Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hãy Làm Người Biết Lắng Nghe

Lắng nghe là cả một nghệ thuật. Đó không chỉ đơn thuần là nghe qua. Nó đòi hỏi người nghe phải biết chủ động trong buổi nói chuyện cũng như biết cách kết hợp một số kĩ năng và kĩ thuật nhất định. Dưới đây là một vài mẹo vặt và những phương pháp bạn có thể áp dụng để trở thành một người biết lắng nghe thực sự, một người mà người khác luôn muốn trò chuyện.   Trong cuộc sống, có những điều tưởng chừng như rất nhỏ mà ta thường dễ bỏ qua, nhưng nếu để ý thì chúng ta lại thấy rằng nó có một ý nghĩa vô cùng lớn. Và lắng nghe là một trong những điều như thế. Vì vậy, mỗi người chúng ta hãy cố gắng học cách lắng nghe để có thể trở thành một người biết lắng nghe. Điều này sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong cuộc sống. *** CHA ĐỪNG ĐI NỮA Một cô giáo nhiều năm đảm nhiệm chức chủ nhiệm lớp nói rằng, hội phụ huynh, nhưng thực tế mỗi lần họp phụ huynh, số bà mẹ luôn nhiều hơn số các ông bố rất nhiều, trong mắt bà, “Hội phụ huynh” nên gọi là “Hội các bà mẹ” mới chính xác. Khi đến thăm các gia đình, cũng rất hiếm khi gặp gỡ cha của các em, phần lớn thời gian là các bà mẹ tiếp cô giáo, cùng trao đổi tình hình học tập của con cái. Có thời gian mấy năm liền bà đảm nhiệm chủ nhiệm lớp một, hội phụ huynh đã tổ chức họp phụ khuynh vô số lần, và bà cũng đến thăm gia đình rất nhiều lần, nhưng có khá nhiều ông bố bà chưa từng gặp. Một tài liệu nghiên cứu cho biết, Trung tâm Nghiên cứu Thiếu niên nhi đồng thành phố Thượng Hải từng làm một đề tài về “Mong muốn của nhi đồng”, trong phiếu điều tra, các cháu bé khi được hỏi “Điều trong lòng mình nghĩ muốn nói cho ai nghe nhất”, số chọn người cha chỉ có 7%, trong khi tỉ lệ chọn người mẹ lên cao đến 61%. Nhưng mà vấn đề tương tự: “Nếu như đã có tâm sự, bạn muốn thổ lộ với ai?” trong khi hỏi 200 học sinh của thành phố Án Sơn tỉnh Liêu Ninh, 58% học sinh muốn đem tâm sự nói với người bạn tốt nhất đầu tiên, 18,9% chọn nói với mẹ, mà chỉ có 4% chọn cách thổ lộ với bố. Cũng giống như ở Án Sơn, có người đã đưa ra một tập câu hỏi điều tra đến phụ huynh của những đứa trẻ mẫu giáo: “Trách nhiệm của cha mẹ đối với nhiệm vụ giáo dục con cái là ai?” Trong một lớp có 41 đứa trẻ thì: chọn “người cha gánh vác trách nhiệm” có 6 em, chọn “ông bà” có 5 em, chọn “người khác” có một em, còn lại đều chọn “người mẹ gánh vác trách nhiệm chủ yếu”. Ngày 13 tháng 2 năm 2006, câu lạc bộ hội phụ huynh đầu tiên của thành phố Án Sơn được thành lập. 50 đại biểu phụ huynh nhận được lời mời tham gia hoạt động ngày hôm đó, trong đó chỉ có 9 ông bố tham gia, nhưng họ quá giữ ý, rất ít hoạt động, phần lớn thời gian các bà mẹ đưa ra các câu hỏi. Từ đó chúng ta có thể thống kê, tại các loại hình hội phụ huynh, các hoạt động của người thân của bọn trẻ, đón tiếp ở gia đình hoặc những bài giảng giáo dục trong gia đình, hoạt động nhiều nhất của người cha không vượt quá ba phần mười số các phụ huynh trong gia đình. Vậy người cha đang làm gì? Khi việc quản lý giáo dục trong gia đình, tham gia các hoạt động đều giao cho người mẹ? “Bố nó hầu như không chăm sóc con cái, từ nhỏ đến lớn đều một tay tôi lo lắng”. Đây là lời bà mẹ của đứa trẻ 13 tuổi, điều này đã cho thấy tình trạng giáo dục trong tuyệt đại đa số các gia đình. Cũng có thể nói rằng, các ông bố rất hiếm khi bỏ công sức để ở bên cạnh con cái. Một đứa trẻ học hết lớp ba nói, công việc của cha bận, trong nhiều năm nay thường vào buổi tối khi cậu đã đi ngủ rồi cha cậu mới trở về nhà, mà buổi sáng khi cậu đi học, cha cậu vẫn chưa ngủ dậy. Đến cuối tuần, cậu cũng rất ít khi gặp cha. Bởi vậy, từ những ngày đi học, đối với việc học khi cần phụ huynh, cậu đều tìm đến mẹ. Những việc khác, cũng đều nói với mẹ. Cậu bé than thở: “Cháu cần một ông bố để làm cái gì? Cứ như là không có vậy!” “Người cha không chăm sóc con cái”, ở các nước Phương Đông dường như đã trở thành một hiện tượng phổ biến. Các ông bố vì sao lại không “nhiệt tình” đối với việc giáo dục con cái như vậy? Thứ nhất, do họ chịu một số ảnh hưởng của quan niệm truyền thống “Nam lo việc xã hội, nữ lo việc gia đình”. Cho dù hiện nay phụ nữ và nam giới cùng ra bên ngoài làm việc như nhau, thế nhưng khi về đến nhà, mọi việc trong nhà vẫn như xưa là do người phụ nữ lo lắng và chủ trì, bao gồm việc chăm sóc gia đình con cái. Do vậy, rất nhiều người nghĩ rằng: quản lý con cái là việc của các bà mẹ, trách nhiệm chủ yếu của người cha là kiếm tiền nuôi gia đình, vì con cái mà tạo ra một môi trường lớn lên tốt, lo lắng tốt cho con cái những chuyện to tát khi lớn lên, vì con cái mà gánh vác trách nhiệm nặng nề. Người đàn ông có quan điểm như vậy, không biết chủ động quan tâm chăm sóc con cái; mà người phụ nữ cũng có quan điểm như vậy, sẽ ngăn cản việc người cha quan tâm chăm sóc con cái, mà là thúc giục người đàn ông đi làm “đại sự”, “chính sự”. Rất nhiều người đã làm cha cho rằng việc nuôi dưỡng gia đình và con cái là việc của người phụ nữ, cho nên đem trách nhiệm giáo dục con cái phó mặc hết thảy cho mẹ chúng. Từ góc độ người phụ nữ mà nói, từ ngày mang thai, rất nhiều phụ nữ dường như đã không muốn các ông chồng nhúng tay vào việc giáo dục con cái, vô hình chung nhận hoàn toàn trách nhiệm giáo dục về mình. Nhà nghiên cứu tâm lí học Đông Tử nói: Tôi đã từng cùng một vị trí thức thảo luận về vấn đề giáo dục gia đình, thấy ông ta có rất nhiều kiến giải, thế là cổ vũ tôi có thời gian viết một cuốn sách về phương diện này, đem những kiến giải của mình công bố cho nhiều vị phụ huynh hơn. Thế nhưng vị trí thức này nhíu mày nói: “ừ, tôi nói thế thôi, không có ý gì đâu. Những kiến giải này của tôi trong gia đình đều không có ai coi trọng, còn có thể được người ngoài coi trọng sao?” Tôi cảm thấy kỳ lạ, ông ta giải thích, trong gia đình, vợ không để cho ông lo vấn đề giáo dục con cái, có những lúc ông muốn nói mấy câu, bà vợ còn không để cho ông nói. Ông ta tự chế giễu mình nói: “về phương diện quản lí và giáo dục con cái, trong gia đình tôi bày đầy một giá toàn là sách. Bà vợ còn tặng tôi một câu ví von rất xác đáng: Trong nồi đầy những bong bóng cá”. Thứ hai, chịu ảnh hưởng của đặc điểm sinh lý. Về mặt dưỡng dục con cái, vì nguyên nhân về mặt sinh lý, nhất định người vợ cũng phải bỏ ra nhiều công sức hơn so với người chồng. Kéo dài thời gian xa hơn một chút, tính từ khi đứa con bắt đầu ở trong bụng người mẹ, có vẻ như không có chuyện của ông bố. Người mẹ 10 tháng mang thai, mang nặng đẻ đau, trong khi ông bố khi cần làm việc thì làm việc, khi cần vui chơi thì vui chơi. Thi thoảng nhàn rỗi ghé sát vào bụng vợ nghe xem động tĩnh của bé cưng, sờ vào cái bụng tròn của vợ cảm nhận tình cảm nồng ấm của bé cưng. Dưa chín thì rụng, khi đứa trẻ ra đời, có thể trong tháng đầu chăm sóc đứa trẻ, giặt tã lót cho uống sữa... một loạt tình cảm đều có một người chuyên giúp việc nếu người cha xắn tay áo giúp đỡ, cũng sẽ có người ngăn trở: “Tránh ra, người cha sao phải làm việc này?” Đứa trẻ dần dần lớn lên biết bò rồi, biết chạy rồi, biết gọi bố gọi mẹ rồi, biết hát rồi, đi nhà trẻ rồi, đi học tiểu học rồi... Phục vụ tất cả việc ăn uống vệ sinh ngủ nghỉ, có mẹ chăm sóc, không có bố, dường như đều sẽ không sao cả. Cho nên dân gian có câu nói rất phổ biến: “Yên ổn theo mẹ có cơm ăn, không theo cha làm quan”. Ý nghĩa của câu nói dưới đây rất rõ ràng, cần có cơm của mẹ mới chăm sóc tốt cho con, cha đi làm quan lại có khả năng con cái bị đói rét. Có như vậy, bởi vì từ khi mang thai cho đến khi đứa trẻ sinh ra lại đến khi dần dần lớn lên, về phương diện chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục của người cha nếu như không chủ động tiếp cận như trước đó chủ động chia sẻ gánh nặng giúp vợ, lâu dần, sẽ hình thành một thứ định hình tư duy: con cái đến khi lớn lên, không muốn cha chăm sóc. Những ông bố này sẽ cho rằng, trong giai đoạn này, người làm cha chỉ lo chuyện kiếm tiền nuôi gia đình; thời kỳ phát huy tác dụng tốt nhất, là sau khi con cái lớn lên thành người, vì những việc lớn trong cuộc sống của nó đưa ra các hoạch định. Thứ ba, chịu ảnh hưởng một số nhân tố khách quan. Ví dụ công việc rất bận, tiếp khách quá nhiều, không có thời gian tham gia vào công việc giáo dục con cái. Có người cha, từ khi đứa con ra đời đến lúc tròn 6 tuổi, thời gian ở bên con cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong tình hình như vậy, công việc giáo dục con cái chỉ có thể dựa vào người mẹ, muốn giúp đỡ cũng không giúp được. Một ông bố từ hai bàn tay trắng làm nên một công ty kinh doanh quy mô lớn, khi nói đến việc giáo dục con cái thì vô cùng ấm ức: “Mẹ đứa trẻ luôn phàn nàn tôi không trông nom bọn trẻ, anh nói xem tôi trông nom thế nào? Đến ăn cơm điện thoại còn không dứt, làm gì có thời gian mà hỏi đến việc của bọn trẻ? Chỉ muốn bận rộn mấy năm, khi đã có cơ sở nhất định, tôi sẽ có thể thoải mái một chút, khi đó con cái đã lên đến cấp hai, tôi lại trông nom nó cũng chưa muộn. Thêm nữa, tôi có tiền gửi con ở nhà trẻ tốt nhất, trường tiểu học tốt nhất, giúp nó tìm trường trung học tốt nhất, làm như vậy có thể nói tôi không trông nom sao được”. Ngược lại, đối với sự giải thích bình thường đó của bố, trong suy nghĩ của con trẻ lại là: “Bố chỉ biết công việc bận bố, cháu trong mắt của bố chẳng là cái gì cả. Hình ảnh cháu nhìn thấy mỗi ngày đều là hình ảnh bố bận rộn, cháu đã quên cảm giác sà vào lòng bố là như thế nào rồi. Cháu thường muốn rằng, đợi đến khi bố có thời gian rảnh rỗi, muốn bố cùng vui chơi vui vẻ với cháu, thế nhưng cháu không biết khi nào bố cháu lại sẽ có thời gian. Không có cách nào, chỉ đành để mẹ cùng chơi. Cháu cảm thấy trong lòng bố hình như không có cháu. Thà rằng cháu không đến học bất cứ trường tốt nào, tiêu ít tiền của bố đi, để hi vọng bố có thể cùng chơi với cháu nhiều hơn”. Kỳ thực, có rất nhiều đứa trẻ có sự than vãn như vậy. Khi hỏi một số đứa trẻ, buổi tối không đợi đến lúc bố trở về nhà thì đã đi ngủ rồi chiếm tỷ lệ rất lớn. “Có thời gian mấy ngày cháu không “gặp mặt” bố”. “Bố trở về nhà không buồn đáp lại lời cháu, rồi đi vào phòng ngủ”. Cháu có chuyện muốn nói với bố, bố lúc nào cũng xua tay: Đi đi đi, ngày mai nói...” đây là một đoạn văn của một học sinh viết trong bài văn. “Người cha” thực sự đã đi mất rồi sao?” “Người cha” bận việc ở cơ quan, tan ca bận tiếp khách, cuối tuần bận đánh bài, bận học thêm, bận chơi cổ phiếu, bận tụ hợp, những ngày nghỉ đi tìm niềm vui ở bên ngoài, hoặc là ngủ một giấc dài để sau kì nghỉ tiếp tục công việc... Cho nên, việc giáo dục trong gia đình, “người cha” luôn vắng mặt... Sư thiếu vắng cha là một nỗi đau Minh 14 tuổi học cấp hai, cao hơn 1 mét 8, là nam sinh cao nhất trong lớp, cũng là học sinh nam thường làm thầy giáo phiền lòng. Mối quan hệ của cậu với mọi người trong lớp đều không tốt. Vì vậy mọi người đều cảm thấy cậu không có tác phong của cậu con trai, cậu nói năng nhỏ nhẹ, tính tình còn nhỏ nhen, làm gì cũng giống như một cô gái tính tình ẻo lả, để các bạn nam coi thường và không muốn chơi cùng cậu. Các bạn nữ trong lớp thì thích lấy cậu ra làm trò cười, không có chuyện gì lại giở trò trêu chọc rồi cười ầm lên. Minh trong lòng rất tức giận, thế nhưng cậu chỉ đành biết nhẫn nhịn. Thậm chí, có lúc có người cố ý bắt nạt cậu, cậu cũng cố gắng không chống lại, bạn nam học cùng lớp đánh đạp, cậu cũng chỉ đành né tránh. Gặp phải những ấm ức ở trường, sau khi về nhà Minh vô cớ trút giận lên đầu mẹ. Từ lúc tan học đến khi về nhà, cậu không nói với mẹ một lời tử tế nào, ngược lại còn nói những lời không hay, thức ăn mẹ nấu không hợp khẩu vị, mua thứ hoa quả cậu không thích ăn... Tóm lại, dường như mọi việc mẹ làm cậu đều khó chịu. Mẹ cậu hết sức khổ sở làm mọi cách cho cậu hài lòng. Vì sao ở trường Minh lại nhu nhược, khi về nhà thái độ, tính cách lại khác biệt như vậy? Mẹ Minh cho rằng nguyên nhân là bản thân bà quá nuông chiều con cái. Vì bố của Minh quá bận rộn, từ khi nó chào đời ông thì không chăm sóc không hỏi han đến, tất cả đều là mẹ lo liệu. Mà bà mẹ này 35 tuổi mới có đứa con, vì vậy đặc biệt yêu quý cậu, cứ như là ngậm ở trong miệng sợ mất, nắm ở trong tay sợ rơi. Không chỉ chăm bẵm về cái ăn cái mặc, mà bất kỳ cái gì có thể thỏa mãn con cái, bà sẽ gắng tìm kiếm khắp nơi, cứ như là gà mẹ, dang rộng đôi cánh, che chở bao bọc cho đứa con. Có thời gian Minh đi chơi với bạn ở bên ngoài, bị bắt nạt về nhà mách, mẹ lập tức đi tìm phụ huynh của kẻ bắt nạt con mình để phân tích đúng sai. Thói quen này tiếp tục cho đến hiện nay, không kể Minh đã cao hơn 1 mét 8, chỉ cần nghe nói con ở trường bị bắt nạt bà mẹ con không nói một lời liền chạy đến trường tìm giáo viên trút giận, ăn thua với bọn trẻ. Cứ như vậy, do bà mẹ “giống như gà mẹ” bảo vệ, con cái sẽ ỷ vào mẹ nhưng lại rất xem thường mẹ. Có thể nói, Minh là trường hợp điển hình của đứa trẻ thiếu sự giáo dục của người cha. Như những ví dụ đã đề cập ở trên, các ông bố có đủ mọi lý do, sau khi cho đứa trẻ sự sống, liền để nó vào trong bụng bà mẹ, do bà mẹ toàn lực chăm sóc đứa trẻ. Giáo dục trong gia đình, sự thiếu vắng “người cha”, trong cách nhìn của người cha dường như không quan trọng, dẫu không có sự quan tâm sâu sát của người cha, đứa trẻ vẫn cứ lớn lên. Thế nhưng, trong thế giới của đứa trẻ, đó là sự thiếu vắng tình yêu, chỗ dựa vững chắc của người cha. Có ông bố khi thấy câu nói này có thể sẽ có ý kiến, tôi chỉ không quản lý giáo dục con cái, không thể nào mà nói con cái “thiếu tình yêu thương của người cha”, vì tôi vẫn yêu thương con cái của mình. Chính vì yêu thương con cái, tôi mới đầu tắp mặt tối kiếm tiền, tạo ra những điều kiện lớn lên tốt nhất cho con cái chứ! Đúng vậy, không sai! Không có ông bố nào lại không yêu thương con cái của mình. Đừng quên rằng, từ góc độ của con trẻ, bạn thực sự yêu thực yêu thương con cái, nhưng bạn phải để cho con cái cảm thấy, nếu không đó chính là “sự thiếu thốn tình yêu”. Quá trình trưởng thành trong “thiếu thốn tình yêu thương của người cha” sẽ như thế nào? Trường hợp Minh là một ví dụ, và nó sẽ còn để lại muôn vàn vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển thể xác và tinh thần. Thứ nhất, sự mờ nhạt và thiếu vắng vai trò của người cha, sẽ làm cho tâm lý đứa trẻ cảm thấy không an toàn. Bởi vì, người cha trong con mắt của đứa trẻ đại diện cho những lực lượng siêu nhiên và chỗ dựa vững chắc. Đặc biệt là thời ấu thơ, nhiều đứa trẻ xem người cha như những thần tượng trong mắt chúng. Thời kì còn nhỏ, khi được hỏi ai là người anh hùng trong lòng, tuyệt đại đa số bọn con trai có sự che chở và tình yêu thương của người cha đều sẽ nói, “Cha cháu”. Khi đứa trẻ còn nhỏ, thậm chí là cả cuộc đời, người cha đều có thể là “anh hùng” trong lòng đứa trẻ. Nhưng nếu như không tồn tại hình tượng người anh hùng này, sẽ rất dễ để lại sự trống rỗng trong lòng đứa trẻ trong thời kỳ có tính then chốt trong sự hình thành tính cách đứa trẻ. Cho nên nếu như đứa trẻ không cảm thấy sự mạnh mẽ của người cha, không cảm thấy sự có thể dựa vào bờ vai người cha, như vậy tâm lý đứa trẻ sẽ cảm thấy không an toàn. Cha của Cường đi công tác ở Nga từ khi cậu 4 tuổi, trong thời gian 9 năm mới đảo qua nhà một lần. Nếu như ông bố không thường gửi ảnh về, cậu chắc sẽ quên hình dáng ông bố. Những ngày không có bố không ở bên cạnh, cậu và mẹ dựa vào nhau mà sống. Sức khỏe của mẹ không được tốt lắm, thỉnh thoảng trong nhà treo chai nước truyền lủng lẳng. Mỗi lần tan học đẩy cửa về nhà, đến bên giường mẹ nằm, bên cạnh giường treo chai nước, em đã rất hoang mang, không biết nên làm gì. Mỗi khi đến lúc đó, cậu lại gọi điện cho bố, nghe thấy lời bố nói trong lòng mới yên tâm một chút. Mẹ mở cửa hàng ăn, Cường tan học nếu có thời gian liền chạy đến quán ăn giúp mẹ. Thỉnh thoảng gặp phải những người đến uống rượu rồi làm ầm lên, nhìn thấy mẹ bị người ta ức hiếp, Cường luôn cảm thấy sợ hãi. Cậu thường nghĩ: Nếu như có bố ở đây thì thật tốt. Hoặc là cắn răng tự nhủ với mình: Mau mau lớn lên, có thể bảo vệ được mẹ! Sống với trạng thái tâm lý này trong một thời gian dài, Cường dần dần trở nên trầm cảm. Ở trường học, khi có mâu thuẫn nhỏ gì cùng bạn học, cậu sẽ biểu hiện rất cực đoan, trông có vẻ rất hung dữ. Thầy giáo tìm cậu nói chuyện, cậu nói, cậu cho rằng bạn học ức hiếp cậu, cậu cần phải tự bảo vệ mình. Kỳ thực, tính cách của cậu là bởi vì tâm lý cậu có cảm giác không an toàn. Trong cách nhìn của cậu, cậu là nam tử hán duy nhất trong gia đình, cậu cần đảm nhận trách nhiệm bảo vệ mẹ và trách nhiệm tự bảo vệ mình. Có thể là tuổi của cậu rất nhỏ, tự mình cậu cảm thấy mình không đủ lớn, cho nên luôn ở trong trạng thái lo lắng. Điều này không tốt cho sự trưởng thành của cậu. Thứ hai, con cái thiếu tình yêu thương của cha sẽ cảm thấy lo lắng và cô đơn. Phần lớn những tư liệu nghiên cứu chứng tỏ rằng, con cái ít gần gũi bố, tồn tại những trở ngại tình cảm như lo lắng, lòng tự ái không cao, cô đơn. Có nhà tâm lý học chỉ ra rằng, khi thiếu tình yêu thương của người cha đến một mức độ nào đó, đứa bé trai có khả năng sẽ gặp phải “hội chứng thiếu hụt tình yêu của người cha”. Tức là đến thời kỳ thanh niên, đứa bé trai thiếu vắng tình yêu của người cha thường lánh xa thậm chí căm ghét người cha, sự xa lánh và căm ghét này hòa với nhau do sự thất vọng và lãnh đạm trong tình yêu của người cha. Cậu mù quáng đi thử nghiệm những biện pháp có thể bổ cứu, như hút thuốc, uống rượu, thậm chí chơi bời phóng túng và nghiện ngập. “Chứng bệnh tổng hợp về sự thiếu tình yêu thương của người cha”, được các chuyên gia Mỹ tổng kết tiến hành điều tra gồm 30 chỉ tiêu về hành vi xã hội đối với cuộc sống của những gia đình những đứa trẻ không có bố, phát hiện loại trẻ em này có các hành vi phiền muộn, cô đơn, tính tùy tiện, ỷ lại... tương đối phổ biến. Việt Hoàng 5 tuổi gần đây rất quấy, thường nôn nóng không yên, thường hay cáu kỉnh, đạp phá đồ chơi, khóc to, thở không ra hơi. Buổi tối thường nằm mơ thấy ác mộng, nhiều lúc đang ngủ giật mình tỉnh giấc, sau đó khóc to không dứt. Mọi người trong nhà rất lo lắng, không biết đứa bé bị làm sao. Mấy lần đưa bé đến bệnh viện kiểm tra, điều kì quái là, kiểm tra tất cả các phương diện, đều không có vấn đề gì. Trong khi ông nội bà nội đang rất lo lắng, thì cháu bé phản ánh một vấn đề, nức nở khóc lóc, rồi hỏi: “Tại sao bố luôn vắng nhà? Bố có yêu quý cháu không? Bố không cần cháu!” Mọi người lúc này mới vỡ lẽ, bố cậu bé một năm gần đây do bận làm ăn, ngày nào cũng sáng đi tối về, con cái hầu như không được gặp mặt bố, chỉ thỉnh thoảng nói chuyện mấy câu với bố qua điện thoại. Tình trạng của cháu chính là vì thiếu vắng sự yêu thương của người cha dẫn đến tâm lí xáo trộn khác thường. Thứ ba, con cái thiếu tình yêu thương của cha sẽ dễ sinh ra hành vi tấn công bạo lực, thậm chí dẫn đến con đường phạm tội. Xác suất của hiện tượng này đối với các bé trai càng cao. Nhà tâm lý học của Đại học Havard William Pollack giải thích, người cha đóng vai trò then chốt về phương diện giúp người con trai khống chế tình cảm của mình. Trong tình hình không có người cha, thiếu kỉ luật giáo dục và sự giám sát đôn đốc đối với con cái, cơ hội để đứa thiếu hụt sự giáo dục làm người con trai thế nào. Không có người cha chỉ đạo và dẫn đưa, bé trai gặp phải sự chèn ép thường dẫn đến các loại hành vi bạo lực và các loại hành vi chống lại xã hội. Hiện tượng này không chỉ xảy ra đối với con người, trong một công viên quốc gia ở tây bắc Nam Phi, nhân viên quản lý báo cáo, mấy năm gần đây, những con voi nhỏ trở nên ngày càng nóng nảy, đặc biệt hung hăng đối với tê giác trắng. Trong tình huống không gặp phải sự khiêu khích, một con voi sẽ đánh ngã con tê giác, sau đó giẫm chết nó. Hành vi này mọi người rất ít khi nhìn thấy, nguyên nhân của nó rất khó đưa ra lời giải thích. Sau đó nhân viên quản lý công viên đã tìm ra đáp án. Đáp án của họ chính là, hành vi tấn công này là do cách làm của chính phủ thông qua việc giết chết số voi già để giảm thiểu số lượng voi quá lớn. Có lẽ tất cả số voi con trong thời gian ngắn đều trở thành mồ côi, chúng mất đi cơ hội gần gũi với những con voi trưởng thành. Trong tình hình bình thường, voi đực trưởng thành sẽ nuôi dưỡng tốt số voi con đó, đồng thời là kiểu mẫu cho chúng. Trở về sau khi đã không có ảnh hưởng đó, hiện tượng “thanh thiếu niên phạm tội” phát sinh lan tràn trong đàn voi, khiến cho “hàng xóm” của chúng cảm thấy không khác gì khủng bố. Tuy nhiên áp đặt hành vi của động vật để giải thích hành vi của con người là thiếu tính khoa học, thế nhưng cho dù đối với động vật hay là đối với người, “Thiếu sự giám sát đôn đốc và quản thúc kỉ luật trong thời kỳ đầu, thường sẽ mang đến hậu quả tai hại”. Kết luận như thế này là không hề sai. Cho nên có người nói: “Để một đứa bé trai và ở cùng một người đàn ông thích hợp, đứa bé trai này sẽ không đi vào con đường tù tội”. Hơn nữa, còn có nhiều số liệu chứng minh, đứa trẻ không có tình yêu thương của người cha càng dễ phạm tội. Theo một chương trình điều tra của Mỹ cho thấy: Mặc dù chỉ có 20% số trẻ vị thành niên cả nước trong các gia đình chỉ có bố hoặc mẹ, nhưng có đến 70% thiếu niên phạm tội xuất thân từ các gia đình này, 60% trọng phạm toàn quốc, 72% thiếu niên phạm tội giết người, 70% phạm nhân lao dịch thời gian dài đến từ các gia đình không có bố, 90% số trẻ em không có nhà cửa và bỏ nhà đi bụi đến từ các gia đình không có bố. Trung tâm cai nghiện có 75% số thanh thiếu niên nghiện hút đến từ các gia đình không có bố. Thứ tư, thiếu tình yêu thương của người cha rất tạo nên việc hình thành nhân cách một cách méo mó, thậm chí nảy sinh tâm lý bệnh hoạn. Các nhà tâm lý học cho rằng, người cha có vai trò vô cùng quan trọng đối với con trai trong quá trình hình thành nhân cách lành mạnh, trên thực tế nghiêm khắc bồi dưỡng con cái đồng nghĩa với quyền uy, pháp luật, hay chính là gia phong. Gia đình không có tình yêu thương của người cha sẽ mất đi cơ hội tiếp thu loại giáo dục này, bồi dưỡng kiện toàn nhân cách. Đứa trẻ lớn lên trong hoàn cảnh gia đình này thiếu đi sự nhận biết về quyền uy và pháp luật, càng không muốn chấp nhận sự ràng buộc, sẽ xuất hiện hành vi đối kháng, không tuân thủ pháp luật. Đồng thời, đứa trẻ thiếu tình yêu thương của người cha cũng sẽ biểu hiện đặc điểm thiếu sự dũng cảm và quyết đoán. Thứ năm, đứa bé trai thiếu tình yêu thương của người cha, dễ hình thành tình cảm quyến luyến quấn quýt người mẹ. Tùy theo sự lớn dần lên từng ngày của đứa trẻ, loại tình cảm quyến luyến này sẽ có thay đổi, dẫn đến đứa bé trai dù lớn lên thành chàng trai rồi, làm cái gì cũng đều không tách rời mẹ, thiếu sự cứng cỏi. Trường hợp nghiêm trọng, sau khi đến tuổi trưởng thành về mặt tâm lý, đối với người mẹ nảy sinh một loại tình cảm luyến ái vượt quá tình cảm theo quan hệ huyết thống hoặc ham muốn độc chiếm, có người vì vậy đã ảnh hưởng đến cuộc sống yêu đương và hôn nhân bình thường, cả cuộc đời đau khổ sầu não. Tóm lại, “Thiếu đi tình yêu thương của người cha là một loại thiếu hụt và mất cân bằng trong tình cảm của nhân loại”. Vì vậy, có thể nói, thiếu đi “người cha”, là nỗi khổ riêng trong giáo dục gia đình, là sự thiếu vắng tình cảm mà đứa trẻ cả đời cũng không bù đắp được. Mời các bạn đón đọc Hãy Làm Người Biết Lắng Nghe của tác giả Chử Đình Phúc & Hạnh Nguyên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Work-life Balance: Khi Người Trẻ Cần Cảm Hứng Và Kế Hoạch Để Theo Đuổi Sự Nghiệp
Bạn cảm thấy quay cuồng với cuộc sống? Công việc. Gia đình. Giấc ngủ. Bạn bè - tất cả đều quan trọng với bạn và bạn chẳng thể tìm đủ chỗ cho chúng trong 24 tiếng đồng hồ ít ỏi! Xin chào, bạn không phải là người duy nhất gặp khó khăn. Chúng ta đều có những lúc căng thẳng và mệt mỏi vì không thể cân bằng công việc với cuộc sống, đến mức cảm thấy tội lỗi nếu lỡ không hoàn thành được một việc gì đó trong danh sách những điều cần ưu tiên. Cuốn sách thông minh, tinh tế và đầy tâm lý của Randi Zuckerberg sẽ phá vỡ quan điểm không đáng có này! Bằng cách cung cấp phương pháp Bộ Ba Lựa Chọn và những lời khuyên đầy thực tiễn, Randi đặt vào tay người đọc bí quyết để sống cuộc đời tươi đẹp nhất, sắp xếp cuộc sống thật hiệu quả. Thông qua nhiều câu chuyện quản lý cuộc sống của những chuyên gia tại các công ty hàng đầu thuộc thung lũng Silicon, của những người mẹ mong muốn dành thêm thời gian cho gia đình, của những sinh viên mới ra trường luôn cố gắng kiểm soát mọi thứ, Randi đã truyền tải thông điệp: Đừng mong chờ sự cân bằng hoàn hảo, mà thay vì thế, hãy dám lựa chọn, gạt bỏ những kỳ vọng vô lý và tận hưởng những điều bạn thật sự trân trọng. Không chỉ phù hợp với những doanh nhân và lãnh đạo cấp cao, bộ công cụ có trong tác phẩm “Work-Life Balance” khả dụng với tất cả mọi người, đặc biệt là với những bạn trẻ - những người luôn cần cảm hứng và một kế hoạch sáng suốt để theo đuổi sự nghiệp.  Về tác giả: Randi Zuckerberg là doanh nhân, nhà văn, người có tiếng nói trong giới công nghệ. Cô là cựu giám đốc phát triển thị trường và phát ngôn viên của Facebook, chị gái của CEO Facebook Mark Zuckerberg. Randi thường xuyên được mời diễn thuyết về công nghệ, kinh doanh và nữ quyền trong kinh doanh trên khắp thế giới.  *** Tôi rất lấy làm hân hạnh khi được thấy các bạn, những người vốn đã rất tuyệt vời, trở nên hạnh phúc hơn, quyết tâm hơn và thậm chí, mạnh mẽ hơn. Bộ Ba Lựa Chọn đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi và tôi rất vui mừng được chia sẻ phương pháp này tới các bạn. Bằng cách chỉ tập trung làm tốt một số việc mỗi ngày, thay vì cố gắng hoàn thành mọi thứ (để rồi thất bại thảm hại), tôi đã có một cái nhìn khác về thành công và hạnh phúc. Tôi cũng đã trút bỏ được rất nhiều mặc cảm tội lỗi canh cánh trong lòng suốt nhiều năm qua. Bây giờ mỗi sáng thức dậy, tôi nhìn vào gương, và nói, “Công việc. Giấc ngủ. Gia đình. Thể dục. Bạn bè. Hãy chọn ba điều đi.” Hãy tin tôi đi, cách này hiệu quả đấy! Và bạn sẽ hiểu rõ hơn hiệu quả của nó khi đọc những trang tới. Tôi rất muốn biết Bộ Ba Lựa Chọn của bạn là gì. Hãy đăng lên các trang mạng xã hội với từ khóa #pickthree hoặc gắn thẻ tôi @randizuckerberg và cho tôi biết bạn đã học thêm được điều gì về bản thân, điều gì đã thay đổi nhờ vào Bộ Ba Lựa Chọn của bạn (với tôi, bây giờ đó là Công việc, Thể dục và Gia đình), và điều mà bạn muốn thay đổi. Những việc này sẽ buộc bản thân chúng ta phải nghiêm túc trong hành trình tìm kiếm một trạng thái sống thiên lệch hợp lý. Khoan đã, sao cơ? Hãy đọc tiếp nhé…  *** “Tôi thà chết vì đam mê còn hơn là sống trong nỗi buồn chán.” – Vincent van Gogh Năm nay, tôi đã tự hứa với bản thân sẽ thôi không mặc cảm tội lỗi về mọi thứ nữa. Mặc cảm tội lỗi vì chưa bao giờ hoàn hảo (hay thực sự là, không bao giờ hoàn hảo), mặc cảm vì không có một tủ quần áo chỉn chu nhất hay thân hình hoàn mỹ nhất, mặc cảm vì ăn quá nhiều tinh bột hoặc uống quá nhiều cà phê, mặc cảm vì đã đầu tư và mạo hiểm trong công việc nhưng không đem lại kết quả gì, mặc cảm vì không trả lời tất cả thư điện tử, mặc cảm vì không phải là người mẹ/người vợ/người bạn hoàn hảo. (Tôi cảm thấy mệt mỏi vì phải liệt kê tất cả những điều khiến tôi cảm thấy tội lỗi vô nghĩa như thế này.) Khi ngẫm nghĩ về lý do tại sao mình phải lãng phí quá nhiều quỹ thời gian vốn ngắn ngủi và quý báu trên thế gian này chỉ để xin lỗi về mọi thứ, tôi nhận ra rằng hành động này bắt nguồn từ sức ép mạnh mẽ muốn có tất cả, muốn làm tất cả, và muốn trở thành tất cả trong cùng một lúc. Bạn không thể trở thành tất cả trong mắt của mọi người, cho dù là học sinh, phụ huynh, ông chủ, nhân viên, người chồng/vợ, vận động viên, nghệ sĩ, người bạn trong lúc hoạn nạn, doanh nhân hay một người làm kiêm nhiệm nhiều nghề. Chúng ta đã được dạy là phải làm thật tốt tất cả mọi thứ để đạt được sự cân bằng xa vời và phi thực tế nào đó trong tất cả mọi việc thường ngày. Tôi sẽ đập tan thứ ảo tưởng đó! Tôi cho rằng quan niệm cân bằng cũng sai lạc, giống như người Scotland chính gốc chỉ biết nhảy điệu nhạc truyền thống của người Ireland vậy (bạn hiểu chứ, sự sai lạc ấy?). Tôi tin rằng việc cố gắng hoàn hảo hóa cuộc sống là nền tảng tai hại của một trong ba điều sau: Thất bại, những kỳ vọng phi lý, hoặc tệ hơn, SỰ TẦM THƯỜNG! Thật đáng sợ! Những người bạn yêu quý, những đam mê và ước muốn của bạn không nên bị gò bó trong việc bạn có thể cân bằng chúng như thế nào. Hãy thừa nhận đi, bạn không thể đạt được những điều quan trọng hay hữu nghĩa với mình bằng cách cố GIÀNH LẤY TẤT CẢ trong vòng 24 tiếng đồng hồ được. Cực kỳ áp lực! Nhắc tới việc giành lấy tất cả, mặc dù tôi rất ủng hộ triết lý sống “càng nhiều càng tốt”, nhưng xin thứ lỗi, “tất cả” không phải lúc nào cũng tốt hơn. Bạn đã bao giờ tham dự bữa tiệc đứng, nơi người ta được ăn uống thỏa thích trong 24 tiếng ở Vegas chưa? Sau 10 phần ăn, vào lúc 3 giờ sáng, liệu bạn có còn nghĩ rằng cố giành lấy tất cả là quyết định đúng đắn trong đời mình không? Bất cứ điều gì bạn muốn đạt được – công việc, gia đình, tình hình sức khỏe, đam mê cá nhân, một dự án cụ thể nào đó, đời sống xã hội cá nhân, hay bất cứ điều gì! – bạn phải ưu tiên cho nó bằng cách xếp ở đầu danh sách việc cần làm. Hết lần này đến lần khác, rồi lần khác, lần khác và lần khác nữa. Cân bằng ư? A! Tôi có một giả thuyết khác để thành công đấy! SỐNG THIÊN LỆCH HỢP LÝ Ý tưởng về việc kiểm soát tốt cách sống thiên lệch lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời tôi khi tôi nộp đơn vào đại học. Tôi là một thí sinh đầy tham vọng, hăng hái và quyết tâm tại trường trung học Horace Mann khá nổi tiếng ở Riverdale, New York. Giống như tất cả các học sinh trường tư khác ở New York, tôi nghĩ rằng đỉnh cao cuộc sống là được nhận vào Đại học Harvard. Ai đó có thể gọi đây là ÁP LỰC không!? Vấn đề là, tôi không phải là kiểu người mà bạn sẽ nghĩ đến khi nói tới Harvard. Có một năm, tôi đã phải học lại hai môn. Tôi không có điểm SAT hoàn hảo. Tôi không phải chủ tịch hội học sinh. Tôi không sáng lập tổ chức phi lợi nhuận nào hay thực tập tại các công ty nổi tiếng. Tôi không có bất cứ mối quan hệ hay vốn liếng nào. Thay vào đó, tôi là một kẻ đam mê sân khấu. Lớn lên, tôi suốt ngày ca hát hoặc làm việc trong nhà hát, bất cứ việc gì tôi có thể làm. Cả mùa hè của tôi dành để lưu diễn với một nhóm Opera bán chuyên. Tôi biểu diễn ở rất nhiều chương trình khác nhau trong năm. Tôi đã thực hiện một nghiên cứu riêng khi tham dự những buổi tổng duyệt các vở Opera tại Lincoln Center và viết bài luận cuối kỳ dựa trên những kết quả nghiên cứu đó. Tôi chọn khóa học thực hành nhạc lý nâng cao thay vì toán vi phân. Tôi đã bỏ môn khoa học vào năm cuối trung học để có thể tập trung nhiều hơn vào âm nhạc. Ước mơ của tôi là được biểu diễn ở Broadway, và nếu không thể biểu diễn ở Broadway được thì tôi sẽ điều hành Broadway. Dù cho gia đình rất ủng hộ tôi và kế hoạch cuộc đời của tôi, nhưng tôi cũng không chắc là họ tin rằng tôi sẽ được hát bài Fair Harvard*. Mẹ tôi nói bà đã cúi gằm mặt vì xấu hổ khi thầy Singer, giáo viên tư vấn hướng nghiệp ở trường trung học của tôi, hỏi trường nào là nguyện vọng I của tôi; và bà phải thú nhận nơi mà bà nghĩ là lựa chọn không tưởng: Harvard. Làm như tôi sẽ thực sự được nhận không bằng! Nhưng, để khuyến khích ước mơ của tôi, bà đã đưa tôi đi tham quan khuôn viên trường; tất nhiên, tôi đã yêu ngôi trường này. Từ những tòa nhà với lối kiến trúc cổ điển tuyệt đẹp đến những truyền thống và lịch sử, tôi thật sự RẤT MUỐN vào đó. * Ca khúc truyền thống của trường Đại học Harvard. Chúng tôi gặp nhân viên tuyển sinh, người đã nói điều mà tôi nhớ mãi. Những lời của cô ấy đã trở thành nền tảng cho cuốn sách này: “Randi”, nhân viên tuyển sinh đó nói, “Harvard tìm kiếm hai loại người. Một là những người giữ được sự cân bằng, và hai là những người kiểm soát tốt sự thiên lệch. Những sinh viên giữ được sự cân bằng sẽ đóng vai trò xương sống trong lớp học, nhưng những học sinh kiểm soát tốt sự mất cân bằng hợp lý mới là người khiến lớp học trở nên vô cùng thú vị.” Ôi chúa ơi, đó chính là tôi! Tôi đã nghĩ thế. Tôi là một trong những người sống thiên lệch hợp lý đó! Chín tháng sau, tôi nhận được phong bì dập nổi dày cộp của Harvard với lá thư mời nhập học khóa năm 2003! Cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với thế giới của sự thiên lệch đã thành công tốt đẹp! Ngay lúc ấy, tôi quyết định sẽ không chỉ lấy việc sống thiên lệch hợp lý làm phương châm, mà còn lan truyền những kiến thức và kinh nghiệm mà lối sống này đã giúp tôi nữa. Từ khoảnh khắc ngồi trong văn phòng tuyển sinh đó với tư cách một học sinh trung học đầy háo hức và mơ mộng, tôi đã quyết định theo đuổi đam mê của mình, trở thành một trong những người thú vị, và đào sâu tìm hiểu mọi thứ bằng cách tốt nhất có thể – tận hưởng giấc mơ được sống thiên lệch hợp lý. Khi chuyển từ đại học sang thế giới thực, tôi biết mình cần thứ gì đó để giúp quản lý khối lượng công việc dày đặc theo cách mà ứng dụng điện thoại không thể làm được. Tôi có rất nhiều sở thích bên ngoài, tôi đang làm một công việc có áp lực lớn, và chồng tôi với tôi đang cùng nhau xây dựng một gia đình. Căng thẳng đè nặng lên tôi. Ngay khi tôi nghĩ mình phải chịu thua trước áp lực và từ bỏ một vài thứ mình yêu thích, như giữ dáng hoặc đi xem kịch, tôi nhớ lại lời mà nhân viên tuyển sinh đó nói về việc “kiểm soát tốt sự thiên lệch” và một ý tưởng chợt nảy ra. Tôi không phải từ bỏ bất cứ điều gì! Tôi nghĩ. Có lẽ thay vì giữ sự cân bằng, tôi nên thay đổi tất cả và tập trung vào lối sống thiên lệch hợp lý! Thay vì cố gắng làm mọi thứ mỗi ngày, nếu tôi chỉ chú tâm vào những thứ quan trọng với cuộc đời mình (công việc, giấc ngủ, gia đình, thể dục, bạn bè) và CHỌN RA MỘT BỘ BA để tập trung vào mỗi ngày thì sẽ ra sao? Bằng cách đó, tôi có thể làm TỐT ba điều ấy và có thể chọn ba điều khác vào ngày mai. Lâu dần, tôi có thể nghỉ ngơi, chăm sóc bản thân, thành công và học hỏi thêm những điều khác – ngay cả khi đang bị con cái bám chặt lấy! Và thế đó, từ một buổi gặp mặt tuyển sinh ở Harvard, nơi mà tôi thậm chí còn không chắc mình được nhận, Bộ Ba Lựa Chọn đã ra đời. CHẮC CHẮN, TÔI KHÔNG PHẢI NGƯỜI DUY NHẤT TỪNG TRẢI QUA GIAI ĐOẠN CĂNG THẲNG đến nỗi kiệt sức. Chúng ta đều phải mang gánh nặng của thế giới trên vai. Thực tế thì, nếu xem xét kỹ những việc bạn làm được mỗi tuần, tôi nhất định sẽ xin chữ ký của bạn trong cuốn sách này! Khi bạn nghĩ về tất cả những thứ mà mình muốn cân bằng, chúng có thể khiến bạn cảm thấy bị quá tải cực kỳ. Dưới đây là danh sách những điều tôi phải làm mỗi ngày để GIÀNH LẤY MỌI THỨ: • Nuôi dạy hai đứa con trai để chúng trở thành những người đàn ông tốt, siêng năng và biết tôn trọng phụ nữ • Dành thời gian quý báu với chồng • Quản lý tốt công việc kinh doanh và làm mọi người hài lòng (việc này không hề dễ dàng ở New York!) • Viết một cuốn sách (hay đúng hơn là cuốn sách này) • Chuẩn bị và dẫn chương trình phát thanh SiriusXM hằng tuần • Ăn uống lành mạnh • Lên kế hoạch chuyến công tác cho hơn 40 bài phát biểu mà tôi vẫn làm hằng năm • Liên lạc với người trông trẻ khi đi công tác • Cảm thấy tội lỗi khi phải đi công tác và không được ở cùng các con • Giữ gìn mái ấm gia đình (ngoại trừ việc tôi sống chủ yếu ở sân bay...) • Giữ liên lạc với gia đình (con xin lỗi vì không gọi điện thoại, mẹ à! Mẹ đang ở múi giờ nào vậy?) • Hoàn thành nhiệm vụ của ban giám đốc và hội đồng tư vấn • Xem hơn 60 chương trình trong và ngoài sân khấu Broadway hằng năm để bình chọn cho giải thưởng Tony và Chita Rivera • Đăng bài lên các tài khoản xã hội • Xem tài khoản mạng xã hội của những người khác (và rồi cho rằng cuộc sống của họ tốt hơn của mình) • Trả lời một núi thư điện tử và tin nhắn (tại sao con số nho nhỏ đó trong hộp thư đến của tôi không bao giờ chịu giảm xuống?!?!) • Tự nhủ với bản thân, “Randi, mày thật sự nên trả lời thư điện tử đó”, trong khi biết rõ rằng ngay khi có thêm vài thư khác đến thì nó sẽ biến mất mãi mãi khỏi tâm trí tôi. Ôi! Sao tôi có thể quên những mục tiêu cháy bỏng của mình được nhỉ: • Gặp gỡ bạn bè. • Giữ dáng (ha!) • Ngủ (HA, viết in hoa!) • Tắm gội (Đừng nói gì cả!) Vâng, thật là mệt mỏi. Có lẽ, tôi nên bò về giường cho xong một ngày. Sẽ ra sao nếu tôi thay đổi danh sách quá tải đó từ Việc Cần Làm Hôm Nay thành Việc Cần Làm Năm Nay? Hoặc trong hơn ba năm nữa? Hoặc 10 năm! Bằng cách này, tôi có thể chọn ra một vài việc cần làm mỗi ngày và tập trung tuyệt đối để hoàn thành các nhiệm vụ mình đã chọn, và sẽ không ngập trong cảnh VIỆC NÀO CŨNG PHẢI LÀM NGAY LẬP TỨC. Ngay cả khi có rất nhiều việc phải làm, tôi vẫn cho rằng mình là một trong những người rất may mắn. Tôi có một người bạn tuyệt vời và đáng mến là chồng tôi, Brent, người đã đảm nhiệm phần lớn công việc nội trợ và chăm sóc con cái. Tôi có một đội ngũ nhân viên vô cùng tài giỏi tại Zuckerberg Media luôn đảm bảo mọi thứ diễn ra suôn sẻ. Và tôi có những cộng sự tuyệt vời tại Jim Henson Productions, Universal Kids, CAA, HarperCollins và SiriusXM. Tôi có đủ ngân sách để thuê một người giữ trẻ đáng tin cậy. Tôi có gia đình và những người bạn đáng quý luôn ủng hộ mình. Thêm vào đó, như một người bạn đã nói với tôi, “Bạn chỉ hạnh phúc ngang đứa con bất hạnh nhất của bạn”, và cả hai đứa con của tôi đều khỏe mạnh và hạnh phúc. Tạ ơn Chúa. Sự thật là, chúng ta dành hầu hết thời gian để nghĩ về niềm hạnh phúc và nỗi bất hạnh của mình. Chúng ta có hạnh phúc hơn khi chơi đùa với con cái ở nhà không? Có hạnh phúc hơn khi chạy trốn đến phòng tập thể hình trong một tiếng đồng hồ? Hay hạnh phúc hơn khi ngồi trong phòng làm việc để hoàn thành nốt phần kết bản báo cáo? Hạnh phúc là thứ mà chúng ta luôn vô thức hướng đến. Nhưng với áp lực từ việc tìm kiếm sự cân bằng, không có gì ngạc nhiên khi tất cả chúng ta đều cảm thấy bất hạnh. Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2007 đã xếp hạng Mỹ là nước hạnh phúc thứ ba trong số 35 quốc gia thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế. Nhưng trước khi kịp ăn mừng thì, chưa đầy 10 năm sau, vào năm 2016, Hoa Kỳ tụt xuống vị trí thứ 19 trên tổng số 35. Nguyên nhân của sự sụt giảm này bao gồm việc cắt giảm trợ cấp xã hội và gia tăng nạn tham nhũng trong chính phủ.1 Nếu muốn trở nên bất hạnh hơn nữa, tất cả những gì bạn phải làm là dành một giây lên trang mạng xã hội ưa thích của mình, và bạn sẽ lập tức choáng váng trước những hình ảnh về cuộc sống hoàn hảo của người khác, kỳ nghỉ trong mơ của họ, câu lạc bộ sách đầy tri thức của họ, khiến bạn cảm thấy cuộc sống của họ tốt hơn mình RẤT NHIỀU. Bạn bắt đầu nghĩ, có lẽ mình không phải nhân tài như bạn nghĩ cách đây năm phút nữa. Tất nhiên, trong thâm tâm, chúng ta đều biết rằng, mọi người chỉ đang diễn kịch trên mạng mà thôi, họ chỉ phô ra những phần đẹp đẽ nhất, rực rỡ nhất trong cuộc đời – nhưng chúng ta vẫn không khỏi cảm thấy một chút tủi thân. Nghe có quen không? Vào năm 2016, Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Pitt khảo sát 1.787 thanh niên trên toàn quốc về việc sử dụng 11 trang mạng xã hội phổ biến (Instagram, Facebook, v.v...). Những người sử dụng nhiều trang mạng xã hội nhất (từ 7-11 trang) có nguy cơ mắc bệnh trầm cảm và lo lắng nhiều gấp ba lần những người ít sử dụng nhất (từ 0-2 trang). Việc cố gắng xuất hiện thường xuyên trên nhiều trang khác nhau (còn gọi là truyền thông xã hội đa nhiệm) đã khiến khả năng tập trung, tiếp thu và tâm trạng giảm sút.2 Cùng với đó, một nghiên cứu của Hiệp hội Sức khỏe Cộng đồng Hoàng gia cho thấy rằng mạng xã hội gây ra nỗi lo lắng, hội chứng sợ bỏ lỡ thứ gì đó (FOMO), nạn bạo hành, bệnh trầm cảm nặng và suy giảm chất lượng giấc ngủ thấp ở lứa tuổi thiếu niên.3 Và trên hết, một cuộc thăm dò ý kiến vào năm 2017 trên trang You.gov cho thấy 26% người Mỹ nói rằng, một bình luận tiêu cực trên mạng xã hội có thể hủy hoại cả ngày hôm đó của họ.4 Tệ hơn, bình luận tiêu cực thậm chí còn không phải do con người viết ra! Với số lượng robot nhắn tin đang ngày một tăng, rất có thể một con robot nào đó đang biến một ngày mới của bạn trở nên tươi đẹp hoặc tồi tệ. Hội chứng FOMO, chứng trầm cảm, sự ganh đua trên mạng xã hội – bạn rơi vào những vấn đề đó và tôi cũng vậy. Nhưng mục tiêu của bạn không phải là những thứ tuyệt vọng như thế này. Khi viết cuốn sách này, tôi đang ở trong trạng thái vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời thì luôn có lúc này lúc kia. Mọi thứ thường diễn ra khác với dự tính của bạn. Những trường hợp khẩn cấp - lớn lẫn nhỏ - luôn xảy đến vào những lúc bất ngờ và phiền toái nhất. Là một người hay lo lắng điển hình, tôi luôn sợ rằng bữa tiệc càng vui thì càng chóng tàn. Tôi còn sợ rằng chiếc cốc vơi tràn nước bất cứ lúc nào. Mỗi chúng ta đều gặp hoàn cảnh và thách thức khác nhau. Một số phải đơn thân nuôi con hoặc kiêm nhiệm nhiều việc, những công việc rất vất vả để có thể tự chủ về tài chính. Nhiều người đã được tôi luyện qua gian truân trong cuộc sống. Nói cách khác, nhiều người trong các bạn là #SIÊUANHHÙNG ngoài đời thực. Không phải trong truyện tranh mà chính trong cuộc sống hiện thực, bạn đang góp phần thay đổi thế giới này vì những người bạn yêu thương và quan tâm, bằng bất cứ giá nào. Dù trong hoàn cảnh nào, chúng ta luôn có một mẫu số chung: Tất cả chúng ta đều cảm thấy vô cùng áp lực khi phải cân bằng giữa những thứ mình cần, có và muốn, đồng thời phải thực hiện tuyệt đối chính xác. Nhưng nếu chúng ta không nhất thiết phải luôn ôm lấy gánh nặng ấy thì sao? Nếu bạn chỉ cần chọn ra một vài thứ để tập trung thì sao? Nếu bạn có thể cho phép bản thân sống thiên lệch hợp lý, thay vì giữ cân bằng thì sao? Và, nếu tôi chỉ cho bạn một cách để có thể hạnh phúc hơn trong dài hạn mà chỉ cần tập trung vào một số thứ nhất định (miễn là đến cuối cùng, bạn sẽ chọn hết tất cả mọi thứ trong danh sách việc cần làm) thì sao? Bạn sẽ tham gia chứ? Nào, hãy chuẩn bị sẵn sàng các kỹ năng để sống thiên lệch hợp lý, bởi vì tôi sẽ chỉ cho bạn biết phải làm như thế nào! CÔNG VIỆC. GIẤC NGỦ. GIA ĐÌNH. THỂ DỤC. BẠN BÈ. BỘ BA LỰA CHỌN. Khi mọi người biết tôi phải công tác xa nhà khoảng 100 ngày mỗi năm, phản ứng chung của họ chính là kinh ngạc. “Cậu không nhớ bọn trẻ sao?” Tất nhiên là tôi nhớ con tôi rồi! Tôi không phải quái vật. Nhưng, tôi cũng yêu công việc của mình nữa. Không gì vui hơn là được gặp gỡ các bạn bè trong giới kinh doanh, học sinh và những người mơ mộng đang khởi tạo và cải tiến các ý tưởng mới trên thế giới. Cảm giác khi tôi đi khắp nơi để làm việc, chia sẻ những câu chuyện, kết bạn mới, và truyền cảm hứng cho người khác chính là Thế Giới Hạnh Phúc đích thực của tôi. Nếu cứ suốt ngày tập trung vào việc duy trì sự cân bằng, tôi sẽ không thể được như ngày hôm nay. Khả năng trang trải cho gia đình cực kỳ quan trọng đối với tôi và đó cũng là một phần mục đích và ý nghĩa cuộc sống của chính tôi. Vậy nên, hẳn rồi, tôi có thể trở thành, giả dụ như, một người mẹ tốt hơn bây giờ 3% nếu đi công tác ít hơn – nhưng tôi cũng sẽ bớt hạnh phúc hơn rất nhiều. Tôi có niềm đam mê cháy bỏng và niềm tự hào to lớn với công việc của mình. Nếu cắt bỏ nó, thì chẳng khác nào tôi đang cắt bỏ phần quan trọng nhất trong bản chất và con người chân thật của mình. Tôi có giận bản thân vì xa nhà quá nhiều không ư? Chắc chắn có. Tôi đang ở trong cuộc chiến thứ 4.245.003 với chính mình đây này. Nhưng giờ đây, tôi hiểu rằng, chỉ khi cho phép bản thân thiên về công việc trong vài ngày và thiên về gia đình vào nhiều ngày khác, thì tôi mới thực sự hoàn thành tốt cả hai vai trò. Khi nhìn lại 20 năm trước của cuộc đời mình, tất cả những khoảnh khắc đáng tự hào nhất, hạnh phúc nhất và tuyệt vời nhất của tôi – những khoảnh khắc mà tôi hy vọng sẽ có dịp kể cho cháu chắt nghe sau này – đều diễn ra khi tôi cho phép bản thân sống thiên lệch hợp lý. Nếu khi đó tôi lựa chọn một cuộc sống cân bằng thì sẽ chẳng được HẠNH PHÚC như ngày hôm nay. Ơn trời là tôi đã sống thiên lệch! Đối với tôi, phân nửa niềm vui khi sống thiên lệch hợp lý chính là có thể tham gia những điều mà mình hứng thú. Cho dù đó là công việc, giấc ngủ, gia đình, thể dục hoặc bạn bè, tôi không bao giờ biết chính xác điều gì sẽ xảy ra, nhưng khi có đủ đam mê và thông tin, tôi luôn biết mình sẽ vui vì đã thử. Hãy sống một cuộc đời sôi nổi và thiên lệch hợp lý theo cách riêng của bạn, đừng cảm thấy tội lỗi, đừng quan tâm người khác nghĩ hay nói gì, không phải tê liệt trước nỗi sợ thất bại, đó mới là lúc cuộc vui thật sự bắt đầu. Có rất nhiều cách để có thể kiểm soát tốt sự thiên lệch. Một trong số đó là tự nguyện lựa chọn. Một số bị ép buộc do hoàn cảnh bất khả kháng. Một số là vì lợi ích của những người thân yêu. Một số là quyết định thứ gì KHÔNG cần ưu tiên, chứ không phải thứ gì cần phải tập trung vào. Tất cả những lựa chọn này đều đáng giá, tuyệt vời và đáng trân trọng như nhau. Chẳng có cách nào đúng hay sai để sống thiên lệch hợp lý, miễn là bạn đừng quá thiên lệch đến nỗi làm ảnh hưởng đến sức khỏe và hạnh phúc của mình, hoặc làm tổn thương những người yêu quý bạn – mặc dù, đôi khi chúng chắc chắn sẽ xảy ra (chúng ta sẽ nói về vấn đề này sau). Trong cuốn sách này, tôi sẽ chia sẻ các cuộc phỏng vấn mà tôi đã thực hiện với một số người kiểm soát cách sống thiên lệch hợp lý hiệu quả nhất mà tôi biết. Ví dụ như Arianna Huffington, sau khi tỉnh ngộ trước tình trạng báo động về sức khỏe của mình, đã dồn hết tâm trí vào việc nâng cao ý thức về tầm quan trọng của giấc ngủ cho những người đang đi làm. Hay như bác sĩ Adam Griesemer, người thường thực hiện những ca phẫu thuật ghép tạng cho trẻ em kéo dài hơn 40 giờ đồng hồ. Tôi từng nói chuyện với Melinda Arons, người đã bỏ công việc hấp dẫn tại Facebook để tham gia chiến dịch tranh cử tổng thống của Hillary Clinton. Tôi từng tâm tình với Rebecca Soffer, người đã mất cả cha lẫn mẹ chỉ trong một thời gian ngắn và biến nỗi đau của cô thành sức mạnh để giúp đỡ những người đang đau khổ vì cái chết của người thân. Tôi từng trò chuyện với Brad Takei, người đã quyết định mục đích cuộc đời là giúp đỡ bạn đời, George Takei, thành công trong mọi việc anh làm. Và tôi cũng từng ngồi cùng với Reshma Saujani, người nhận ra rằng thất bại trong hai cuộc bầu cử chính trị là chìa khóa để tìm ra mục đích sống cho bản thân. Tôi sẽ chia sẻ câu chuyện của những người đã sống thiên lệch hợp lý theo nhiều cách khác nhau - một số vì ý muốn cá nhân, số khác vì hoàn cảnh bắt buộc. Tôi sẽ chỉ cho bạn tất cả các mẹo, thủ thuật và bí quyết để sống hạnh phúc nhằm giúp bạn trở thành người kiểm soát cách sống thiên lệch hợp lý tốt nhất theo cách riêng của bạn. Hành trình học cách đặt ưu tiên, tập trung và, tất nhiên là, từ bỏ, bắt đầu kể từ giây phút bạn mở cuốn sách này. Tôi hoan nghênh các bạn vì đã chọn một con đường khác để tiến tới hạnh phúc. Thấy không? Bạn đang làm rất tốt trong việc sống thiên lệch hợp lý này đấy! Bộ Ba Lựa Chọn là phương châm của tôi, đức tin của tôi, động lực cuộc sống của tôi, và tôi rất hân hạnh được chia sẻ nó với các bạn. Hãy bỏ sự cân bằng đi. Hãy trở nên thật thú vị! Hãy trở nên thật khác biệt! Mời các bạn đón đọc Work-life Balance: Khi Người Trẻ Cần Cảm Hứng Và Kế Hoạch Để Theo Đuổi Sự Nghiệp của tác giả Randi Zuckerberg.
Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Trong Học Tập
Chắc hẳn bạn đã không còn xa lạ gì với thuật ngữ “bản đồ tư duy” (mindmap). Ngày nay, chỉ cần bước vào một hiệu sách bất kỳ, chúng ta cũng sẽ tìm được vô số những cuốn sách hướng dẫn về kỹ thuật ghi chép cực kỳ thông minh này. Nhưng bạn đã thực sự học được những gì từ vô vàn các cuốn sách đó?  Một trong những vấn đề lớn mà các sách về bản đồ tư duy thường gặp phải là không đi sâu vào chi tiết. Những cuốn sách luôn nói rằng chúng ta có thể vận dụng bản đồ tư duy theo rất nhiều cách, nhưng lại không nói chúng ta biết phải vận dụng như thế nào. Ngay cả khi họ đưa ra hướng dẫn, những chỉ dẫn cũng rất chung chung, chưa đủ để người học tiện áp dụng vào những tình huống thực tế cũng như trong công việc học tập hàng ngày. Bạn và tôi, chúng ta buộc phải tự tìm con đường chinh phục "bản đồ tư duy" cho riêng mình. Chính vì thế, cuốn sách "Ứng dụng bản đồ tư duy trong học tập" được thực hiện để trang bị cho bạn những chỉ dẫn cụ thể và chi tiết nhất để bạn có thể dễ dàng ứng dụng trong học tập và thi cử. Không chỉ thế, cuốn sách còn cung cấp những phương án tiếp cận và sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả theo sở thích, nhu cầu và mục tiêu của riêng cá nhân bạn. Hãy tự tin đọc và áp dụng ngay các bí quyết được trình bày trong cuốn sách nhỏ gọn nhưng rất thực tế này, và bạn sẽ thấy kết quả học tập của mình tiến bộ từng ngày! *** Suốt hàng thập kỷ qua, bản đồ tư duy là một trong số ít những công cụ “vạn năng” mà bạn có thể sử dụng hiệu quả trong mọi lĩnh vực của đời sống thường nhật, đặc biệt trong học tập. Rồi bạn sẽ thấy, bất kể sở thích của bạn là gì, nhu cầu của bạn ra sao và mục tiêu của bạn thế nào, bản đồ tư duy đều có thể hỗ trợ bạn học tập tốt hơn với ít thời gian và ít vất vả hơn. Thuật ngữ “bản đồ tư duy” chắc hẳn không còn xa lạ với chúng ta. Ngày nay, chỉ cần bước ra hiệu sách, bạn sẽ tìm được vô số những cuốn sách hướng dẫn về kỹ thuật ghi chép cực kỳ thông minh này. Nhưng bạn học được thực sự bao nhiêu từ vô vàn cuốn sách đó? Cuốn sách Ứng dụng bản đồ tư duy trong học tập ra đời với mục đích cốt lõi là trang bị cho bạn những chỉ dẫn, hướng dẫn cụ thể cũng như chi tiết nhất bạn có thể dễ dàng ứng dụng trong học tập và thi cử. Đồng thời cung cấp cho bạn những phương án tiếp cận và sử dụng bản đồ tư duy hiệu quả theo sở thích, nhu cầu và mục tiêu của riêng bạn, vì chúng ta đều hiểu rằng, mỗi người là một cá nhân khác biệt và độc đáo. Hãy áp dụng những gì bạn đọc được từ cuốn sách này vào học tập. Bạn sẽ thấy thật dễ dàng vì mọi điều đã được hướng dẫn hết sức chi tiết và tỉ mỉ rồi! Và hãy bắt đầu ngay bây giờ. Càng bắt đầu sớm bao nhiêu, bạn càng nhanh chóng sử dụng thành thạo bản đồ tư duy bấy nhiêu, và kết quả là, thành tích học tập của bạn sẽ càng tăng nhanh. Bạn và tôi, chúng ta hãy cùng tìm con đường chinh phục “bản đồ tư duy” cho riêng mình. *** Bản đồ tư duy là gì? B ản đồ tư duy là kỹ thuật ghi chép sử dụng từ khóa, ý tưởng, màu sắc, hình ảnh,... để thể hiện trong một sơ đồ. Bản đồ tư duy được trình bày với từ khóa của ý tưởng chính đặt tại trung tâm và các chủ đề phụ tỏa ra xung quanh. Chủ đề phụ bao gồm những ý tưởng tương đương nhau, các ý tưởng này lại phân nhánh thành những chủ đề nhỏ hơn và nhỏ hơn nữa đến bất cứ mức nào tùy vào mạch suy nghĩ của bạn. Bản đồ tư duy không phải một khái niệm mới. Trên thực tế, kỹ thuật ghi chép này đã xuất hiện cả ngàn năm trước và được những bậc thầy như Leonardo da Vinci hay Picasso sử dụng. Đến những năm 1960 và 1970, Tony Buzan đã hệ thống hóa và giới thiệu kỹ thuật này khắp thế giới. Tony Buzan bắt đầu làm việc với kỹ thuật ghi chép thông minh này khi ông nghiên cứu về tâm lý học, thần kinh học, ngôn ngữ tư duy, ngữ nghĩa học, khả năng nhận thức và khoa học cơ bản. Ông mau chóng nhận ra rằng não bộ của con người có hiệu suất mạnh hơn máy tính cả triệu lần nhưng chúng ta lại chưa có chỉ dẫn đầy đủ nào để tận dụng khả năng của nó. Ông được công nhận như một trong những chuyên gia giáo dục đầy tài năng sau khi xuất bản nhiều đầu sách về chủ đề liên quan tới bộ não con người, khả năng sáng tạo và phương pháp học tập thông minh. 2. Tại sao bản đồ tư duy lại hiệu quả? Thấu hiểu giới hạn bộ não của bạn Chúng ta thường tự nhận định bản thân là người thuận não trái hay não phải, nhưng sự thực, chúng ta sử dụng cả hai bán cầu não cho nhiều mục đích khác nhau. Chẳng hạn như, khi gặp những công việc đòi hỏi khả năng ngôn ngữ và tư duy logic, bạn sẽ tự động vận dụng cả hai bán cầu não. Tuy nhiên, bán cầu não phải, trung khu phụ trách diễn giải ý nghĩa màu sắc, hình ảnh, nhận thức và trí tưởng tượng liên quan nhiều tới khả năng sáng tạo hơn. Vì khuynh hướng tự nhiên của bộ não là hoạt động bán cầu này mạnh hơn bán cầu kia, nên chúng ta thường phải vật lộn trong việc phối hợp cả hai bán cầu não. Hơn nữa, bộ não chúng ta cần tác động nào đó mới có thể đưa thông tin từ khu vực trí nhớ ngắn hạn/tạm thời sang khu vực trí nhớ dài hạn/vĩnh viễn. Vì thế, nếu không chú trọng tới nội dung ghi nhớ, bộ não của chúng ta sẽ “hủy” thông tin đó để dành chỗ cho những tin tức mới. Biểu đồ dưới đây thể hiện tốc độ não bộ lãng quên của nhà tâm lý học Hermann Ebbinghaus, chúng ta sẽ thấy tốc độ não loại bỏ tin tức nhanh như thế nào khi chúng ta không chuyển được thông tin đó vào bộ nhớ dài hạn. a Cứ thế, chỉ sau gần một năm, lượng thông tin chúng ta ghi nhớ được gần như bằng không. Não bộ của chúng ta không được thiết kế để lưu trữ tất cả thông tin chúng ta được cung cấp. Hạn chế này không nên là lý do cản trở năng lực học tập và xử lý kiến thức của bạn. Chúng ta hoàn toàn có thể rèn luyện để thúc đẩy khả năng hoạt động của não, và bạn chỉ cần sử dụng đúng công cụ mà thôi. Các chỉ dẫn khoa học Khi não bạn tạo ra một ý nghĩ, ý nghĩ đó sẽ hình thành một đường kết nối các tế bào thần kinh tựa như một lòng sông. Chúng ta đều biết, khi nước chảy ngập, con sông sẽ không bị tù đọng, khô cạn, thậm chí biến mất. Đường dẫn tế bào thần kinh của bạn cũng vậy. Có vô vàn những hội thảo khoa học tuyên bố rằng, nếu bạn lặp đi lặp lại một thông tin đủ nhiều, thông tin đó sẽ nằm trong bộ nhớ dài hạn. Theo lẽ đó, nếu bạn ứng dụng bản đồ tư duy thường xuyên, bạn sẽ bắt đầu tạo được nhiều kết nối chưa từng xuất hiện trong não bộ và tăng cường năng lực tư duy của bạn lên rất nhiều. Thực tế, nếu trải dài toàn bộ số kết nối mà bộ não con người có thể tạo được, độ dài có thể xấp xỉ năm mét. Nhưng não không phải một đường thẳng, những ý nghĩ của chúng ta tự do chảy trôi không theo nguyên tắc nào và thường trở nên lộn xộn. Bên cạnh đó, ý nghĩ của chúng ta có xu hướng xuất hiện dưới dạng hình ảnh. Chính vì thế, bản đồ tư duy được tạo ra để mô phỏng những dòng suy nghĩ chảy trôi tự do trong não bạn, từ đó giúp bạn ghi nhớ lâu hơn. Bản đồ tư duy có thể được trình bày bằng ít hay nhiều màu sắc và được cấu tạo theo cách thức hỗ trợ bạn khai thác ý tưởng và suy nghĩ. Não bộ sẽ dễ dàng nhận dạng những hình ảnh này và cần ít hoạt động để xử lý hơn. Các nhà khoa học đã chứng minh được rằng, dù hai bán cầu não của con người hoạt động thống nhất với nhau nhưng lại được tổ chức khác nhau. Nhiều bộ não thiên về sử dụng và bồi dưỡng bán cầu này hơn bán cầu kia; dù vậy, điều tốt nhất bạn nên làm là luyện rèn toàn bộ não. Mời các bạn đón đọc Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Trong Học Tập của tác giả 1980 Books.
Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo
Cảm hứng là có thật, nhưng nó chỉ đến khi ta làm việc. - Pablo Picasso Pablo Picasso là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất thế kỉ XX với nhiều tác phẩm đắt giá. Theo các nhà thống kê, ông có tới 26.075 tác phẩm được trưng bày, xuất hiện trước công chúng (chưa tính tới những tác phẩm chưa được tìm thấy hoặc công bố). Thử thực hiện một phép tính đơn giản, Picasso sống đến 91 tuổi, vị chi là 33.403 ngày. Nếu so sánh với số tác phẩm được công chúng biết tới ở trên thì trung bình mỗi ngày ông lại sáng tạo thêm được một tác phẩm mới, tính từ khi ông 20 tuổi cho đến tận lúc qua đời. Nói một cách đơn giản thì Picasso đã sáng tạo không ngừng nghỉ mỗi ngày, trong liên tục 71 năm. Picasso chính là ví dụ sinh động cho thấy khả năng sáng tạo vô hạn của con người, cùng nỗ lực không ngừng để vượt qua giới hạn của bản thân. Bạn có biết ngọn nguồn của mọi sự sáng tạo đều nằm trong chính con người chúng ta, nó vẫn ở yên đó chờ được chúng ta thức tỉnh? Trong cuốn sách Thói quen làm nên sáng tạo, tác giả Twyla Tharp, một biên đạo múa tài năng bậc nhất nước Mỹ, đã cho chúng ta thấy tiềm lực phi thường của con người trong việc đánh thức khả năng sáng tạo. Thông qua những câu chuyện làm nghề, quan điểm triết học sâu sắc và hiểu biết rút ra từ cuộc sống hằng ngày, bà đã chứng minh được rằng sáng tạo không phải là năng lực do Chúa trời ban tặng mà nó là cốt tủy được hình thành từ sự kỷ luật, gian khổ rèn luyện để hình thành những thói quen làm nên sáng tạo. Hãy đọc sách để thấy thành công luôn bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt nhất và sáng tạo chỉ đến khi được đầu tư công sức và thời gian theo đúng nghĩa. Trân trọng giới thiệu đến bạn cuốn sách vô cùng hữu ích này!   ** Twyla Tharp, một trong những biên đạo múa vĩ đại nhất nước Mỹ, bắt đầu sự nghiệp từ năm 1965 và đến nay, bà đã dàn dựng hơn 130 vở múa cho vũ đoàn của mình, cũng như cho Vũ đoàn Ba lê Joffrey, Vũ đoàn Ba lê New York, Vũ đoàn Ba lê Opera Paris, Vũ đoàn Ba lê Hoàng gia London và Nhà hát Ba lê Mỹ. Sử dụng âm nhạc của tất cả tác giả từ Bach, Beethoven và Mozart đến Jelly Roll Morton, Frank Sinatra và Bruce Springteen, bà là người tiên phong trong việc kết hợp múa hiện đại và ba lê với âm nhạc đại chúng. Trong lĩnh vực điện ảnh, bà từng cộng tác với Milos Forman trong phim Hair, Ragtime và Amadeus. Trong lĩnh vực truyền hình, bà chỉ đạo chương trình Baryshnikov by Tharp từng giành được hai giải Emmy. Trên sân khấu Broadway, bà đã đạo diễn phiên bản nhà hát của vở Singin’ in the Rainvà đến năm 2003, bà giành giải Tony cho vở Movin’ Out, tác phẩm bà tự tay dàn dựng, đạo diễn và biên đạo trên nền các bài hát của Billy Joel. Bà cũng từng nhận giải thưởng MacArthur Fellowship. Năm 1993, bà được kết nạp vào Viện Nghệ thuật và Khoa học Mỹ. Năm 1997, bà trở thành thành viên danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Bà đã nhận được 18 học vị tiến sĩ danh dự. Bà sống và làm việc ở thành phố New York. Mark Reiter đã cộng tác để cho ra đời 12 cuốn sách, tính cả Thói quen làm nên sáng tạo. Ông cũng là đại diện cho các tác giả tại Bronxville, New York. *** Tôi bước vào một căn phòng trắng Tôi bước vào một phòng tập nhảy nằm ở trung tâm Manhattan. Đó là căn phòng trắng rộng lớn. Tôi mặc một chiếc áo nỉ cùng cái quần jeans bạc phếch và đi đôi giày thể thao Nike. Bao quanh bốn bức tường là những tấm gương cao gần hai mét rưỡi. Một chiếc đài nằm trong góc. Sàn nhà sạch trơn, không vương tì vết, nếu không tính hàng nghìn vệt miết cùng dấu chân còn lưu lại sau những buổi tập của các vũ công. Ngoài mấy tấm gương, chiếc đài, những vệt miết và tôi, căn phòng hoàn toàn trống trải. Năm tuần nữa, tôi sẽ bay tới Los Angeles cùng một nhóm sáu vũ công để tham gia sô diễn kéo dài tám đêm liên tiếp trước 1.200 khán giả mỗi tối. Đó là nhóm nhảy của tôi. Tôi là một biên đạo múa. Tôi đã có trong tay một nửa chương trình – một vở ba lê kéo dài 50 phút cho toàn bộ sáu vũ công trên nền bản xô-nát số 9 của Beethoven dành cho đàn piano, bản “Hammerklavier”. Tôi đã sáng tác tiết mục này từ hơn một năm trước và đã dành mấy tuần vừa qua để luyện tập với cả nhóm. Nửa còn lại của chương trình vẫn còn là một ẩn số. Tôi không biết mình sẽ sử dụng bản nhạc nào. Tôi không biết mình sẽ làm việc với vũ công nào. Tôi còn chưa có ý tưởng về trang phục, thiết kế ánh sáng, hay nhạc công. Tôi cũng chưa nắm được thông tin về thời lượng của tiết mục, dù nó phải đủ dài để lấp đầy nửa còn lại của chương trình và mang đến cho khán giả thứ họ xứng đáng được nhận. Thời lượng của tiết mục sẽ quyết định khoảng thời gian tập luyện mà tôi cần. Thời gian này bao gồm việc liên lạc với vũ công, lên thời gian biểu tại phòng tập và khởi động quá trình luyện tập – tất cả đều dựa trên sự sáng tạo của tôi ở căn phòng trắng trống trơn này trong vài tuần tới. Các vũ công mong mỏi tôi sẽ thành công vì vũ đạo của tôi chính là sinh kế của họ. Các đại diện ở Los Angeles cũng kỳ vọng điều tương tự vì họ đã bán ra rất nhiều vé cùng lời hứa hẹn rằng khán giả sẽ được chứng kiến điều mới lạ và lý thú từ bàn tay tôi. Chủ rạp cũng mong như thế; vì nếu tôi không tới, rạp hát của ông ấy sẽ trống trơn suốt cả tuần. Như vậy là có rất nhiều người, bao gồm cả những người tôi còn chưa gặp bao giờ, đang gửi gắm niềm tin vào khả năng sáng tạo của tôi. Nhưng ngay lúc này, tôi không hề nghĩ tới những chuyện ấy. Tôi đứng trong một căn phòng với nghĩa vụ phải sáng tác ra tiết mục múa thật đặc sắc. Các vũ công sẽ có mặt ở đây chỉ trong vài phút nữa. Chúng tôi sẽ phải làm gì? Đối với một số người, căn phòng trống biểu trưng cho thứ gì đó sâu sắc, huyền bí và đáng sợ: Nhiệm vụ khởi đầu từ hai bàn tay trắng và nỗ lực để kiến tạo nên cái gì đó trọn vẹn, đẹp đẽ và viên mãn. Nó cũng không khác gì việc một nhà văn mở ra một trang soạn thảo trắng trên máy tính của mình; hay một họa sĩ đối mặt với tấm toan trống trơn; một nghệ sĩ điêu khắc trân mắt nhìn một tảng đá thô; một nhạc sĩ ngồi trước cây đàn piano, ngón tay bâng quơ lướt trên những phím đàn. Một số người cảm thấy khoảnh khắc này – khoảnh khắc trước khi sự sáng tạo khởi phát – quá đỗi đau đớn tới độ họ không tài nào đối mặt nổi với nó. Họ đứng dậy và rời bỏ chiếc máy tính, tấm toan, cây đàn; họ đánh một giấc, đi mua sắm, nấu bữa trưa hoặc làm đủ mọi việc lặt vặt trong nhà. Họ trì hoãn. Trong hình thái cực đoan nhất, nỗi kinh hoàng ấy khiến con người ta tê liệt hoàn toàn. Khoảng không trống vắng có lẽ chỉ tầm thường vậy thôi. Nhưng tôi đã đối mặt với nó trong suốt cuộc đời làm nghệ thuật. Đó là công việc của tôi. Đó cũng là sự nghiệp của tôi. Nói tóm lại: Việc lấp đầy khoảng không trống trơn đó đã giúp tôi tạo dựng được tên tuổi cho mình. Tôi là một vũ công kiêm biên đạo múa. Trong 35 năm qua, tôi đã sáng tác 130 vở múa và ba lê. Một số vở tốt, số khác lại dở tệ. Tôi đã làm việc với các vũ công ở hầu hết mọi không gian và môi trường mà các bạn có thể tưởng tượng ra. Tôi đã tập dượt trên đồng cỏ. Tôi đã kinh qua hàng trăm phòng tập, một số phòng rất xa hoa bởi chính sự mộc mạc chân phương và rộng lớn của nó; nhiều phòng thì bẩn thỉu, đầy sỏi sạn rác rưởi, chuột chạy rầm rập quanh bốn chân tường. Tôi đã làm việc tám tháng trời tại một phim trường ở Prague, biên đạo các bài múa và chỉ đạo các cảnh opera cho bộ phim Amadeus (tạm dịch: Sự đố kỵ của thiên tài) của Milos Forman. Tôi đã tổ chức dàn dựng các cảnh quay dùng ngựa trong Công viên Trung tâm của thành phố New York cho phim Hair (tạm dịch: Mái tóc). Tôi đã làm việc với các vũ công đến từ các nhà hát ở London, Paris, Stockholm, Sydney và Berlin. Tôi đã điều hành công ty của riêng mình suốt ba thập kỷ. Tôi đã sáng tác và đạo diễn một sô diễn rất thành công ở Broadway. Tôi đã làm việc chăm chỉ trong nhiều năm và không ngừng sáng tạo đến mức tới thời điểm này, tôi không chỉ thấy thách thức và lo lắng, mà còn có cảm giác bình yên và hứa hẹn khi đứng trước một căn phòng trắng trống trải. Nó đã trở thành mái nhà của tôi. Sau rất nhiều năm, tôi đã học được rằng sáng tạo là một công việc toàn thời gian với những mô thức thường nhật của riêng nó. Đó là lý do tại sao các nhà văn, chẳng hạn, thích thiết lập các nền nếp cho chính mình. Những người làm việc năng suất nhất bắt đầu công việc từ sáng sớm, khi không gian yên ắng, chuông điện thoại chưa reo và tâm trí họ đang tĩnh tại, tỉnh táo, chưa bị vẩn đục vì lời ra tiếng vào của mọi người. Có thể họ sẽ đặt cho mình một mục tiêu – viết 1.500 chữ, hoặc ngồi trước bàn làm việc cho tới trưa – nhưng bí mật thực sự nằm ở chỗ họ làm việc đó hằng ngày. Nói cách khác, họ có kỷ luật. Theo thời gian, khi nền nếp thường nhật dần biến thành bản năng thứ hai, kỷ luật cũng thay hình đổi dạng thành thói quen. Thực tế này đúng với mọi cá nhân hoạt động sáng tạo, dù đó là một họa sĩ bước tới trước giá vẽ vào mỗi sáng, hay một nhà nghiên cứu y khoa đến phòng thí nghiệm hằng ngày. Nền nếp cũng đóng vai trò ngang ngửa như tia chớp cảm hứng lóe lên trong quá trình sáng tạo, thậm chí còn lớn hơn. Và ai cũng có thể tự thiết lập nền nếp. Sáng tạo không chỉ là đặc sản của riêng các nghệ sĩ. Nó cũng cần thiết với các doanh nhân đang tìm kiếm những phương thức mới để hoàn tất thương vụ; nó là liều thuốc hữu hiệu cho các kỹ sư đang cố gắng giải quyết vấn đề; nó là yếu tố giúp các bậc cha mẹ muốn con cái mình nhìn nhận thế giới theo nhiều phương diện khác nhau. Trong bốn thập kỷ vừa qua, ngày nào tôi cũng bận bịu với một cuộc rượt đuổi sáng tạo đủ hình đủ dạng, trong cả công việc lẫn đời sống cá nhân. Tôi đã trăn trở rất nhiều về vấn đề thế nào là sáng tạo và làm thế nào để sáng tạo hiệu quả. Tôi cũng học được từ những kinh nghiệm đau thương, qua những lần sáng tạo theo cách tồi tệ nhất. Tôi sẽ tiết lộ cho các bạn cả hai điều nói trên. Và tôi sẽ đưa ra bài tập thách thức một số giả định về sáng tạo của bạn – để buộc các bạn cố gắng thêm, mạnh mẽ lên, bền bỉ hơn. Nói cho cùng, bạn luôn tập giãn cơ trước khi chạy bộ, khởi động trước khi tập thể hình, tập luyện trước khi chơi. Các hoạt động trí não cũng tương tự như vậy. Tôi sẽ nhấn mạnh luận điểm cho rằng khả năng sáng tạo được bồi đắp từ nền nếp và thói quen. Hãy tập làm quen với nó. Trong cuốn sách này, bạn sẽ thấy sự mâu thuẫn mang tính triết học liên tục xuất hiện. Đó là cuộc tranh cãi bất tận, có từ thời kỳ Lãng mạn,1 giữa hai đức tin cho rằng mọi hoạt động sáng tạo đều xuất phát từ (a) một tác động ngẫu nhiên cao siêu, vô phương biện giải của cảm hứng, một nụ hôn Chúa Trời đặt lên trán bạn, cho phép bạn trao tặng Cây sáo thần cho thế giới này, hoặc (b) lao động chăm chỉ. 1 Ý chỉ giai đoạn sau năm 1789, sau khi Cách mạng tư sản Pháp đánh đổ chế độ phong kiến (Mọi chú thích trong tác phẩm đều là của người dịch). Nếu ý tứ còn chưa đủ rõ ràng, tôi xin nói tôi thiên về hướng lao động chăm chỉ. Đó là lý do tại sao cuốn sách này có tựa đề Thói quen làm nên sáng tạo. Sáng tạo là một thói quen, và sự sáng tạo đỉnh cao là kết quả của những thói quen lao động tích cực. Nói tóm lại là thế. Bộ phim Amadeus (và vở kịch của Peter Shaffer, nền tảng của bộ phim) đã kịch tính hóa và lãng mạn hóa căn nguyên siêu phàm của các thiên tài sáng tạo. Antonio Salieri, trong vai nhà soạn nhạc tài năng chuyên nghề viết mướn, bị trời đày phải sống cùng thời với Mozart, người có tài năng thiên bẩm cùng tính tình vô tổ chức, luôn sáng tác như thể có bàn tay của Chúa Trời chạm vào. Salieri nhận thức rõ tầm vóc thiên tư của Mozart, và vô cùng đau khổ vì nghĩ Chúa đã chọn một kẻ khốn nạn làm nơi ký thác sức sáng tạo thần thánh của Người.   Mời các bạn đón đọc Thói Quen Làm Nên Sáng Tạo của tác giả Twyla Tharp.
Thay Đổi 1% Cách Làm Việc - Đạt Được 99% Thành Công
Có thể đối với bạn đọc, những nội dung trình bày trong cuốn sách này là những điều hiển nhiên, hay chỉ là những việc mà chúng ta luôn cho là nhỏ nhặt, nhưng có một điều đáng ngạc nhiên là hiếm ai có thể thực hiện được tất cả. Thậm chí không quá khi nhận định rằng, số người không thực hiện được nằm ở mức 99%. Hãy nhớ rằng con đường ngắn nhất để trở thành “người thành đạt” là thay vì chăm chú làm những việc to tát, phô trương, thì chỉ cần ngày qua ngày tích lũy những việc làm tuy nhỏ nhặt nhưng hữu ích, được trình bày trong cuốn sách này là đủ. Những việc làm tuy nhỏ nhặt nhưng hữu ích gồm: Tập thói quen nói câu cửa miệng “Hãy cho tôi ba phút” Quy tắc 1/8 cuộc họp Thực hiện truyền đạt điều muốn nói trong thang máy Không để người nhận thư phải kéo chuột xuống dưới Hãy đi bộ tại chính giữa văn phòng Điểm mấu chốt khiến người khác “làm việc giúp bạn” Thêm vào lý do khiến bạn có phản hồi tích cực dành cho người khác Và còn nhiều nữa... *** Những bối cảnh có thể bắt gặp ở bất cứ đâu Bối cảnh 1: Cuộc nói chuyện giữa lãnh đạo và nhân viên Nhân viên: “Trưởng phòng, bây giờ tôi có thể trao đổi một chút được không ạ?” Trưởng phòng: “Xin lỗi, bây giờ tôi đang rất bận… Lát nữa cậu đến được không?” Nhân viên: “À, vâng ạ…” ---- Một tiếng sau ---- Nhân viên: “Trưởng phòng… Ơ? Trưởng phòng ra ngoài rồi à? Khi nào thì anh ấy quay lại công ty?” Trợ lý: “Hôm nay trưởng phòng về thẳng nhà. Sáng mai anh ấy sẽ đi công tác châu Âu một tuần, sau đó nghỉ phép luôn… Anh có vấn đề gì ạ? Tôi đã được trưởng phòng ủy quyền rồi.” Nhân viên: “Thực sự tôi rất muốn được nói chuyện trực tiếp với trưởng phòng, hai phút thôi cũng được.” Trợ lý: “Vậy thì phiền anh hai tuần nữa.” Bối cảnh 2: Tại một cuộc họp Cuộc họp kéo dài đằng đẵng nhưng vẫn không có dấu hiệu kết thúc. Cho dù có tới hơn 20 thành viên tham gia cuộc họp, nhưng chỉ có duy nhất một người phát biểu từ đầu chí cuối. Cũng có lúc cả hội trường rơi vào im lặng, nhưng người cất tiếng phá vỡ sự im lặng đó vẫn là nhân vật đã nói suốt từ đầu cuộc họp tới giờ. Nói cách khác, nhân vật đó chẳng khác gì “Người có quyền lực cao nhất” tại cuộc họp này. Cuộc họp dự kiến kéo dài một giờ đồng hồ, cuối cùng lại vượt quá. Thỉnh thoảng lại có người liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay, như thể mong chờ “Người có quyền lực cao nhất” kết thúc cuộc họp. Cũng có người ghi chép lại nội dung cuộc họp bằng laptop mà họ mang theo, cũng có người lại soạn thảo tài liệu khác không liên quan gì tới cuộc họp. Sau hai giờ đồng hồ, cuối cùng cuộc họp cũng kết thúc. “Không biết cuối cùng thì quyết định cái gì nhỉ?”, “Thao thao bất tuyệt…”, “Ai đó làm ơn dừng anh ta lại đi!”… Hẳn là trong đầu những người tham gia cuộc họp đang hiện ra những lời than thở như vậy. Điều đáng ngạc nhiên là trong tâm trí “Người có quyền lực cao nhất” đó cũng hiện lên những lời thoại giống hệt như vậy, rằng “Ai đó làm ơn dừng tôi lại!”, “Tại sao chẳng có ai phát biểu bất cứ điều gì vậy?” Người Nhật luôn “quá nghiêm túc”? Cá nhân tôi cho rằng phàm là những người làm việc tại các tổ chức, dù lớn hay nhỏ, cũng thường chứng kiến hoặc trải nghiệm cảnh tượng giống như trên. Những tình huống như vậy chắc chắn đang cướp đi rất nhiều thứ của chúng ta. Từ thời gian, tiền bạc, cơ hội để làm công việc khác, cho đến cơ hội để tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm. Thực sự vô cùng lãng phí. Vậy thì, vì nguyên cớ gì mà tình trạng lãng phí này lại đang xảy ra ở khắp nơi? Cá nhân tôi cho rằng, nguyên nhân xuất phát từ mặt trái của việc quá tôn trọng lễ nghĩa, quá chú trọng tới phương diện biểu hiện cảm xúc – thứ vốn là biểu tượng cho nét đẹp và đạo đức mang tính truyền thống của Nhật Bản. Ở bối cảnh thứ nhất, do nhân viên thấy trưởng phòng có vẻ rất bận rộn nên đã tuân thủ lễ tiết và nói rằng “Bây giờ tôi có thể trao đổi một chút được không ạ?” Nhưng chính vì thế, điều mà anh ấy nhận được là lời nhắn quay lại vào hai tuần sau. Trong bối cảnh thứ hai, vì mong muốn mọi người thảo luận và đưa ra ý kiến, nên “Người có quyền lực cao nhất” đã tổ chức cuộc họp. Nhưng cuối cùng, 20 con người tham gia cuộc họp lại tỏ vẻ ngại ngùng, không dám phát biểu ý kiến. Hệ quả là “Người có quyền lực cao nhất” đó đã lãng phí hai tiếng đồng hồ của 20 con người. Nói một cách đơn giản, đó là vì người Nhật “nghiêm túc tới mức nghiêm trọng”. Chính vào lúc này, “nghiêm túc” lại mang một nghĩa xấu. Gần đây, trong giới tâm lý thể thao học, rất nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết “Chữ U ngược” (tham khảo biểu đồ ở dưới). Thông qua biểu đồ, chúng ta có thể thấy khi quá nghiêm túc, hiệu suất của chúng ta sẽ không thể nâng cao được do phải đối mặt với những áp lực, căng thẳng kéo dài. Để thể hiện tối ưu khả năng của mình, đương nhiên chúng ta vẫn cần tới sự “nghiêm túc” (vốn rất quan trọng), nhưng bên cạnh đó, cũng cần thêm vào một chút tỉ mẩn và suy nghĩ thấu đáo. Có người đã nói một câu khiến tôi rất ấn tượng: “Trong tiếng Nhật, chữ ‘nghiêm túc’ và ‘khốn khổ’ chỉ khác nhau có một chữ cái.1” Thực ra, câu nói ấy không phải là để giễu cợt việc quá “nghiêm túc”, mà nó muốn truyền tải thông điệp rằng, khi bạn “nghiêm túc” một cách sai lầm, kết quả bạn nhận được chỉ là sự “khốn khổ”, dù rằng bạn thực lòng muốn mang lại thành quả tốt đẹp. Có những việc kể từ khoảnh khắc này, bất cứ ai cũng có thể thực hiện được Cuốn sách này sẽ giới thiệu tới bạn đọc những gợi ý góp phần thúc đẩy công việc tiến triển hiệu quả nhất có thể, đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Tôi cho rằng cho dù không cần tới năng lực đặc biệt, không cần tới quá trình đào tạo dai dẳng và khổ cực, chỉ cần chịu khó đào sâu nghiên cứu một cách có chọn lọc, bất cứ ai cũng có được chìa khóa dẫn tới thành công. Có thể đối với bạn đọc, nội dung trình bày trong cuốn sách này là những điều hiển nhiên, hay chỉ là những việc mà chúng ta luôn cho là nhỏ nhặt, nhưng có một điều đáng ngạc nhiên là hiếm có ai lại có thể thực hiện được tất cả. Có lẽ cũng không quá khi nhận định rằng, số người không thực hiện được toàn bộ nằm ở mức 99%. Tuy nhiên, nếu thử nhìn nhận những người đã và đang cố gắng thực hiện tất cả những nội dung đó, họ đã có những bước tiến vượt bậc so với chúng ta ra sao, tôi tin là đa số họ đã trở thành “những người thành đạt”, “những người làm được việc”. Cá nhân tôi luôn tâm niệm rằng, con đường ngắn nhất để trở thành “người thành đạt” là thay vì chăm chú làm những việc to tát, phô trương, thì chỉ cần ngày qua ngày tích lũy những việc làm tuy nhỏ nhặt nhưng hữu ích được trình bày trong cuốn sách này là đủ. Dù vậy, có một bức tường duy nhất mà chúng ta phải vượt qua. Đó là phải thay đổi lối suy nghĩ đối với “sự nghiêm túc” mà từ trước đến nay chúng ta vẫn luôn coi trọng. Điều tôi muốn gửi gắm tới bạn đọc, đó chính là hãy thay đổi 1% cách thức làm việc – lối mòn mà trước nay chúng ta vẫn bị cuốn vào. Cuốn sách này được trình bày thành tám chương. Về cơ bản, tôi nghĩ độc giả sẽ đọc theo thứ tự từ đầu tới cuối, nhưng bạn cũng có thể bắt đầu từ những phần mà bạn cảm thấy hứng thú hoặc tò mò, điều đó cũng không ảnh hưởng tới nội dung mà tôi muốn truyền tải. Sau khi đọc xong cuốn sách, tôi hy vọng bạn có thể ngay lập tức thử thực hiện những gợi ý được trình bày trong đây. Chắc chắn bạn sẽ nhận ra rằng, thì ra công việc lại có thể tiến triển thuận lợi một cách bất ngờ và nhanh chóng đến vậy. -Eitaro Kono Mời các bạn đón đọc Thay Đổi 1% Cách Làm Việc - Đạt Được 99% Thành Công của tác giả Eitaro Kono.