp môn này, dễ sinh lòng tin tưởng ưa thích.Tịnh Độ Huyền CảnhNXB Đức Lưu Phương 1935Trí Hải60 TrangFile PDF-SCAN
Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu Hội PDF - Phạm Hữu Đức (NXB Nguyễn Văn Của 1935)
Tổ Huệ Đăng đã lập Hội Thiên Thai Thiền giáo tông (1935), tại chùa Long Hòa, Bà Rịa nhằm đáp ứng tâm tư, tinh thần, mến mộ Phật giáo của các nhân sĩ tri thức yêu nước, Tăng Ni, Phật tử đạo Phật trong phong trào chấn hưng phật giáo tại Nam bộ. Mặt khác, thực dân Pháp đã ký nghị định cho phép các tổ chức Phật giáo được thành lập với mục đích dễ bề cai trị nhân dân, khai thác thuộc địa tại Việt Nam. Tôn chỉ của hội là duy trì và phát triển Phật giáo không chỉ dừng lại ở việc xây chùa, tạo tượng mà phải mở rộng hoằng dương phật pháp, phổ độ chúng sanh, đưa giáo lý Phật giáo vào đời sống nhân dân. Hội đã xuất bản tờ Bát Nhã Âm, quan tâm trước tác và chuyển ngữ nhiều kinh sách bằng chữ Nôm để vận động chấn hưng Phật giáo và hoằng dương chính pháp trong công cuộc chấn hưng Phật giáo.Sự thành lập Thiên Thai Thiền giáo tông nhằm đáp ứng tâm tư, tinh thần mến mộ Phật giáo của các nhân sĩ tri thức yêu nước, Tăng Ni, Phật tử đạo Phật trong phong trào chấn hưng Phật giáo tại Nam bộ. Với mục đích dễ bề cai trị và bình ổn nhân dân, khai thác thuộc địa tại Việt Nam, thực dân Pháp đã ký nghị định cho phép các tổ chức Phật giáo được thành lập. Do đó, Tổ Huệ Đăng đã lập Thiên Thai Thiền giáo tông Liên Hữu hội (1935), tại chùa Long Hòa, Bà Rịa.Tôn chỉ của Hội là duy trì và phát triển Phật giáo không chỉ dừng lại ở việc xây chùa, tạo tượng mà phải mở rộng hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sanh, đưa giáo lý Phật giáo vào đời sống nhân dân. Tổ Huệ Đăng và hội viên Thiên Thai Thiền giáo tông Liên Hữu hội thành lập các cơ sở tôn giáo, lập trường, mở lớp gia giáo và các đạo tràng giảng kinh, thuyết pháp. Đối tượng và tiêu chí của hội giúp các tầng lớp tri thức hiểu và có trí tuệ, dễ dàng học giáo lý, hiểu và tin sâu vào Phật pháp. Nhờ vậy, niềm tin và lý tưởng của mọi người vững chãi, đóng góp và hành động đúng trong công cuộc đổi mới của đất nước và chấn hưng Phật giáo nước nhà.Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu HộiNXB Nguyễn Văn Của 1935Phạm Hữu Đức52 TrangFile PDF-SCAN