Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đoạn Tuyệt

Tiểu thuyết Đoạn tuyệt của nhà văn Nhất Linh xuất bản năm 1934, viết về cuộc đời Loan, một cô gái mới được tiếp thu những tư tưởng mới và hành trình chống lại những luật lệ phong kiến hà khắc, kìm kẹp quyền tự do cá nhân của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Qua tác phẩm của mình, Nhất Linh phản ánh một cách trực diện xung đột mới – cũ, cổ vũ sự giải phóng của con người thoát khỏi những hủ tục. Và ông cũng ca ngợi sự tự do sống theo đuổi những ước vọng, khát khao cá nhân, những lý tưởng cải tạo xã hội.  Đoạn tuyệt là một trong những tác phẩm mà Sống (Thương hiệu sách Tác giả Việt) đặc biệt tuyển chọn để đưa vào Tủ sách Khuê Văn – tủ sách gồm những áng văn trác tuyệt được ví như những vì tinh tú trong nền văn học Việt Nam. *** Chuyện nàng tân thời. “Đoạn tuyệt” gồm 28 chương, được viết trong năm 1934 – 1935, nội dung chính xoay quanh cô gái tân thời tên Loan. Loan thuộc hàng ngũ thanh niên có học, được tiếp thu nền văn minh mới, hiểu biết về tư tưởng nhân đạo, trọng tự do cá nhân. Nhưng rồi cảnh nhà túng bấn, nàng buộc phải bỏ học, thuận lời cha mẹ kết hôn với Thân con nhà giàu có, cũng là chủ nợ, dẫu lòng nàng vẫn yêu Dũng tha thiết. Dũng là điển hình của thanh niên tân thời vì thoát ly khỏi khuôn khổ đạo đức cũ mà làm trái ý gia đình, bị thầy me từ mặt. Anh sống một cuộc đời cô độc, lênh đênh, thiếu thốn, nhưng tự do. Dũng là hình tượng hướng tới của Loan, không chỉ là tình yêu, anh là hạt nhân trong tính cách của Loan, khiến nàng khát vọng được như Dũng, có những phẩm chất của Dũng, sống một cuộc đời như Dũng. Loan về nhà chồng, gạt bỏ cái tôi, cố sống như mọi người, cố lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nhưng nàng muốn yên mà gia đình chồng không để cho nàng yên. Nàng cưới chồng mà cảm tưởng như bị người ta mua về hì hục lạy người ta để nhận làm cái máy đẻ, làm con sen hầu hạ không công. Mâu thuẫn tư tưởng mới cũ diễn ra gay gắt. Đỉnh điểm là con trai bé bỏng của Loan không may sinh bệnh, mẹ chồng mê tín tin bọn thầy bùa, chữa bệnh bằng uống tàn hương nước thải và có khi lại dùng roi dâu để đánh đuổi tà ma ám ảnh, nghĩa là đánh người ốm. Bé con qua đời một cách tức tưởi. Vốn khó sinh, Loan không còn khả năng mang thai, mẹ chồng bắt Loan đứng ra cưới vợ lẽ cho Thân, thật ra là hợp thức hóa một cuộc hoang dâm, ngoại tình. Vợ lẽ sinh được con trai, lại tỏ ra “kẻ trên”. Khi chức năng đẻ đã bị hỏng, Loan sống như một nô lệ không công, không thiếu đòn roi đánh mắng. Thương thân sinh và bởi cả món nợ cha mẹ chưa trả cho gia đình chồng, Loan tiếp tục nhẫn nhịn. Những tưởng cái đời sẽ từng bước đi lùi, mãi lùi về điểm già cỗi như thế, thì định mệnh xảy ra. Một vụ án mạng. Một phiên hầu tòa. Trắng án. Tự do! Nỗ lực tái thiết xã hội. Viết “Đoạn tuyệt”, Nhất Linh có chủ ý muốn bạn đọc đương thời yêu mới ghét cũ. Để thực hiện chủ ý ấy, ông dựng nên một cuộc xung đột giữa mới và cũ, ở đấy cái cũ hiện hình với tất thảy những xấu xí hủ bại: luân lý cay nghiệt ép con người vào đời nô lệ dưới vỏ bọc bổn phận gia đình, trọng nam khinh nữ, gia trưởng, dân trí thấp, mê tín dị đoan, bạo hành… Quyết định trắng án của quan tòa dành cho Loan, là thêm một tầng khẳng định để tác giả kết án chế độ đại gia đình cũ và dựng lập một chế độ mới, nơi con người cá nhân, đặc biệt là người phụ nữ có thể vui sống tự do trong tư tưởng lẫn thể xác, thoát ly mọi khuôn khổ gò bó của lễ giáo phong kiến. Ở một chừng mực nào đó, Nhất Linh đã thành công. “Đoạn tuyệt” được xem là một trong những kiệt tác của văn xuôi Việt Nam. Nhà nghiên cứu văn học Trương Tửu đã viết trên báo Loa năm 1945: ““Đoạn tuyệt” là một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đàng hoàng công nhận sự tiến bộ và hăng hái ở tương lai. Ông giúp cho bạn trẻ vững lòng phấn đấu. Nghĩa là vui mà sống.” Hẳn nhiên, không thiếu những ý kiến trái chiều, họ cho rằng xung đột trong gia đình  Việt Nam thời bấy giờ là kết quả tai hại của đầu óc lãng mạn trái mùa chạy theo Âu hóa (điều này đúng với cậu Văn Minh con cụ cố Hồng trong “Số đỏ”), nhưng lại sai đối với cô Loan. Loan trong “Đoạn tuyệt” là một người con gái có học, đứng đắn, khôn ngoan, đủ lý trí để xem xét mọi việc, đủ nghị lực để vượt qua thống khổ. Một người con gái mà khát khao “sống một cuộc đời tự lập, cường tráng” như Dũng, như một đấng nam nhi. Tuy nhiên, dùng tình tiết ngẫu nhiên để tạo bước ngoặc cởi bỏ nút thắt truyện đã gây nên một sự may rủi trong giải quyết vấn đề. Và bởi sự may rủi đó, nỗ lực tái thiết xã hội của Nhất Linh cũng còn bỏ ngỏ. Góc nhìn thiên lệch của Nhất Linh. Các sáng tác của Nhất Linh nói riêng, của Tự Lực văn đoàn nói chung đã “mở đầu một chặng đường mới trong văn xuôi” (chữ của Tô Hoài), góp phần định hình cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, và “đóng góp lớn vào văn học sử Việt Nam” (chữ của Huy Cận). Tiểu thuyết của Nhất Linh hay! – Cho đến hiện tại, đây có lẽ đã là sự thật được chia ở thì hiện tại đơn. Cái hay ấy được tạo nên từ bút pháp nghệ thuật, lời văn, cách viết vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ. Nhưng về nội dung đề tài, phải nhận định rằng Nhất Linh đã có góc nhìn khá thiên lệch. Bản thân là một trí thức du học trời Tây 3 năm, Nhất Linh thành lập Tự Lực văn đoàn với 10 tôn chỉ, mà điều thứ 8 trong số đó là “Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa.” Để thực hiện tôn chỉ mà mình đưa ra, Nhất Linh kiên quyết bài trừ phong tục truyền thống, song song với ủng hộ văn minh, ủng hộ Âu hóa. Chưa nhắc đến việc Âu hóa trong bối cảnh đất nước bấy giờ có phải tất cả đều tốt đẹp hay không (cái này phải hỏi cụ Vũ Trọng Phụng). Nhưng phải chăng phong tục cũ nào cũng đáng bị công kích? Đạo Khổng du nhập vào Việt Nam hơn 1000 năm, để lại dấu ấn rất lớn trong quá trình giáo dục và lịch sử dựng giữ nước ở các triều đại phong kiến. Một ví dụ đơn giản dễ hiểu, đạo Khổng răn dạy con người phải “Trung quân ái quốc”, “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”, bởi vậy góp phần không nhỏ tạo nên truyền thống bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta. Những truyền thống ấy có giá trị vĩnh hằng! Quay lại với “Đoạn tuyệt”, với luận đề giải phóng phụ nữ, mở rộng ra là giải phóng cá nhân và đấu tranh chống lễ giáo phong kiến, chống chế độ đại gia đình, phê phán nền luân lý khắc khổ… Nhất Linh đã đặt toàn bộ phong tục tập quán truyền thống trong cái nhìn thành kiến, ông gạt bỏ toàn bộ, gạt bỏ luôn cả một cái lạy của đứa con khi tiễn đưa người mẹ về nơi chín suối. Ông đã để Loan, vì thể hiện thái độ chống cự lại tập tục cũ, mà không tế lễ, không bàn cỗ trong đám tang của mẹ mình. Dĩ nhiên, không cần rầm rộ “một đám ma gương mẫu” như cái cách ông vua phóng sự đất Bắc trào phúng trong “Số đỏ”, và đành rằng, có tưởng nhớ trong lòng, nhưng cái dập đầu với tất cả lòng thành kính tiếc thương đối với đấng sinh thành trước khi đưa người về nơi an nghỉ cuối cùng chưa bao giờ là điều thừa thãi hay đáng bài trừ cả! Nói cho cùng, đứng trước phong tục tập quán cũ, cần có thái độ gạn đục khơi trong để không làm mất đi bản sắc văn hóa truyền thống cũng như các giá trị tinh thần, chứ không phải là phủ định toàn bộ như cách mà Nhất Linh tuyên ngôn và thực hiện. Hiểu thêm về Nhất Linh (1906 – 1963). Nhất Linh tên thật là Nguyễn Tường Tam, nguyên quán ở Quảng Nam nhưng sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là anh ruột của Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long và Thạch Lam Nguyễn Tường Lân. Ông từng theo học ngành Y và Mỹ thuật nhưng đều bỏ dở. Năm 1927, Nguyễn Tường Tam du học Pháp ngành khoa học, thời gian này ông có nghiên cứu nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông lấy bằng cử nhân khoa học và về nước trong năm. Nguyễn Tường Tam đứng ra thành lập Tự Lực văn đoàn (03/1933), giữ vị trí cây bút chủ chốt và là linh hồn của nhóm. Ông cũng từng đảm nhiệm Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Ngoài cái tên Nhất Linh được dùng phổ biến hơn cả, ông còn sử dụng các bút danh Tam Linh, Nhất Chi Mai, Bảo Sơn, Lãng Du khi viết văn làm báo, Đông Sơn khi vẽ, Tân Việt khi làm thơ. Nguyễn Tường Tam còn là một chính trị gia. Ông sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm Bí thư trưởng của Việt Nam Quốc dân Đảng (khi Đại Việt Dân chính Đảng hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân Đảng) và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một cây bút có tài, đồng thời là một chính khách có lòng yêu nước nhưng tham quyền lực và thiếu tầm nhìn nên đã lầm đường lạc lối. Bỏ qua lăng kính trính trị, cần khẳng định và thừa nhận những đóng góp có giá trị của Nhất Linh nói riêng và Tự Lực văn đoàn nói chung vào nghệ thuật tiểu thuyết và tính hiện đại của tiểu thuyết, vào câu văn và tiếng nói của dân tộc Việt Nam. *** Một buổi trưa chúa nhật, về mùa đông. Trong gian phòng ấm áp, bốn người ngồi quây quần nói chuyện trước lò sưởi đỏ rực. Bên ngoài, mưa bụi lặng lẽ bay qua mờ mờ như hơi sương. Hai gốc hoàng lan cạnh cửa sổ đứng rũ rượi, cành lá nặng nề, ướt át. Nghe có tiếng trẻ rao báo ngoài phố, cô giáo Thảo nhìn ra vườn hỏi chồng: – Cậu đã mua báo hôm nay chưa? Ông giáo Lâm đáp: – Mua rồi, tôi quên không đưa mợ xem – Thế họ có đăng tin gì thêm không, cậu? – Không. Thảo quay về phía một cô thiếu nữ ngồi ở ghế đệm dài, rồi hỏi: – Thế nào, chị Loan đã biết tin cô Minh Nguyệt tự tử chưa? Loan đáp: – Tôi biết rồi, biết trước khi họ đăng báo, vì tôi có quen cô ta. Khốn nạn, việc quái gì mà phải tự tử. Mẹ chồng ác thì về nhà bố mẹ mà ở, tội gì rước khổ vào thân rồi đến nỗi tự tử. Thảo nhìn bạn mỉm cười: – Chị nói dễ quá. Còn chồng, còn con… Loan ngắt lời: – Cô ấy chưa có con. – Vâng thì cô ấy chưa có con. Nhưng còn chồng… con gái đã bỏ chồng là mất cả một đời rồi còn gì. Mẹ chồng ghét, chồng bênh mẹ đuổi đi, cô Minh Nguyệt cho đời mình là hết hy vọng. Loan nói: – Việc gì mà hết hy vọng. Mẹ chồng ác thì đi chỗ khác mà ở, chồng ghét thì lại càng nên đi lắm. Khổ là vì cứ tưởng mình là thân con gái thì phải lấy gia đình chồng làm gia đình mình, nếu mất gia đình ấy là đời mình bỏ đi. Sao lại thế được. Mình sống, muốn sống thì không thể một mình mình sống được sao, nếu cái gia đình kia không cho mình được sung sướng. Sao đàn ông họ bỏ vợ này lấy vợ khác lại là sự thường. Thảo thấy bạn nói có vẻ giận dữ, mỉm cười đáp: – Chị đã biết ở xã hội mình, lấy chồng là lấy cả gia đình nhà chồng. Nếu không muốn thế thì chỉ có một cách là không lấy chồng nữa hay là chọn người nào không có gia đình mà lấy. Rồi nghĩ đến việc riêng của Loan, thấy Loan hiện đang bị bố mẹ ép lấy một người mà Loan không thuận, Thảo liền ôn tồn nói tiếp: – Nhưng nào mình có được tự ý kén chọn đâu mà bảo kén chọn. Từ nãy đến giờ, Dũng ngồi sát lò sưởi, loay hoay xếp lại mấy thanh củi, không nói một câu. Thấy hai cô bạn bàn tán mãi về một câu chuyện đã cũ kỹ, chàng liền quay lại nói: – Chuyện gia đình bao giờ cũng rắc rối; nào tự do kết hôn, nam nữ bình quyền, mẹ chồng nàng dâu, bao nhiêu thứ lôi thôi, muốn yên ổn thì đừng nghĩ đến nữa. Thảo đáp: – Anh thì anh cần gì gia đình mà bảo nghĩ đến. Còn chị Loan nay mai phải về nhà chồng, chị ấy không để tâm sao được. Rồi nàng mỉm cười tinh nghịch: – Chỉ trừ khi nào chị Loan lấy được người chồng không có gia đình như anh. Câu nói đùa làm cho Loan buồn rầu cúi mặt nghĩ đến nhân duyên của nàng. Nàng bị cha mẹ ép phải lấy Thân, một người bạn học thuở nhỏ của nàng, con một nhà giàu ở ấp Thái Hà. Việc này nàng thấy cha mẹ nói từ hồi nàng mới để tóc. Hai nhà trong mười năm trời nay vẫn đi lại thân mật, hai bên cha mẹ đã định ước cho Thân và Loan lấy nhau. Loan vẫn nhất quyết không chịu không phải là Loan chê gì Thân, vì Thân đối với nàng chỉ là một người quen, nàng không yêu mà cũng không ghét. Nhà Thân lại giàu, Loan chắc chắn rằng khi về nhà chồng, sẽ được sung sướng, an nhàn. Nhưng chỉ vì Loan càng ngày càng thấy cái tình của mình đối với Dũng không phải chỉ là cái tình bạn bè như trước kia. Nàng yêu Dũng và cái hy vọng của nàng lúc đó là được làm vợ Dũng. Tuy định bụng không chịu lấy Thân, nhưng nàng cũng hằng lo lắng, vì nàng biết cha mẹ nàng đã quả quyết về việc đó. Nếu nàng cưỡng tất có sự rắc rối trong gia đình. Thảo nói: – Chị Loan nghĩ ngợi gì mà ngồi thừ ra thế kia? Hay là nghĩ đến đường chồng con sau này đấy? Loan mỉm cười rồi muốn giấu ý nghĩ riêng, nàng ngồi ngay người, hai tay để vào lòng, mặt nghiêm trang nhìn thẳng, bắt chước dáng cô dâu ngoan ngoãn, thỏ thẻ nói: – Cha mẹ đặt đâu, con xin ngồi đấy. Thảo cười bảo: – Còn cô rồi lại không thế à? Loan nói: – Em không lấy chồng. – Không lấy chồng thì làm gì? Loan ưa mắt nhìn Dũng đáp: – Thế anh Dũng thì sao? – Anh Dũng khác. Có phải không, anh Dũng? Dũng thẫn thờ đáp lại: – Phải, tôi thì đâu dám nghĩ đến đường vợ con. Không cửa, không nhà, nay đây mai đó, chính thân tôi, tôi cũng không biết sau này ra sao nữa là. Tôi chỉ có bạn chứ không có gia đình nào cả. Dũng đưa mắt nhìn vợ chồng ông giáo như cảm ơn hai người bấy lâu đã không sợ gì lời dị nghị của thiên hạ, sẵn lòng để chàng đi lại và lúc nào cũng âu yếm, coi chàng như một người em nhỏ đáng thương vì đã bị nhà và họ hàng ruồng bỏ. Ông giáo Lâm dựa vào câu của Dũng bảo đùa vợ: – Đấy, mợ xem sống như anh Dũng mới là đáng sống. Không vợ, không con, thênh thang tự do. Tôi thì có đi đâu một tí, mợ đã kêu la ầm trời đất. Cả ngày chỉ co ro ngồi đánh bóng tủ chè, đỉnh đồng. Cái đời vô vị tẻ ngắt. Mọi người cười ồ. Thảo nói tiếp câu của chồng: – Nhưng mà yên thân. Loan thoáng nghĩ đến hai cảnh đời trái ngược nhau: một cảnh đời yên tịnh ngày nọ trôi theo ngày kia như dòng sông êm đềm chảy, nhẫn nại sống trong sự phục tùng cổ lệ như mọi người con gái khác và một cảnh đời rộn rịp, khoáng đạt, siêu thoát ra hẳn ngoài lề lối thường. Loan nhìn Dũng, ngắm nghía vẻ mặt cương quyết, rắn rỏi của bạn, nghĩ thầm: – Học thức mình không kém gì Dũng, sao lại không thể như Dũng, sống một đời tự lập, cường tráng, can chi cứ quanh quẩn trong vòng gia đình, yếu ớt sống một đời nương dựa vào người khác để quanh năm phải kình kịch với những sự cổ hủ mà học thức của mình bắt mình ghét bỏ. Mình phải tạo ra một hoàn cảnh hợp với quan niệm mới của mình. Dũng chợt thấy Loan nhìn mình đăm đăm không chớp, có ý ngượng, quay lại với điếu thuốc lá, gắp than hồng châm hút, rồi uể oải đứng dậy xin phép về nhà. Thảo nhìn ra cửa sổ: – Trời vẫn còn mưa. Chúa nhật nhàn rỗi hãy ngồi ít lâu nữa. Rồi âu yếm như chị nói với em, Thảo ân cần hỏi: – Thế nào anh Dũng dọn nhà chưa? – Tôi vừa dọn xong, hôm nào thong thả mời anh chị và cô Loan lại chơi. Tôi xuống bếp đun nước lấy. Có thế mới quý. Thấy bộ quần áo của Dũng đã cũ kỹ, bạc màu, nghĩ đến cảnh nghèo của người bạn sống cô độc trong một gian nhà trọ, không thân thích, không đầy tớ, Loan bùi ngùi thương hại, hai con mắt dịu dàng nhìn Dũng, nói nửa đùa nửa thật: – Anh Dũng cần người hầu hạ thì đã có em. Em lấy rẻ mỗi tháng có năm hào công thôi… Câu nói đùa có ngụ ý không được tự nhiên làm cho Dũng ngượng nghịu, chàng gượng cười bắt tay ông giáo, cúi đầu chào Thảo và Loan, rồi cầm mũ, mở cửa đi ra ngoài mưa gió. Mời các bạn đón đọc Đoạn Tuyệt của tác giả Nhất Linh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngày Hoa Lư Ngược Gió - ViVu Smile
Lịch sử thuộc về những kẻ thắng trận Đâu mới là chân sử? Một nữ cảnh sát tổ trọng án của Tổng cục an ninh Việt Nam tại sao lại lạc về đây? Giữa những âm mưu đầy máu? Để tìm ra những góc khuất tàn khốc của lịch sử hay sao? *** Trời đã vào đêm, khu phố cảng Sài Gòn đã bắt đầu lên đèn. Tiếng hò reo của những người trẻ say khướt nhộn nhịp, quả thật, Sài Gòn là thành phố không ngủ. Phía dưới chân cầu Khánh Hội, tiếng nhạc và tiếng cạn ly náo nhiệt cả không gian. -Đội trưởng, hướng hai giờ. Hoài An tay cặp một thúng đồ, chứa đầy xoài, cóc, trứng cút để bán dọc ven các quán ăn bên đường. -Tên đội nón đen, áo khoác jean. -Đã thấy. Hoài An len lỏi qua dòng người đang ngả nghiêng đàn hát theo men say. Khung cảnh hỗn tạp này, quả là thời cơ để bọn chúng thực hiện giao dịch. -Em ơi lấy bọn anh một bịch đậu phộng đi. Hoài An ngước nhìn thanh niên mặt mày đỏ lự đang níu lấy chiếc thúng của cô. -Đội trưởng, bọn chúng đã giao dịch xong rồi. Đội A sẽ đuổi theo tên mới đến! -Được. Hoài An cười khẽ, cô đẩy tay anh chàng kia ra. -Em không có bán anh ạ. Thanh niên kia ngệch mặt ra, bạn bè anh ta phá lên trêu đùa. -Này! Anh nói em đó, mặt mày cũng xinh xắn đấy. Hoài An gỡ tay anh ta ra, nhanh chóng bước đi. -Này! Anh ta túm lấy vai cô hét lên. Cả khu cảng dường như bất ngờ quay lại nhìn. Sài Gòn là vậy, dễ thương lắm. Người Sài Gòn luôn hiếu kì và quan tâm nhau. Nhưng hình như đây không phải đúng lúc! ... Mời các bạn đón đọc Ngày Hoa Lư Ngược Gió của tác giả ViVu Smile.
Thằng Cười - Victor Hugo
Bộ tiểu thuyết Thằng cười của Victor Hugo đưa chúng ta đến với nước Anh của thế kỷ XVII, chủ yếu dưới các triều đại của dòng họ Xtiua. Giắc II và Annơ Xtiua. Victor Hugo đã đưa vào Thằng cười không biết bao nhiêu chi tiết lịch sử có thật của nước Anh thời bấy giờ với tên tuổi các ông vua, các nữ hoàng, nữ công tước, các vị nguyên lão, miêu tả tỉ mỉ chốn cung điện, các nghi thức triều đình... với một bút pháp độc đáo tài tình.  *** Ở nước Anh, mọi thứ đều phi thường kể cả cái không tốt, kể cả chế độ đại tộc. Giai cấp quí tộc của Anh mới thật sự là giai cấp quí tộc, trong ý nghĩa tuyệt đối của từ ngữ đó. Không có chế độ phong kiến nào nổi tiếng hơn, khủng khiếp hơn và tồn tại dai dẳng hơn. Chế độ phong kiến ấy đã có tác dụng ở thời điểm của nó, chúng ta phải công nhận điều đó. Hiện tượng ấy, hiện tượng Lãnh quyền, cần được nghiên cứu ngay trên đất Anh, cũng như hiện tượng Vương quyền phải được nghiên cứu ngay trên nước Pháp. Lẽ ra nhan đề thật sự của cuốn sách này là Chính thể quí tộc. Một cuốn khác tiếp theo có thể lấy nhan đề là Chính thể quân chủ. Cả hai cuốn đó, nếu tác giả hoàn thành được, sẽ ra trước và sẽ dẫn theo một cuốn khác nhan đề: Chín mươi ba. *** Uyêcxuyt và Ômô gắn bó với nhau bởi một tình bạn thắm thiết. Uyêcxuyt là một con người, Ômô là một con sói. Đôi bên rất tâm đầu ý hợp. Chính con người đã đặt tên cho con sói. Cũng có thể chính ông ta đã tự chọn lấy tên; thấy Uyêcxuyt hợp với mình, nên ông thấy Ômô rất hợp với con vật[3]. Việc kết bạn giữa người này và sói nọ rất có lợi, ở các phiên chợ, ở các hội hè của giáo khu, ở các góc đường có nhiều người qua lại tụ tập, và ở nhu cầu của dân chúng đứng đâu cũng muốn nghe những chuyện lăng nhăng, ngồi đâu cùng muốn mua những thuốc nhảm nhí. Quần chúng rất thích con sói ngoan ngoãn và biết phục tùng một cách rất dễ thương. Còn gì thú vị bằng được xem những trò luyện thú. Thoả mãn nhất là khi chúng ta được nhìn tất cả các kiểu thuần hóa súc vật diễn ra trước mắt. Chính vì vậy mà trên đường đi qua của những đoàn tùy tùng nhà vua, có nhiều người như thế. Uyêcxuyt và Ômô đi hết ngã tư này đến ngã tư khác, hết các quảng trường Aberixuyt đến các quảng trường Yetbua, hết xứ này qua xứ nọ. Hết lãnh địa nọ sang lãnh địa kia, hết phố phường lại đến thị trấn. Chợ này vãn, thầy trò sang chợ khác. Uyêcxuyt ở trong một cái chòi lưu động, được Ômô, khá văn minh, kéo lệch xệch ban ngày và ban đêm thì canh gác hộ. Ở những đoạn đường khó đi, gặp những đoạn dốc, khi có nhiều vết xe quá và có nhiều bùn quá, người lại đóng đai lên cổ và thân mật sát cánh cùng sói kéo xe. Cứ như thế cả hai cùng già đi. Thầy trò gặp đâu cắm lều đó, trên một bãi hoang, ven một trảng trống, giữa giao điểm của đường sá, ở cổng vào thôn xóm, ngay các cửa ô, trong những đình chợ, giữa đường dạo mát, rìa các công viên, trên sân nhà thờ. Khi các xe dừng bánh ở một bãi chợ phiên nào đó, khi các mẹ há mồm đổ xô đến, khi những kẻ tò mò xúm đen xúm đỏ, Uyêcxuyt lại cất tiếng ba hoa, Ômô lại tán thành. Mõm ngậm một cái bát gỗ, Ômô lễ phép đi xin tiền khán giả. Thầy trò cứ thế kiếm sống qua ngày. Sói biết chữ, mà người cũng biết chữ. Sói được người huấn luyện, hoặc tự luyện lấy một mình, làm được nhiều trò sói rất dễ thương, góp thêm phần thu nhập - Cốt nhất chú mình đừng có thoái hóa thành người đấy - ông bạn nói với nó như thế. Sói không bao giờ cắn, nhưng người thì cũng thỉnh thoảng. Ít ra, cắn là ước vọng của Uyêcxuyt. Ông vẫn là một người yếm thế, và để tỏ rõ tính yếm thế của mình, ông đã chọn lấy cái nghề múa rối. Cũng cốt là để kiếm sống vì dạ dày hay áp đặt điều kiện của nó. Hơn nữa ông già yếm thế múa rối này, hoặc để cho mình thêm khó hiểu, hoặc để cho mình được thật hoàn chỉnh. Còn làm thêm nghề thầy thuốc. Bảo là thầy thuốc cũng chưa hết đâu. Uyêcxuyt còn nói được giọng bụng. Người ta thấy ông nói ra nhưng mồm thì lại không mấp máy. Ông bắt chước được giọng nói và cách phát âm của bất cứ ai, người nghe rất dễ lầm; ông giả giọng mà cứ tưởng như có người nói thật. Một mình ông có thể làm được đủ tiếng rì rầm của cả một đám đông, vì vậy ông được tôn là thầy nói bằng bụng. Ông nhận luôn danh hiệu đó. Ông có thể bắt chước đủ mọi tiếng chim, họa mi, cun cút, sơn ca mà người ta còn gọi là bêghinet, sáo yếm trắng, tất cả các loại hay đi lang bạt như ông; thành thử, chốc chốc tùy ý ông, ông lại cho ta nghe một quảng trường đầy tiếng người xôn xao, hoặc một cánh đồng ồn ào tiếng súc vật; lúc thì náo nhiệt như một đám đông, lúc thì nhẹ nhàng, yên tĩnh như giây phút bình minh. ... Mời các bạn đón đọc Thằng Cười của tác giả Victor Hugo.
Vẽ Em Bằng Màu Nỗi Nhớ - Tâm Phạm
Câu chuyện là hồi ký của nhân vật Khanh trong khoảng thời gian quay trở lại Việt Nam đan xen cùng những ký ức của 6 năm trước đó. Tại Sài Gòn, Khanh đã gặp lại Linh - người con gái của miền ký ức và Miu - cô gái tưởng như xa lạ mà thân quen. Độc giả có thể tò mò về Miu, nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng luôn mang theo một điều bí ẩn về thân phận và cách ứng xử lạ lùng. Chỉ bởi Khanh không nhận ra cô sau 6 năm gặp lại mà Miu đã quyết tâm lên kế hoạch khiến Khanh nhận ra con người và tình cảm của mình. Cùng với đó là sự xuất hiện của Linh, người con gái gắn liền với ký ức về khoảng thời gian 3 năm trước khi rời Việt Nam của Khanh. Yêu và dành trọn tình cảm cho Linh, nhưng Khanh nhận lại chỉ là tình cảm bạn bè và một trái tim tan nát bởi trong lòng Linh luôn có hình bóng của người con trai khác. Sau khi Khanh ra đi trong đau đớn thì Linh đã nhận ra tình cảm thực sự của mình. Khoảng thời gian 6 năm đã thay đổi nhiều thứ, Khanh giờ đây đã là một kỹ sư trưởng thành và chững chạc hơn xưa. Đối mặt với một Linh tình cảm nồng nàn đợi chờ và một Miu bí ẩn luôn quan tâm, chăm sóc, Khanh vẫn luôn giữ đúng chừng mực. Điều bất ngờ xảy ra trong ngày sinh nhật của Linh và Miu, như giọt nước làm tràn ly, Miu đã khiến Khanh tự nhận ra thân phận thật của mình là cô bé Trinh thân thuộc và bộc lộ tình cảm bấy lâu dành cho Khanh. Sự thật này làm cho Khanh phải bất ngờ không chỉ bởi sự thay đổi về ngoại hình của Trinh mà Khanh còn phát hiện ra rằng tình cảm từ trước đến nay dành cho ai. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng của Khanh đều khiến mọi người phải ngỡ ngàng. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống thường ngày của những thanh niên trẻ trung và năng động, về tình yêu, tình bạn, tình cô trò và tình thân gia đình với nhiều cung bậc cảm xúc từ hài hước đến tò mò, đôi khi là những giọt nước mắt đầy xúc động. *** - Cho con một tô đặc biệt nhe cô. Sau bao nhiêu năm trở lại đây, mọi thứ vẫn không hề thay đổi gì nhiều. Vẫn con đường nhỏ vào khu chợ Việt Kiều, vẫn dòng người qua lại mua bán tấp nập, lũ trẻ trong xóm vui đùa cùng nhau một cách hồn nhiên. Tôi đang ngồi trong một quán hủ tiếu nhỏ, cái nơi mà nó đã từng gắn liền với tuổi thơ. Là những lúc phải ăn hủ tiếu vì chán cơm thèm phở theo đúng nghĩa đen của nó, là những lúc không cơm nhà vì mẹ bận, là những lúc hội hợp bạn bè và …là những lúc mà cái quán nhỏ này trở thành nơi để lại trong tôi nhiều kỷ niệm vui buồn về tình yêu đầu của tuổi học trò. Vừa ăn vừa hổi tưởng lại nhưng ký ức đã qua, thoáng chốc mà đã gần hết tô hủ tiếu. Cái hương vị của bò viên hòa quyện vào nước lèo thật đậm đà khó tả. Tôi đã từng tìm đến rất nhiều nhà hang ẩm thực Việt tại các tiểu bang Hoa Kỳ chỉ để có được cái hương vị này, hương vị món ăn của quê hương. Đang say sưa với tô hủ tiếu thân yêu, bỗng ngoài cửa, một người con gái xuất hiện. Sẽ chẳng có gì lạ khi một đứa con gái bước vào một quán hủ tiếu. Điều khiến tất cả các gã đàn ông trong quán phải ngưng đũa và ngoái nhìn là vì cô ấy quá nổi bật, một vẻ đẹp kiêu kỳ hút mọi ánh nhìn, ở cô ấy toát lên một sự cuốn hút kỳ lạ. Cùng với chiếc váy trắng bó sát và giày cao gót, làm tôn lên một thân hình hoàn hảo với ba vòng cân. Nước da trắng hồng cùng mái tóc dài được búi cao lên, đúng là người con gái trong mơ của bất cứ gã đàn ông nào. Tôi nghĩ thầm trong bụng, có lẽ em là diễn viên hay người mẫu gì đây. Chả trách nhìn khuôn mặt rất quen, cứ như từng đóng trong một bộ phim nào đó mà tôi đã xem dù vẫn còn đó cặp kính đen trên đôi mắt. Bỗng định thần lại, tôi quay lại với tô hủ tiếu đã sắp nguội của mình và tiếp tục ăn ngon lành. Thình lình có tiếng kéo ghế, một ai đó vừa ngồi vào bàn của tôi theo hướng đối diện. Ngước mặt lên thì chính là cô ấy, tôi nhìn cô ấy và tỏ vẻ hơi bất ngờ vì trong quán vẫn còn nhiều bàn trống mà. Và nếu là một người lịch sự thì ít nhất cũng nên hỏi tôi một tiếng xem có thể ngồi cùng bàn hay không chứ. Nhưng thôi, tôi cũng không quan tâm lắm và tiếp tục sự nghiệp ăn uống của mình. Lâu lâu tôi lại ngước lên thì thấy cô ấy vẫn lặng yên ở đó và nhìn về phía tôi, thật ra thì tôi cũng không dám chắc là sau cặp kính đen ấy, cô ấy đáng nhìn về phía nào. Tự nhiên cảm thấy một chút bối rối và hơi bất an. - Cho con một ly cafe sữa đá nhe dì! – Một giọng nói thánh thoát từ cái miệng nhỏ xinh phát ra, cô ấy thao kính đen, tay vẫy gọi bà chủ quán. Cặp mắt long lanh ấy thật đẹp, nhin rất cuốn hút và vô cùng thân quen. Bây giờ thì tôi có thể tin rằng mình đã từng thấy cô ấy ở đâu đó trên tivi. Thở phào một cái và tiếp tục với tô hủ tiếu của mình, không khí nghiêm trọng nãy giờ mới được giải phong bớt khi cô ấy đặt chiếc kính lên bàn. Nhưng tính tôi khá khó chịu khi phải ngồi ăn chung bàn với một người không quen biết, vì đôi lúc tôi ngước nhin lên ngắm cảnh vật xung quanh thì lại đối mặt với người ngồi đối diện. Ngày xưa, vào những trường hợp thế này tôi thường cắm cuối ăn cho nhanh rồi tính tiền ra về, không thể ngồi lâu thưởng thức món ăn và ngắm nhìn cảnh vật phố phường. Nhưng hôm nay thì khác, có lẽ là một ngoại lệ. Đối diện tôi là một cô gái với vẽ đẹp sắc sảo, lạnh lung, không để ý đên một ai xung quanh. Thể loại này thường bị cho là chảnh, cũng đúng thôi, người ta đẹp thì người ta có quyền mà. - Nước của con đây. – Bà chủ quan nói với cô ây. ... Mời các bạn đón đọc Vẽ Em Bằng Màu Nỗi Nhớ của tác giả Tâm Phạm.
Cố Đô - Yasunari Kawabata
Tác phẩm xuất sắc nhất của Kawabata, tiểu thuyết Cố đô kể về cô gái trẻ Chieko, một đứa trẻ bị cha mẹ nghèo xơ xác bỏ rơi và được gia đình thương gia Takichiro nhận nuôi, ở đây cô được nuôi nấng dạy dỗ theo những nguyên tắc truyền thống của Nhật Bản. Chieko là một cô bé nhạy cảm, trung thành, nhưng thầm ấp ủ câu hỏi về thân thế của mình. Ở Nhật Bản, người ta cho rằng một đứa trẻ bị bỏ rơi sẽ khổ ải với tai ương suốt đời, thêm vào đó, theo một quan điểm hết sức lạ lùng của Nhật Bản, trẻ sinh đôi còn chịu sự nhục nhã đáng xấu hổ. Một ngày nọ tình cờ cô gặp một cô gái lao động xinh đẹp trong rừng tuyết tùng gần thành phố và phát hiện ra rằng cô là người em song sinh của mình. Họ gắn kết sâu sắc với nhau vượt qua hàng rào giai cấp xã hội - cô gái thô kệch, làm việc nặng nhọc Naeko và cô gái thanh nhã, luôn được bảo vệ cẩn mật Chieko, nhưng sự giống nhau lạ lùng giữa họ đã mau chóng làm phát sinh rắc rối, phiền toái. Toàn bộ câu chuyện được đặt trong bối cảnh năm lễ hội tôn giáo ở Kyoto từ mùa xuân anh đào nở rộ đến mùa đông lấp lánh tuyết. Cố đô là một trong ba tác phẩm của Yasunari Kawabata được Ủy Ban Giải Thưởng Nobel dẫn chứng khi tặng giải, có cốt truyện phức tạp liên quan tới một cặp chị em song sinh, đã bị chia cách từ lúc mới chào đời nhưng các yếu tố khiến cho các nhân viên cứu xét Giải Thưởng Nobel phải quan tâm, là do tác phẩm đã nói lên các vẻ đẹp của Thành Phố Kyoto và các truyền thống cổ, với các phụ nữ Kyoto còn giữ các vẻ duyên dáng, không bị nền văn hóa phương Tây làm biến chất. Cùng với phần lớn du khách, Kawabata ước muốn rằng lối sống cổ truyền Nhật Bản vẫn được duy trì. Bản thân thành phố thật sự là một nhân vật quan trọng, thủ đô của vương quốc xưa, từng là nơi đóng đô của Thiên hoàng và triều đình, sau hàng ngàn năm vẫn là một thánh địa lãng mạn, quê hương của mỹ thuật và hàng thủ công trang nhã, ngày nay tuy bị khai thác cho du lịch nhưng vẫn là địa điểm thăm viếng được ưa chuộng. Với các chùa chiền phật giáo và các đền thờ Thần đạo, khu thủ công xưa và vườn thực vật, nơi này mang trong nó chất thơ mà Kawabata thể hiện bằng một phong cách dịu dàng, nhã nhặn, không ủy mị mà tự nhiên như một sự hấp dẫn đầy xúc động. Ông đã sống qua thất bại nặng nề của đất nước và nhận thức chắc chắn rằng tương lai đòi hỏi những gì về tinh thần cầu tiến, nhịp điệu và sức sống công nghiệp. Nhưng trong làn sóng hậu chiến của sự Mỹ hóa mạnh mẽ, tiểu thuyết của ông là lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự cần thiết cứu lấy một cái gì đó trong vẻ đẹp và cá tính của Nhật Bản xưa cho một nước Nhật Bản mới. Ông mô tả những lễ nghi tôn giáo ở Kyoto một cách tỉ mỉ như thể chọn mẫu hoa văn trên khăn thắt lưng truyền thống trong trang phục phụ nữ. Những khía cạnh này trong tiểu thuyết có thể có giá trị tài liệu, nhưng độc giả thích thú với những đoạn mô tả sâu sắc như vậy như đoạn tả nhóm người trung lưu của thành phố thăm viếng vườn thực vật - vốn bị đóng cửa một thời gian dài vì lính Mỹ chiếm đóng lập doanh trại ở đó - để nhìn xem những con đường đáng yêu với hàng cây long não có còn nguyên và có thể làm vui sướng những con mắt thành thạo hay không. Với Kawabata, lần đầu tiên Nhật Bản bước vào thế giới những người đoạt giải Nobel văn chương. Điều cốt yếu dẫn đến quyết định này là, với tư cách nhà văn, ông đã truyền đạt một nhận thức văn hóa có tính thẩm mỹ và đạo đức cao (moral-esthetic cultural awareness) bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo, do đó đóng góp vào cầu nối tinh thần Đông Tây theo cách của ông. *** Chieko để ý thấy những đóa hoa tím đã nở trên cây phong. - Ôi cả năm nay nữa chúng cũng nở kìa? - Hơi thở mùa xuân mơn trớn thoảng vào Chieko. Trong khu vườn nhỏ bé cây phong hóa ra đồ sộ, thân nó to ngang hơn chính Chieko nhiều lắm. Nhưng lẽ nào có thể đem cái thân cây đầy rêu, phủ lớp vỏ chai sần, nứt nẻ, sánh với thân hình con gái của Chieko... Vừa đúng ngang tầm eo lưng, cây phong hơi vẹo về bên phải, rồi đến đoạn cao hơn đầu nàng lại thoắt vươn sang phải thành một vòng cung mà chính từ khúc cong này cành tỏa ra mọi phía, che phủ cả khu vườn. Những cành dài trĩu xuống vì sức nặng bản thân chúng, chạm đầu cành tới đất. Dưới chỗ thân cây đột ngột uốn cong một chút là hai hốc lõm con con, nơi những cây hoa tím mọc. Cứ xuân sang chúng lại trổ hoa. Trong chừng mực mà Chieko còn nhớ được thì trên thân cây vốn bao giờ cũng có hai khóm hoa. Khóm trên cách khóm dưới một khoảng trọn một xiaku 1. Khi đã là cô gái trưởng thành, Chieko thường hay tư lự: liệu có khi nào hai cây hoa tím trên dưới gặp được nhau không? Liệu chúng có biết đến sự tồn tại của nhau không? Nhưng với chúng thì các chữ "gặp", "biết" mang được ý nghĩa gì kia chứ?... Hoa nở không nhiều - thấy chỉ ba đến năm vành hoa nhỏ là cùng. Nhưng dù sao cứ xuân sang, trong hai hốc nhỏ bé trên thân cây phong, chồi mới lại nhú lên, hoa lại nở. Chieko thường ngắm hoa từ chỗ lối đi, hoặc khi đứng trước gốc cây. Nàng nhìn chúng, mắt ngước từ khóm dưới lên khóm trên mà lòng bồi hồi, lúc lấy làm ngạc nhiên cho "kiếp sống" khác thường ấy của loài hoa tím, lúc cảm thấy một cảm giác cô đơn đôi khi đến lạ. - Chính đây là nơi chúng đã lớn lên...Rồi sống...- nàng thầm thì. Khách khứa đến cửa hàng vẫn tỏ vẻ thán phục cây phong nhưng hầu như chả có ai để ý thấy những cây hoa tím đang khiêm nhường trổ hoa. Cái cây cổ thụ làm người ta kinh ngạc bằng sức mạnh của mình, mà khúc thân mọc điểm rêu xanh gợi ra sự nể trọng và tạo thêm cho cây phong một nét mỹ cảm riêng. Hai khóm hoa tím nhỏ nhoi, nương náu trên đó, dường như lu mờ hẳn trong khúc ngợi ca sự hùng vĩ và vẻ đẹp kia. Mời các bạn đón đọc Cố Đô của tác giả Yasunari Kawabata.