Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Chiến Trường Khốc Liệt - Peter Arnett

Tác giả là người Mỹ gốc New Zealand Peter Arnett, phóng viên nổi tiếng của Hãng AP, CNN, người đã có mặt ở miền Nam Việt Nam từ những năm 1962 cho tới 1975, chứng kiến rất nhiều sự kiện lịch sử trong chiến tranh Việt Nam và giờ khắc sụp đổ của chính quyền ngụy Sài Gòn. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Mỹ năm 1995, sau đó được tái bản nhiều lần, gây tiếng vang lớn và hấp dẫn độc giả. Dư luận trong và ngoài nước Mỹ đánh giá "Đây là một cuốn tự truyện hay nhất", "Một cuốn hồi ký mẫu mực", "Một tài liệu có sức mạnh hay nhất", v.v,.. Từ chiến trường khốc liệt - cuốn tự truyện - hồi ký mang tính báo chí được ghi chép cẩn thận, công phu, là tập tài liệu lịch sử vô cùng quý giá của một phóng viên chiến trường, gần như dành cả phần lớn thời gian cuộc đời mình viết về đề tài chiến tranh. Ông viết về tất cả những điều cảm nhận, trải qua, chứng kiến ở những nơi chiến sự mà Ông đặt chân tới: VIệt Nam, Lào, Iran, Iraq, Afganistan... Trong cuốn sách, tác giả ghi lại khá kỹ về những sự kiện Chiến tranh Việt Nam, diễn biến những hoạt động tác chiến ở chiến trường, đặc biệt là những sự kiện dấu mốc như: cuộc đấu tranh, biểu tình của các tăng ni, phật tử ở Huế, vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức, cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, các trận đánh, các chiến dịch lớn giữa quân Mỹ - Ngụy và quân giải phóng miền Nam Việt Nam, cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các chiến dịch dẫn tới giải phóng Sài Gòn và cuối cùng là giờ khắc sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn,.. cùng tâm trạng hoang mang, bi quan, thất vọng của các tổng thống, tướng tá Mỹ, ngụy tham gia điều hành bộ máy chiến tranh trước các sự kiện. Tất cả được tác giả ghi chép và kể lại một cách chân thực, khách quan với tư cách là một phóng viên chiến trường chuyên nghiệp. Chính những tin, bài, phóng sự của tác giả được đăng tải trên báo chí khi đó đã gây tranh cãi và có tác động ảnh hưởng sâu sắc tới dư luận Mỹ và nhiều nước trên thế giới, làm cho nhân dân Mỹ và nhân dân nhiều nước trên thế giới hiểu đúng hơn về cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhờ đó mà Perter Arnett đã giành được giải thưởng báo chí Pulitzer danh giá vào năm 1966 và rất nhiều giải thưởng khác. Trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và tháng 3-2003, Peter Arnett đã gây chấn động thế giới bởi những phóng sự nóng hổi được truyền hình trực tiếp trên CNN từ chiến trường Baghdad. Những sự kiện về Chiến tranh Iraq cũng được phản ánh chân thực trong cuốn sách. Peter Arnett là phóng viên phương Tây đầu tiên và duy nhất phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden. *** Công việc làm tin chiến trường về Chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng lớn tới 35 năm trong nghề phóng viên quốc tế sau này của tôi. Khi đến với Việt Nam như một chàng trai trẻ đầy lý tưởng tôi nhận thấy không sự thỏa mãn cá nhân nào quá lớn cho một phóng viên chiến trường bằng việc nói ra sự thật về lòng dũng cảm và những bi thương đồng hành cùng người lính. Tôi viết về chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1962 đến 1975, và tôi đã học được rằng trong chiến tranh hiện đại người dân thường thiệt thòi nhiều hơn những người tham chiến và vai trò của phóng viên chiến trường là phải nói lên câu chuyện của họ. Đó cũng là niềm tin đồng hành cùng tôi nhiều năm sau này tới Baghdad trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất năm 1991 đã kiểm nghiệm sự ảnh hưởng của lệnh cấm vận đối với 25 triệu người dân Iraq như sự trừng phạt lên người đứng đầu của họ, Saddam Hussein. Cũng như trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, tôi làm tin truyền hình trực tiếp về các trận đánh bom Baghdad trong suốt chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai vào thảng-2003. Giống như khi ở Việt Nam trước đó 40 năm, để chứng kiến sự thật ác liệt về chiến tranh của người Mỹ, tôi đã ở lại Iraq hơn 4 năm nữa để ghi lại những hỗn loạn và bi thương dẫn đến án treo cổ dành cho Saddam Hussein năm 2006. Tôi có nhiều dấu mốc quan trọng trong suốt 50 năm làm tin chiến trường của mình, đó là vào tháng 3-1997, cùng với đội quay phim của CNN tôi đã phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden ở nơi ẩn nấp trên núi của ông ta ở Afghanistan. Vào thời điểm đó, Bin Laden ít được công chúng biết đến, nhưng ông ta đã bị các cơ quan tình báo quốc tế theo dõi như một người cuồng tín Hồi giáo nguy hiểm với nguồn tài chính cá nhân đáng kể. Trong bài phỏng vấn cá nhân của mình, Bin Laden tuyên bố một cuộc thánh chiến với Mỹ và hứa sẽ gây ra nhiều xung đột và thiệt hại cho quân đội nhằm xóa bỏ sự ảnh hưởng của phương Tây trong giới Hồi giáo. Vào thời gian phỏng vấn ông ta, những mối đe dọa của Bin Laden từ những ngọn núi phía xa chỉ là lối nói hoa mỹ rỗng tuyếch. Nhưng khi cuộc tấn công không tặc mà ông ta tổ chức tấn cống vào Tòa nhà Thương mại thế giới ngày 11-9-2001 giết chết 3.000 người dân đã làm thay đổi trật tự. thế giới Nhiều năm làm phóng viên quốc tế, tôi hiểu rõ vai trò quan trọng của truyền thông trong thời sự thế giới và đây cũng là thông điệp tôi truyền tải trong bài giảng ở các Trường Đại học Báo chí và các Tổ chức truyền thông trong nhiều năm. Tôi đã dẫn một nhóm sinh viên của Trường Đại học Shantou (Sán Đầu) ở phía nam Trung Quốc tới thăm Việt Nam trong chuyến đi thực tế viết tin ba tuần đáng nhớ vào mùa hè năm 2007. Với kinh nghiệm trước đây của tôi ở Việt Nam vào những năm 1960 và 1970 và rất nhiều chuyến thăm sau này, tôi đã giảng bài về chủ đề đó ở Trường Đại học Shantou. Tôi muốn các sinh viên có cảm nhận về cuộc chiến tranh đó và những người Việt nam đã được sinh ra khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975. Rất nhiều người quan sát đã viết rằng cuộc chiến tranh không còn ảnh hưởng trong đời sống của người Việt Nam, đất nước đã hòa bình và khôi phục kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mọi người. Dọc hành trình từ Bắc tới Nam, chúng tôi thấy sự tốt bụng và niềm vui trên những gương mặt người Việt Nam với những người khách nước ngoài. Tôi nhận ra rằng Chính phủ nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác kinh tế và chính trị với những kẻ thù trước đây ở phương Tây. Hầu hết những người Việt Nam chúng tôi gặp ở miền Bắc đều hiểu được những đau thương mất mát trong chiến tranh họ phải gánh chịu và chúng tôi được biết có khoảng 3 triệu người chết. Chúng tôi tìm thấy rất nhiều tàn tích của chiến tranh ở miền Nam nhưng cũng hiểu rằng đó là miền Bắc đã cung cấp sức người sức của cho miền Nam với khẩu hiệu "sinh ra ở miền Bắc và chết ở miền Nam". Đó là lời thương xót của những gia đình Việt Nam mất con trong chiến tranh. Cảm nhận về nỗi đau đã lan tỏa trong Văn học Việt Nam vài thập kỷ qua. Các sinh viên Trường Đại học Shantou nhanh chóng nhận ra rằng Chính phủ Việt Nam ghi nhận lòng yêu nước và sự hy sinh từ việc dựng lên nghĩa trang Trường Sơn ở khu vực Bến Tắt, Quảng Trị với hơn 10.000 ngôi mộ tôn kínhcho đến nhà tù của Pháp cũ có tên "Hỏa lò" ở trung tâm thủ đô, nơi bộ quần áo phi công còn vấy máu của Jonh McCain ở một trong những phòng nơi những người tù Mỹ bị giam giữ trong nhiều năm. Bi thương hơn nữa, nhà tù còn phác họa những hình ảnh và mô hình về các hình thức tra tấn dã man mà thực dân Pháp đã sử dụng đối với tù chính trị trong suốt 100 năm thống trị gồm máy chém cao bằng gỗ với lưỡi dao sắc và chiếc rổ đựng đầu vấy máu nằm gần đó. Có một khung cảnh đặc biệt thu hút sự chú ý của các sinh viên và tôi hy vọng nó sẽ đọng lại lâu trong ký ức của họ. Đó là một căn phòng lớn trong Bảo tàng Chiến tranh ở thành phố Hồ Chí Minh với những trưng bày cho các phóng viên nước ngoài, những người đã làm tin về các cuộc chiến tranh chống Mỹ và chống Pháp. Những khuôn mặt và hình ảnh đều quen thuộc với các sinh viên Shantou bởi vì họ là những đồng nghiệp trước đây của tôi và tôi thường nói về họ trong các bài giảng của mình, các phóng viên ảnh hy sinh trong chiến tranh như Larry Borrow của tạp chí Life, Henri Huet và Huỳnh Công la của AP và Koichi Sawada của UPI cùng nhiều người khác nữa. Sự đau thương mất mát của chiến tranh đã không làm mờ đi sự ghi nhận của Chính phủ Việt nam về lòng dũng cảm và sự hy sinh của các phóng viên chiến trường ở các quốc gia đã đấu tranh để nói lên sự thật về cuộc chiến và sự hy sinh của họ. Đó là điểm nhấn trong chủ đề bài giảng của tôi ở Trường Đại học Shantou rằng báo chí có một vài trò to lớn và đáng giá trong thế giới ngày nay. Những chuyến thăm trở lại Việt nam, đặc biệt là hành trình cùng với các sinh viên là những chuyến thăm hài lòng trong cuộc đời tôi. Đó là những chuyến thăm khép lại vòng tròn từ khi lần đầu tiên tôi đến với tư cách là một phóng viên trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá vào năm 1962 đến khi từ những tàn tích của một cuộc chiến tranh dài, một đất nước hòa bình, độc lập xuất hiện tự hào trên chính trừong quốc tế. Peter Arnett, tháng 3-2009 Mởi các bạn đón đọc Từ Chiến Trường Khốc Liệt của tác giả Peter Arnett.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đấu Trường Đen - Mario Puzo
Tác giả của tiểu thuyết Bố già lừng danh tiếp tục cho ra mắt bạn đọc cuốn Đấu trường đen. Tác phẩm lấy bối cảnh nước Đức sau Thế chiến thứ II, với không gian trải rộng từ nước Mỹ xa xôi tới tận Berlin hoang tàn đổ nát. Cuốn sách kể về cuộc đời của Mosca, chàng cựu chiến binh trẻ với tâm hồn chai sạn vì hội chứng chiến tranh chán ngán rời bỏ nước Mỹ quay lại Berlin đổ nát để bắt đầu xây dựng cuộc sống mới, cũng để tìm lại cô gái Đức mà anh tình cờ gặp trong cuộc chiến... Đấu trường đen còn là bản mô tả đời sống Berlin sau chiến tranh hết sức chân thực, sống động với những vụ áp phe chợ đen, buôn lậu, những thủ đoạn lừa đảo..., và những tình bạn chân thành, những mối quan hệ nồng ấm tình người. Liệu tình yêu của cô gái Đức có làm mềm lại tâm hồn chai sạn của Mosca? Sự hỗn loạn sẽ kéo dài trong bao lâu?... Đấu trường đen sẽ lý giải tất cả.   Đấu Trường Đen chỉ với 300 trang, hơn mười nhân vật chính và một ít nhân vật phụ... thế mà cuốn sách bao trùm không gian rộng lớn, đủ sức đánh dấu sự kiện lịch sử mang tính chủ đề lên án chiến tranh và kêu gọi loài người muốn sống phải loại trừ chiến tranh. Đấu Trường Đen gợi lại hậu quả chiến tranh qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật, có sức thấm sâu, tạo xúc tác lớn... Toàn bộ cuốn sách là lời cảnh tỉnh bọn hiếu chiến ích kỷ khi ngọn triều chiến tranh chưa có dấu hiệu ngưng tràn tới. Ở lĩnh vực văn học Đấu Trường Đen ngoài giá trị nghệ thuật cống hiến cho bạn đọc, còn có ích cho các nhà văn trẻ bởi tính khái quát đề tài và cấu trúc chương mục, phân bố nhân vật với đường viền hiện trường và bối cảnh lịch sử. Bản dịch khác của Nhà Xuất Bản Phương Đông là Đấu Trường U Ám. *** Tác giả Mario Puzo, quốc tịch Mỹ, gốc Ý, sang Mỹ sống ly hương trong khu dành riêng cho dân ngụ cư người Ý ở Long Island (New York). Khởi sự bằng những truyện ngắn viết nhỏ ở ban đầu, tiền nhuận bút kiếm chẳng đủ nuôi miệng. Vợ làm nghề thợ may chẳng đủ nuôi miệng vợ và chồng chưa đủ nuôi thân chồng. Chồng dại vợ đi ngủ, khẽ gập bàn máy may lại, kê bàn máy chữ lên, dưới để chiếc chăn không gây tiếng động, bắt đầu viết. Thật cuộc sống không ngày mai; nhưng kiên nhẫn vẫn cứ kéo dài ngày qua ngày. Khi Mario Puzo hàn vi, cũng may mắn gặp dược một người bạn thật tốt. Hàng ngày bạn này lui tới, khuyến khích chàng văn sĩ, không những về tinh thần mà giúp cả vật chất nữa. Thường là cho Mario Puzo vay tiền, lúc năm, hoặc mười đô la; khi hai chục. Rồi một ngày, bạn đưa ra ý kiến: khuyên nên viết một tác phẩm theo ý thích: nhân vật, chất liệu, tình tiết cũng như bối cảnh mà chàng có được. Nếu cứ viết như bây giờ, chuyện nhỏ theo lối đặt hàng chủ báo, thì cuộc đời văn sĩ sẽ chẳng bao giờ mọc mũi, sủi tăm - tiền cũng chẳng có mà sự nghiệp cũng không! Mario Puzo nghe tới đây rất thích thú, nhưng có một điều; chẳng lẽ chàng lại nói ra. Cuối cùng đành phải tiết lộ, món tiền nhuận bút kia nhỏ thật; nhưng đủ uống nước lạnh và gặm mẩu bánh mì dằn bụng. Chàng cũng đành thú thật, viết tác phẩm theo sở thích, thì lấy đâu ra tiền để sống hàng ngày? Bạn chàng gật dầu, đáp ứng ngay, hôm nay hai; mai ba; mốt bốn; kia năm mươi đô đủ sống mà viết. Ngày, tuần, tháng; bạn lui tới kiểm tra sáng tác tới đâu. Và mỗi lần cho vay tiền đều rút sổ tay ghi nợ. Một ngày kia, khi gần hoàn tất tác phẩm, bạn chàng cho vay số tiền khá lớn, và cầm bản thảo đến các nhà xuất bản thương lượng. Các tác phẩm của Mario Puzo: Đấu Trường Đen (1955) Đất khách quê người (1965) The Runaway Summer of Davie Shaw (1966) Six Graves to Munich (1967), với bút danh Mario Cleri Bố già (1969) Những kẻ điên rồ phải chết (1978) Sicilian Miền đất dữ (1984)  Đời Tổng Thống K thứ tư (1991) Ông Trùm Quyền Lực Cuối Cùng (1996) Luật im lặng (2000) phần tiếp theo tới Bố già Gia đình Giáo hoàng (2002) (tựa bản dịch khác Cha Con Giáo Hoàng) ... Mời các bạn đón đọc Đấu Trường Đen của tác giả Mario Puzo.
Hoa Trái Của Niềm Đắm Say - Daniel Pennac
Daniel Pennac sinh năm 1944 tại Casablanca (Marốc). Thuở nhỏ, ông đã theo chân bố mẹ đi khắp nơi trên thế giới: châu Âu, châu Á, châu Phi… Trải nghiệm sống phong phú có được qua những chuyến phiêu lưu ấy đã góp phần không nhỏ tạo nên sự đa dạng về thể loại trong sáng tác của nhà văn: tiểu luận, tiểu thuyết trinh thám, sách cho thiếu nhi, truyện tranh, tự truyện… Daniel Pennac đặc biệt ghi dấu ấn trong nền văn học Pháp với những câu chuyện viết cho thiếu nhi. Giọng văn hài hước mà không kém phần sâu lắng, tình bạn giữa con người và loài vật, những khám phá vô cùng thú vị về thế giới “bốn chân” đã đem lại cho từng trang viết của ông sức hấp dẫn khó cưỡng đối với độc giả mọi lứa tuổi. Mới đây, Chagrin d’ecole, cuốn tiểu thuyết-tự truyện của Daniel Pennac đã được vinh danh trong lễ trao giải Renaudot 2007, giải thưởng danh giá nhất của văn đàn Pháp chỉ xếp sau Goncourt.   Cún bụi đời là một trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi thành công nhất của Daniel Pennac. Cuốn sách là minh chứng hùng hồn cho những gì được gọi là tinh tế trong cảm nhận và giản dị trong văn phong của tác giả. Sau Mắt sói, thêm một lần nữa, độc giả nhỏ tuổi Việt Nam lại có dịp tái ngộ với người thầy yêu trẻ, “người kể chuyện cổ tích hiện đại về loài vật”. *** Chín tháng sau – và lần thứ nhất trong trải nghiệm lâu dài của tôi về lĩnh vực này – tôi đã nhìn thấy một đứa bé ra khỏi bụng mẹ, lăn tròn từ phải sang trái. Một bé gái. Bố Théo bên này, bố Hervé bên kia, mẹ Thérèse trong chiếc giường trải đờ-ra tráng, lần đầu tiên nàng thấy thỏa mãn. Sau đó, vầng trán nhỏ bé của nó nheo lại và cô bé làm lại những gì nó muốn. Đứng sau Hervé, là một ứng viên thứ ba, cũng có vẻ xúc động như hai người kia. Nó có nhận ra hay không rằng ứng viên thứ ba đang ve vuốt lòng bàn tay của bố Hervé bằng lưng bàn tay của mình? Nó có nhận thấy không, phía bên kia giường, bố Théo phản đối cử chỉ đó của vị phó nhiệm Jual? Lúc nào cũng vậy, khi đôi mắt của con bé cuối cùng ngừng lại trên tôi, đôi mắt nó liền ánh lên tất cả ý thức tra hỏi về sự phức tạp của thế giới và một cầu mong nồng nhiệt xin giải thích cho nó cái phương thức sử dụng thế giới này.   - Người ta có thể nghĩ rằng nó chọn anh đấy, Benjamin ạ, Thérèse tuyên bố như vậy vừa trao con bé cho tôi.   Đó chính là một cách giải thích ký tự SOS. Cái vầng trán có lông tơ của con bé nằm đúng trong lòng bàn tay tôi; nó đang sôi lên ham muốn hiểu biết. ... Mời các bạn đón đọc Hoa Trái Của Niềm Đắm Say của tác giả Daniel Pennac.
Cuốn Sách Về Mẹ - Albert Cohen
Cuốn sách cảm động này làm sống lại hình ảnh của một người phụ nữ, một người Mẹ đã qua đời, lúc sinh thời luôn sống vì con. Đây cũng là cuốn sách của một đứa con, của tất cả những đứa con. Mỗi người sẽ thấy trong đó hình ảnh của Mẹ mình, mỗi người đang khóc thương người Mẹ đã qua đời sẽ thấy ở đây những lời dằn vặt, trách móc chính bản thân mình mỗi khi nghĩ đến những phút giây vô ơn, thờhiếu kiên nhẫn hay thiếu cảm thông. Nhưng nuối tiếc và hối hận đều đã muộn rồi. “Không đứa con nào thực sự hiểu rằng một ngày mẹ sẽ qua đời, những đứa con nào cũng nổi cáu, cũng mất kiên nhẫn với mẹ, những con người ngu dại ấy sớm bị trừng phạt rồi mới nhận ra tội lỗi của mình.” Đây là một tác phẩm xuất sắc, có một không hai mà bạn nhất định phải đọc.   Well Leon dịch  *** Albert Cohen (sinh ngày 16 tháng 8 năm 1895 tại Corfu, Hy Lạp, mất ngày 17 tháng 10 năm 1981 tại Geneva, Thụy Sĩ) là một tiểu thuyết gia gốc Do Thái viết bằng tiếng Pháp. Gia đình ông chuyển đến Marseille, Pháp khi ông còn là một đứa trẻ. Đến năm 1914, ông rời Marseille đến Thụy Sĩ, và trở thành công dân nước này năm 1919.   So với các nhà văn Pháp cùng thời, Albert Cohen chín muồi khá muộn. Mãi tới năm bốn mươi tuổi ông mới có tác phẩm đầu tay. Và một điều lạ lùng nữa là trong suốt ba mươi lăm năm ông chỉ viết bốn tiểu thuyết và ba cuốn tự thuật. Điều người ta nhận thấy trước tiên về con người và nghiệp văn của Cohen là ở chỗ: ông là một con người tài tử, một diễn viên lớn đã nói về chính mình trong tác phẩm, nói khác đi, nhân vật của ông chính là ảnh phản chiếu trung thành con người nhà văn. Xuyên suốt các tiểu thuyết và tự thuật của ông là một sự châm biếm, là tính hài hước, là cái cười nhạo, thể hiện rõ rệt một thị hiếu tốt đẹp và rất Pháp. Qua tập hợp tiểu thuyết của ông người ta nhận thấy rõ truyện của ông kể giống như những truyện dân gian Bắc Âu vừa đậm chất anh hùng ca vừa hài hước nhưng lại viết về cuộc sống của những người Do thái sống trong các quốc gia Châu Âu, vào những năm ba mươi của thế kỷ XX>   Tiểu thuyết lớn nhất của ông Belle du Seigneur (Người đẹp của Đức Chúa trời 1968)  một trong những chuyện tình đẹp nhất trong văn học kể về những ngày lưu đày và bị săn đuổi của nhân vật chính, chàng trai Do Thái Solal, ở Paris năm 1963, thời điểm mà làn sóng bài trừ dân Do Thái đang dâng cao ở Châu Âu. Tác phẩm của Cohen không ngừng mơ ước và tìm kiếm một thế giới mà trong đó những người Do Thái được sống trong tình thương yêu thực sự, trong tình anh em bè bạn với tất cả các dân tộc khác trên thế giới này.   Một số tác phẩm:   Solal (1930) được dịch ra với tên Solal of the Solals  (1933)  Mangeclous (1938) Nailcruncher (1940)  Le livre de ma mère (1954) Book of my Mother (1997)  Belle du Seigneur (1968) được dịch sang tác phầm cùng tên (1995)  Les valeureux (1970)  Ô vous, frères humains (1972) O Humans, My Brothers  Carnets (1978, 1979) Notes  *** Thật đáng ngợi khen các bà mẹ của mọi đất nước, ngợi khen các mẹ thông qua em gái các mẹ là mẹ của tôi, thông qua cái uy nghi của mẹ quá cố của tôi. Hỡi các bà mẹ trên trái đất, các bà mẹ, con xin chào các mẹ, các mẹ già yêu quý, các mẹ đã dạy chúng con buộc dây giầy, đã dậy chúng con hỉ mũi, vâng, đã dậy chúng con phải thổi vào khăn tay và kêu lên xì xì như các mẹ kiên trì đút từng thìa bột mà chúng con những hài nhi làm bộ làm điệu mãi rồi mới chịu, các mẹ để động viên chúng con nuốt những quả mận luộc đã giải thích cho chúng con rằng quả mận là những tên da đen nhỏ bé muốn trở về nhà, thế là cái thằng nhóc, sung sướng và bỗng nhiên thơ mộng mở cửa nhà, các mẹ đã dạy chúng con xúc miệng và kêu lên “hơ hơ” để động viên chúng con và chỉ cho chúng con, các mẹ không ngừng sắp đặt những lọn tóc xoăn của chúng con và những cái cà vạt của chúng con để cho chúng con xinh đẹp trước những cuộc viếng thăm hoặc trước khi chúng con đến trường, các mẹ không ngừng cho chúng con ăn mặc kỳ cục và trang điểm công phu cho lũ con trai nhỏ ngốc nghếch của các mẹ, rửa ráy cho chúng con, nào là đầu gối dây đất bẩn thỉu và trầy da, nào là những cái mũi dơ dáy của lũ nhóc thò lò mũi xanh, các mẹ không ghê tởm chúng con, các mẹ luôn luôn yếu đuối với chúng con, rộng lượng khoan hồng khi sau này các mẹ để cho các chàng trai con các mẹ phỉnh phờ rồi cho chúng tất cả những món tiền dành dụm của các mẹ, con chào các mẹ. Con chào các mẹ, các bà mẹ đầy duyên dáng, dũng cảm và nhân hậu, nhiệt tình và yêu thương, các mẹ với cặp mắt xét đoán, các mẹ biết ngay nếu có kẻ ác gây ra cho chúng con điều phiền muộn, các mẹ là những người duy nhất mà chúng con có thể tin tưởng và các mẹ không bao giờ phản bội chúng con, con chào các mẹ, các mẹ không ngừng nghĩ đến chúng con ngay cả trong giấc ngủ của các mẹ, các mẹ luôn luôn tha thứ và xoa trán chúng con bằng bàn tay nhăn nheo, các mẹ đợi chúng con, các mẹ luôn luôn ở cửa sổ để nhìn chúng con ra đi, các mẹ cho rằng chúng con không thể có gì so sánh được và là độc nhất, các mẹ không bao giờ chán việc phục vụ chúng con, nào là mặc quần áo cho chúng con, nào là giắt giường cho chúng con ngay cả khi chúng con đã tứ tuần, các mẹ không yêu chúng con ít hơn nếu chúng con có xấu xí, hư hỏng, thất bại, yếu hèn, các mẹ đôi khi làm cho con tin tưởng ở Chúa.   Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Về Mẹ của tác giả Albert Cohen.
Thợ Bánh Samurai - Araki Gen
Cuộc sống của Yusa Hiroko,người mẹ đơn thân làm nghề kỹ sư hệ thống là những chuỗi ngày quay cuồng giữa công ty và gia đình. Trong một ngày như thế, cô tình cờ bắt gặp trước cửa siêu thị người đàn ông kỳ lạ có lối phục sức ngỡ như bước ra từ một bộ phim dã sử. “Anh ta có một chỏm tóc búi chonmage cột trên đỉnh đầu, mặc chiếc quần ống rộng hakama bên ngoài áo kimono, hình như trên thắt lưng còn đeo hai thanh kiếm.” Vào giây phút đó, Hiroko chẳng hề hay biết, người đàn ông lạ lùng là một samurai từ 180 năm trước vượt thời gian tới Tokyo hiện đại, và cuộc gặp gỡ định mệnh sẽ làm đảo lộn cuộc sống của hai mẹ con… Cuốn sách gợi nhắc về những giá trị nhỏ bé ấm áp tưởng chừng đã bị quên lãng, như một chiếc bánh ngon để lại trong lòng độc giả dư vị hân hoan và ngọt ngào khôn tả.  *** Yusa Hiroko không thể dừng lại quan sát kỹ người đàn ông nọ, bởi lẽ cô đang rất vội. Thế nhưng phải nói bộ dạng anh ta lạ lùng quá thể. Tomoya thoạt trông thấy anh ta thì reo lên vẻ thích thú lắm “Mẹ ơi, người ngày xưa kìa!”. Nhưng Hiroko chỉ giục con “Rồi, mẹ biết rồi, nhanh chân lên nào con” rồi liếc “người ngày xưa” một cái. Quả thật, trước cánh cửa cuốn hẵng còn đóng kín mít của siêu thị Tomiya, có một người đàn ông đang đứng sừng sững, với lối phục sức ngỡ như vừa bước ra từ một bộ phim dã sử. Anh ta có một chỏm tóc búi chonmage* cột trên đỉnh đầu, mặc chiếc quần ống rộng hakama* bên ngoài áo kimono, hình như trên thắt lưng còn đeo hai thanh kiếm. Nói “hình như” không phải bởi Hiroko chẳng hứng thú gì lắm với người đàn ông nọ mà vì cô đang phải mải mốt cho kịp giờ. Cô chỉ kịp liếc anh ta một cái, đáp lại Tomoya một câu cho có “Ơ đúng thật nhỉ, người ngày xưa kìa”, rồi hớt hải kéo tay con chạy đi. Sáng nay Hiroko phải tất tả như thế, nguyên do chính là bởi cô ngủ dậy muộn. Tối qua cô phải căng mắt đến gần ba giờ sáng để giải quyết mớ công việc mang về nhà, nhưng để đến mức dậy muộn rồi tới trễ vào ngày dã ngoại của nhà trẻ thì đương nhiên không thể biện minh được. Hiroko vội vội vàng vàng làm cơm nắm từ cơm còn thừa hôm qua, rán xúc xích, trứng cuộn cho vào hộp cơm rồi đặt cả vào ba lô. Đáng lý ra cô đã có thể xoay xở đến kịp giờ tập trung tại nhà trẻ, nhưng đúng lúc vừa chuẩn bị bước ra khỏi nhà thì Tomoya kêu toáng lên “Đi ị!”. “Đến nhà trẻ rồi hẵng đi con?” “Không được đâu mẹ.” “Không nhịn được thật à?” “Ra quần mất mẹ ơi!” Tomoya đứng ngay tại chỗ, tụt một lúc cả quần dài và quần sịp xuống. Hiroko thẫn thờ nhìn theo cặp mông như hai trái đào của thằng bé biến mất vào toilet. “Tại sao ban nãy không đi hả con?” Hiroko rên rẩm như sắp khóc tới nơi trước cửa nhà vệ sinh. Ấy vậy mà Tomoya nói vọng ra, chẳng tỏ vẻ sốt ruột gì: “Nhưng mà bây giờ con mới buồn thì biết làm thế nào được?” Thằng bé ở trong nhà vệ sinh lâu thật lâu. Đến lúc xong xuôi cũng phải mất tận sáu phút, xỏ quần sịp rồi quần dài vào lại mất thêm một phút nữa. Khi hai mẹ con tới được nhà trẻ thì lớp Hoa Ly đã khởi hành tới ga Otsuka mất rồi. “Nếu nhanh lên khéo vẫn kịp giờ tàu chạy đấy!” Nghe giáo viên ở lại trực nói thế, Hiroko cúi gập đầu cảm ơn, đoạn cầm tay Tomoya lao ra khỏi nhà trẻ. Cô hối hận vì đã không đi xe đạp, nhưng bây giờ về chung cư lấy xe thì lại muộn quá. Hôm nay bọn trẻ đi dã ngoại tại công viên Otomeyama ở Mejiro. Nếu không bắt kịp tàu ở ga Otsuka chắc Hiroko phải tự đưa con ra tận đó mất. Như thế thì sẽ muộn giờ làm. Dữ liệu phải có trong sáng sớm nay nên tối qua Hiroko thức khuya giải quyết cho xong, chính vì thế cô mới ngủ dậy muộn để rồi mọi sự thành ra nông nỗi này. Nhỡ không kịp giờ họp nữa thì... Cô đúng là kẻ dở hơi điển hình. Tâm trí ngổn ngang nên Hiroko chẳng còn hơi sức đâu để tâm đến người đàn ông kia nữa. Đàn ông có bộ dạng dị hợm bây giờ có phải chuyện hiếm đâu. Nhất là ở cái đất Tokyo này, nếu cứ ngạc nhiên về mấy chuyện con con kiểu đó chắc thần kinh cũng chẳng trụ được lâu. Kể cả có bận đồ như samurai hay hóa trang thành Godzilla đi lại trên phố thì cũng chẳng phải chuyện phạm pháp gì. Có khi anh chàng kia đang đóng phim dã sử ở một ngôi đền quanh đây cũng nên. Mà thực ra Hiroko cũng chẳng biết rõ liệu có đền chùa gì gần đây hay không. Buồn thay, tất cả những việc Hiroko thầm mong sẽ tránh được đều biến thành sự thực hết. Chỉ có Tomoya cứ nghĩ mẹ cũng đi dã ngoại cùng mình nên hớn hở vui sướng lắm. Chẳng bù cho tâm trạng của mẹ nó bây giờ đang đục ngầu như bùn ở vịnh Tokyo. Bị sếp mắng, Hiroko lại khúm núm cúi đầu xin lỗi, đến giờ nghỉ trưa cũng chẳng thiết ăn uống gì. Nhưng có buồn nữa thì công việc cũng chẳng vơi đi cho. Khi nhận ra thì việc phải xử lý đã lại dồn đống như núi. Mà cũng chẳng làm thêm giờ được vì còn phải đi đón Tomoya. Sao một ngày lại ngắn như thế được nhỉ. “Đi làm thì muộn mà đi về đúng giờ thế?” Hiroko rời công ty với câu nói mát mẻ của sếp văng vẳng bên tai. Cô lết đôi chân mỏi mệt, một lần nữa đứng trước sân ga Otsuka. Người đàn ông kỳ lạ ban sáng đã hoàn toàn biến mất khỏi tâm trí Hiroko. Trước khi tới ga cô có tạt qua siêu thị Tomiya để mua há cảo, rau diếp, bánh flan hiệu Pucchin và sữa tươi nhưng anh chàng kia đã không còn ở đó nữa. Hiroko cũng chẳng hề nhớ tới anh ta. Trước khi mở cổng nhà trẻ, Hiroko giấu tạm túi đồ cô mới xách về từ Tomiya vào bụi cây rậm rạp gần đấy. Ghé mua đồ trước khi đón con tiện hơn nhiều thật, nhưng vẫn là trái quy định. Nhưng nếu tuân thủ đúng quy định, Hiroko sẽ phải dắt con từ nhà trẻ vòng lại Tomiya. Chưa kể cô cũng không thích thú gì viễn cảnh bị Tomoya vòi vĩnh đòi mua kẹo hình nhân vật yêu thích. Phát hiện ra mẹ đang đứng đợi trên sân trường, Tomoya liền chạy như bay tới. Thằng bé tíu tít “Con chào mẹ ạ”, rồi ôm chầm lấy cô. Trong giây phút ấy, bao nhiêu mệt mỏi tích tụ trong Hiroko bỗng dưng tan biến hết cả. “Hôm nay đi dã ngoại có vui không con?” “Vui lắm mẹ ạ!” “Vui chừng nào?” Tomoya dang hai cánh tay ra, hào hứng nói “Mẹ mà đi cùng thì còn vui nữa cơ”. Hiroko chỉ còn biết gượng cười. Hai mẹ con nắm tay nhau, cùng đi bộ quãng đường từ nhà trẻ về chung cư mất tầm năm phút. Đến nửa đường, Tomoya rủ mẹ chơi trò đuổi bóng*. “Để tôi đây làm quỷ mẹ nhé.” ... Mời các bạn đón đọc Thợ Bánh Samurai của tác giả Araki Gen.