Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi - Nguyễn Tuân

Nói về đóng góp của Nguyễn Tuân qua tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận định: "Tập tùy bút ấy là đóng góp của Nguyễn Tuân trực tiếp đánh Mỹ". Cũng tương tự, nhưng cụ thể hơn, nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ cho rằng, với "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", Nguyễn Tuân đã "đánh địch với tư thế của một dân tộc đi tiên phong trên tuyến đầu chống Mỹ, với lòng tự hào của một dân tộc đang chiến thắng". Nếu như tập tùy bút "Sông Đà" được xem là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Tuân về đề tài xây dựng CNXH thì tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" lại được xem là tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Cả hai tác phẩm đều giống nhau là có cái tên nghe rất mộc mạc, đọc lên là thấy ngay được chủ đề, khác xa với cách đặt tít điệu đàng của nhà văn - kiểu như "Vang bóng một thời" trước đây. Tuy nhiên, tên sách mộc mạc thì mộc mạc vậy, song dồn nén trong đó là biết bao tâm huyết, trí tuệ, tình cảm. Có trường hợp, như với cuốn "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", để thu thập, tìm kiếm tư liệu, tác giả đã không ngại ngần đối mặt với hiểm nguy... Tập tùy bút Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi gồm có: Ở mặt trận Hà Nội Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội Cho giặc bay Mỹ nó ăn một cái Tết ta Nôen Mỹ Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào Có ba phi công Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi Nhớ Huế Sài Gòn tống Mỹ Bên ụ súng Hà Nội, một đám cưới phòng không Nó bê-năm-hai phố Khâm Thiên Tái bút (12-1973) Vụn B.52 và hoa Hà Nội chiến thắng Đất cùng trời toàn cõi ta, từ đây sạch hẳn bóng nó Vậy mà đã một năm chiến thắng B.52 Đêm xuân năm Hổ này, nằm ngẫm thêm về bầy hổ Mỹ Những ai từng có mặt tại 51 Trần Hưng Đạo, trụ sở Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam trong 12 ngày đêm năm ấy (1972), hẳn không quên được hình ảnh một lão nhà văn: Mỗi lần nghe tin B52 Mỹ đánh bom, với chiếc mũ sắt đội đầu (do báo Văn nghệ cấp cho cộng tác viên), ông lại tìm đến tận nơi xảy ra chiến sự để hỏi han, ghi chép. Lão nhà văn mặc dù đã ở tuổi ngoại lục tuần song vẫn có cách tác nghiệp như thể một phóng viên mặt trận ấy chính là nhà văn Nguyễn Tuân - tác giả của tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" nức tiếng một thời.   Lý do gì mà một tên tuổi như Nguyễn Tuân - người luôn được xem là một vốn quý của văn học đất kinh kỳ - lại quyết bám trụ với Thủ đô tới cùng, quyết không chịu đi sơ tán theo chủ trương của cơ quan? Nhà văn Ngọc Trai, trong cuốn "Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Tuân" (NXB Hội Nhà văn, 2010) đã ghi lại lời tâm sự của cụ Nguyễn như sau: "Mình sống được như thế này là lãi rồi, cần trốn tránh làm gì nữa! Bây giờ mình Sống mãi với Thủ đô thôi". Nhà phê bình Mai Quốc Liên, trong một bài viết về nhà văn Nguyễn Tuân in trên tạp chí Hồn Việt cách đây ít lâu cũng ghi lại lời cụ Nguyễn: "Mình là người viết văn, nhà văn Việt Nam. Trong khi Thủ đô - trái tim của cả nước - lâm nguy mà mình bỏ Hà Nội mình đi, thì còn viết cái gì, mình còn ra gì nữa ông?".   Không chỉ vì sự gắn bó, thủy chung với Hà Nội, việc lão nhà văn quyết ở lại "Sống mãi với Thủ đô" (như tên một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng) còn bởi bấy giờ, ông đang ấp ủ việc hoàn tất tập bút ký "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi". Cuốn sách đã được Hội Văn nghệ Hà Nội cho xuất bản ngay sau trận bom Mỹ cuối cùng chấm dứt (ngày 30-12-1972). Bài cuối cùng của tập sách là bài "Nó bê - năm - hai phố Khâm Thiên" được lão nhà viết ngay sau khi B52 Mỹ trút bom rải thảm hủy diệt một trong những khu dân cư đông đúc nhất Hà Nội lúc bấy giờ (vào đêm 26, rạng ngày 27-12-1972). Điều này chứng tỏ ngòi bút Nguyễn Tuân đã ứng trực rất kịp thời, và việc ra sách cũng nhanh đến… kỷ lục.   Thật ra, "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" không chỉ nói về việc quân dân Hà Nội đánh trả và đánh thắng không lực Mỹ trong trận "Điện Biên Phủ trên không". Nhiều bài trong tập được Nguyễn Tuân viết ra từ mấy năm trước. Tập sách cũng không chỉ nói riêng việc Hà Nội đánh Mỹ (trong tập còn có bài "Sài Gòn tống Mỹ" và bài "Nhớ Huế" nói về cuộc tổng tấn công Xuân Mậu Thân 1968 ở Huế). Bản thân bài "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" cũng được Nguyễn Tuân viết trước đó 5 năm. Tuy nhiên, nếu không có những bài viết đề cập tới cuộc chiến long trời lở đất diễn ra ngay tại "trái tim của cả nước" suốt 12 ngày đêm năm ấy, hẳn cuốn sách sẽ không có được sức nặng như nó cần phải có. Và nếu không được ra mắt bạn đọc đúng thời điểm ấy, thì hẳn cái tên của cuốn sách cũng phần nào giảm ý nghĩa. Đó như thể một thứ Huân chương Chiến công kịp thời đính lên ngực Thủ đô vậy.   Liên quan đến tên gọi của cuốn sách, có một giai thoại vui. Hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ mấy câu thơ của Tố Hữu (trong trường ca "Theo chân Bác"): "Ôi! Nụ cười vui của Bác Hồ/ Miền Nam đánh giỏi, Mỹ thua to". Hình như trong tâm lý mọi người, chữ "giỏi" là cách nói của người bề trên khi nhận xét về người bề dưới, chí ít thì cũng là người lớn nói với trẻ con, thầy cô nói với học trò. Việc nhà văn Nguyễn Tuân dùng chữ "giỏi" để ngợi khen Thủ đô Hà Nội nghe ra có vẻ gì đó không… thuận?   Quả y như rằng, thoạt nghe cái tên này, nhà văn Tô Hoài đã yêu cầu tác giả phải… đổi.   Bấy giờ nhà văn Tô Hoài là Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, là nơi cấp giấy phép cho in cuốn sách. Theo ý Tô Hoài thì đặt tên "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" cứ y như mình "đang đứng ở bề trên mà ban khen cho Hà Nội vậy". Nguyễn Tuân nghe vậy nổi đóa: "Ba cái anh duyệt bài là hay chúa suy diễn. Tôi không có đứng trên đứng dưới cái gì sất, chỉ có điều là tôi không chịu được cái gì chung chung. Tôi nói Hà Nội ta là Hà Nội của chúng ta đây! Hà Nội của ta đây! Tôi tự hào với cái Hà Nội của ta, thế có được không? Thế còn đánh Mỹ giỏi thì phải nói rõ ra là đánh Mỹ giỏi chứ chỉ đánh Mỹ thì ai biết ta đánh Mỹ như thế nào? Một cái tên sách, nó cũng là cái tên sách của tôi, sao ông cứ bắt tôi phải giống mọi người? Nếu ông làm biên tập mà cứ muốn gọt tôi cho tròn vo như vậy, không có cá tính không còn gì của riêng tôi nữa thì thôi, để sách đó, tôi không in nữa". Tô Hoài nghe vậy đành chịu (xem "Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Tuân" của Ngọc Trai).   Tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" trong lần in đầu gồm cả thảy 11 bài, dài ngót hai trăm trang, nội dung cơ bản đề cập tới cuộc đối đầu của quân dân Hà Nội với không lực Mỹ (có tới hơn 30% tên bài chỉ đích danh giặc lái Mỹ như: "Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội", "Cho giặc bay Mỹ nó ăn một cái tết ta", "Có ba phi công Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán", "Nó bê - năm - hai phố Khâm Thiên"). Có bài, như bài "Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào", tên thì vậy song nội dung cũng chủ yếu xoay quanh cuộc thẩm vấn của lão nhà văn với một phi công Mỹ - tức Thượng nghị sĩ John McCain hiện nay, người vào năm 2008 từng là ứng viên Tổng thống Mỹ. Đây là bài viết dài nhất trong tập và theo suy nghĩ của cá nhân tôi - cũng là bài viết đặc sắc nhất trong "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi".   Nhiều người đã biết, máy bay của phi công John McCain đã bị bắn rơi ngày 26 - 10 - 1967 khi thực hiện phi vụ đánh bom Hà Nội. Khi nhảy dù, John McCain rơi xuống hồ Trúc Bạch và được dân quân tự vệ của ta vớt lên, đưa tới bệnh viện. Sau này, ông John McCain từng có những phát biểu "tiền hậu bất nhất" về cách hành xử của các cán bộ quản giáo Việt Nam đối với ông thời kỳ ông là tù binh chiến tranh ở Việt Nam. Và đã có lần ông phải lên tiếng xin lỗi Chính phủ và nhân dân Việt Nam về những phát biểu đó.   Bài tùy bút "Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào" của nhà văn Nguyễn Tuân đã phơi mở cho chúng ta thấy chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam trong việc đối xử với tù binh nói chung và với cá nhân Thiếu tá phi công John McCain nói riêng. Trong bài tùy bút, Nguyễn Tuân gọi McCain theo cách ông phiên âm ra tiếng Việt là Mích Kên. Ông kể, khi ông đến để "hỏi chuyện" Mích Kên, bác sĩ đã dặn ông là Mích Kên còn mệt, cần cho an dưỡng nên bớt cho ông ta những câu hỏi hóc búa, chưa nên để Mích Kên "phải động não suy nghĩ nhiều". Và nhà văn già "tôn trọng lời dặn của bác sĩ, tôi đành tạm cất đi mấy câu đó" (tức mấy câu phỏng vấn "chát chúa").   Khi Mích Kên ngỏ ý "Xin ông một điếu thuốc lá", thì nhà văn lớn của Việt Nam trực tiếp cắm thuốc và bật diêm cho Mích Kên hút. Theo mô tả của Nguyễn Tuân thì hành động của ông đã khiến viên phi công Mỹ phải nhiều lần nghển đầu cảm ơn. Cũng tại cuộc "chất vấn" này, Nguyễn Tuân đã nói cho Mích Kên hay, việc ông ta còn sống sau lần máy bay bị bắn hạ không phải vì "Chúa Trời nào đã cứu sống anh đâu mà chính là vì những người dân Hà Nội chân chính đó đã hết sức tôn trọng phép nước đối với tù binh Mỹ bị bắt sống".   Theo phân tích của Nguyễn Tuân, những người bơi ra vớt Mích Kên ở hồ Trúc Bạch hôm ấy hoàn toàn có thể giết chết ông ta vì họ từng là nạn nhân của bom đạn Mỹ. Cuối buổi trò chuyện, Mích Kên thổ lộ "Có lẽ sau này tôi sẽ xin đi làm quản lý ở một công ty nào" và "Tôi là một người đang thấy cần phải có hòa bình và mong chiến tranh kết thúc". Ra về, Nguyễn Tuân đã để cả chỗ thuốc lá còn lại cho Mích Kên.   Đọc tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", điều ta nhận thấy trước nhất là tác giả rất chịu khó thu thập thông tin khiến cho câu chuyện luôn đầy ắp các dữ liệu và rất sinh động. Nghệ sĩ nhân dân Đình Quang, trong bài "Nâng chén rượu xuân, nhớ nhà văn Nguyễn Tuân" (sách "Tạp văn", NXB Sân khấu, 2012) cho hay: Một lần cụ Nguyễn chống ba toong đến nhà ông chơi. Cụ đưa ra cho Đình Quang một tờ báo tiếng Đức, bảo Đình Quang dịch xem người ta nói về khách sạn Hilton thế nào. Cụ Nguyễn hỏi đi hỏi lại từng chi tiết rồi lặng suy nghĩ. Chỉ tới khi "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" ra đời, Đình Quang mới hiểu: Cụ Nguyễn muốn tìm hiểu ngọn ngành một địa chỉ trước khi nhắc tới nó trong trang sách của mình. Nói về đóng góp của Nguyễn Tuân qua tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận định: "Tập tùy bút ấy là đóng góp của Nguyễn Tuân trực tiếp đánh Mỹ". Cũng tương tự, nhưng cụ thể hơn, nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ cho rằng, với "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", Nguyễn Tuân đã "đánh địch với tư thế của một dân tộc đi tiên phong trên tuyến đầu chống Mỹ, với lòng tự hào của một dân tộc đang chiến thắng"  *** Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987) quê ở Hà Nội, là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, sở trường về tùy bút và kí, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ, giàu có, điêu luyện. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụngtiếng Việt. Hà Nội có một con đường mang tên ông. Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987. Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I). Mời các bạn đón đọc Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi của tác giả Nguyễn Tuân.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Áo Khoác Vai Người - Linda Grant
Bằng những trang văn lôi cuốn, Áo khoác vai người mang đến cho người đọc câu chuyện đầy sức mạnh về tình cảm gia đình, tình yêu và cái bóng to lớn vô hình của quá khứ đổ xuống đời sống hiện tại của mỗi người. Linda Grant đã khéo léo dựng lên bức chân dung sinh động về một người phụ nữ phải cam chịu những mất mát triền miên trong đời sống tinh thần, để rồi tìm thấy niềm an ủi trong hành trình khám phá những bí mật của gia đình. Vivien Kovacs là một cô gái nhạy cảm và say mê văn chương. Cô sống trong một gia đình hầu như tách biệt với thế giới bên ngoài, bị cha mẹ cho đoạn tuyệt với quá khứ là một người Do Thái tị nạn. Vivien học cách thâm nhập vào xã hội Anh qua những người hàng xóm lập dị sống cùng khu nhà với gia đình cô: một vũ nữ ba lê đã giải nghệ, một họa sỹ vẽ tranh biếm họa, một phụ nữ già cô đơn lang thang trong đêm tối, dạy cho cô bài học làm đẹp đầu đời và từ đó dẫn dắt cô mở ra cánh cửa của tình dục, tình yêu lẫn khát khao được thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt của gia đình. Vivien đắm chìm trong sách vở, tự hóa thân vào những nhân vật ưa thích, nhưng chính qua trang phục cô đã tự định hình được nhân cách và cá tình của mình... Vivien lặng thầm xây dựng mối quan hệ với người bác ruột mà cha cô đã tuyệt giao - vốn là một chủ nhà trọ ổ chuột bị tống vào tù vì tội bóc lột, ngược đãi người thuê nhà, một kẻ bị nguyền rủa là mang khuôn mặt của quỷ sứ; một tên dắt mối cho gái làng chơi - để tìm hiểu về quá khứ của gia đình mình. Và nhờ đó, Vivien đã hiểu hơn về thế giới xung quanh mình, đồng thời học cách đương đầu với cuộc sống. Những trang viết đậm tính nữ của Linda Grant không chỉ là những trải nghiệm rất thực của một phụ nữ trẻ nặng nỗi cô đơn và mất mát khao khát được thoát khỏi cuộc sống nhàm chán, vô nghĩa hay những nhu cầu tình dục bản năng, trần tục như để giải tỏa sự cô đơn... mà lồng vào đó còn là nhựng vấn đề về tư tưởng - vấn đề đạo đức giả, ranh giới giữa thiện-ác, nên giành giật lấy miếng bánh ngon trong nhân gian hay chịu sống một cuộc đời tồn tại vô nghĩa... ... *** Linda Grant, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1951,một công dân Anh lớn lên tại thành phố Liverpool, con gái một cặp vợ chồng người Nga - Ba Lan Do Thái di cư sang Anh vào năm 1900, hiện là một tiểu thuyết gia và là phóng viên sống và làm việc tại Anh. Bà học tại trường Belvedere, học tiếng Anh tại Đại học York (1972-1975), rồi hoàn thành bằng Thạc sĩ bằng tiếng Anh tại Đại học McMaster ở Canada. Sau đó tiếp tục làm nghiên cứu sinh tại Đại học Simon Fraser. Năm 1985 Grant trở lại Anh và đã trở thành một nhà báo, làm việc cho tờ The Guardian. Các tiểu thuyết của Grant được viết lấy cảm hứng từ nền tảng lịch sử gia đình Do Thái của bà, và cả lịch sử của Liverpool. Linda Grant thành công ở cả thể loại phi tiểu thuyết và tiểu thuyết với nhiều giải thưởng có giá trị. Tiểu thuyết The Cast Iron Shore, thắng giải David Higham Prize for Fiction, hạng mục Tiểu thuyết của năm, vào 1996; 3 năm sau, 1999, tác phẩm phi tiểu thuyết Remind Me Who I Am, Again, giành giải Sách của năm của giải thưởng Mind. Tiểu thuyết thứ 2, When I Lived in Modern Times giành giải Orange Prize cho hạng mục tiểu thuyết và giải thưởng văn học Jewish Quarterly-Wingate Literary Prize cùng năm. Năm 2002 cuốn tiểu thuyết thứ 3, Still Here giành giải của Man Booker Prize. Năm 2006, Grant thắng giải Lettre Ulysses Award với tác phẩm phi tiểu thuyết The People on the Street: A Writer's View of Israel. Đến năm 2008, tiểu thuyết The Clothes on Their Backs giành giải Man Booker Prize và giải thưởng văn học của The South Bank Show. Tác phẩm tiêu biểu: Phi tiểu thuyết - Sexing the Millennium: A Political History of the Sexual Revolution. HarperCollins (London) 1993 - Remind Me Who I Am, Again Granta Books (London) 1998 - The People on the Street, a writer's view of Israel, Virago Press (London) 2006 - The Thoughtful Dresser, Virago Press (London) 2009 Tiểu thuyết - The Cast Iron Shore, Granta Books (London) 1995 - When I Lived in Modern Times, Granta Books (London) 2000 - Still Here, Little Brown May (London) 2002 - The Clothes On Their Backs, Virago Press (London) 2008 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tên Áo khoác vai người) - We Had It So Good, Virago Press (London) 2011. Mời các bạn đón đọc Áo Khoác Vai Người của tác giả Linda Grant.
Hồi Ký Của Người Nữ Binh Do Thái - Yael Dayan
Hồi ký của người nữ binh Do Thái, tác giả Yael Dayan, một nhà văn nữ Do Thái, chính là ái nữ của tướng độc nhãn Moshe Dayan. Bản tiếng Việt của Mai Vi Phúc; Sông Kiên xuất bản, 1974. Chuyện về cuộc sống của một nữ binh sỹ trong quân đội Do Thái, là quân đội duy nhất trên thế giới đăng ký nghĩa vụ quân sự đối với cả nữ giới. *** Tôi mở cửa sổ, một làn gió lạnh và mặn mà, tràn đầy sinh khí, đánh thức tôi cùng với ngọn lửa, và thổi tới tận phòng tiếng đại dương gào thét, lấp đầy các xó xỉnh bằng những tiếng động và hơi mát. Tiếng gió than vãn chìm mất trong tiếng sóng dội ầm ĩ vô các bờ giốc đá ; những giọt mưa đầu tiên bay vỗ lên khung cửa kiếng và tham gia vô cuộc hợp tấu của đất trời. ... Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Của Người Nữ Binh Do Thái của tác giả Yael Dayan.
Vào Thiền - Doãn Quốc Sỹ
Tôi chẳng nhớ rằng mình đã để ý đến Thiền tự bao giờ chỉ biết chắc rằng những ý tưởng nhuốm màu Thiền đã nhật tích nguyệt lũy thấm dần vào tôi như những giọt nước rơi liên tục làm lõm phiến đá. Xưa có lần nghe chuyện kể ngài Tuê-Trung đời Trần tu mà vào tiệc vẫn ăn thịt cá. Em gái ngài là Khâm-Từ ngạc nhiên hỏi: “Anh đã tu Thiền mà còn ăn mặn làm sao thành Phật được?” Ngài cười đáp “Phật là Phật, anh là anh, anh chẳng cần làm Phật, cũng như Phật chẳng cần làm anh!...” Lời nói thật hồn nhiên phá chấp. Lần khác nghe kể chuyện ngài Đạt-ma Huệ-Năng nói gánh nước bổ củi cũng là Thiền (Vận thủy bon sai, công phu đệ nhất). Gần đây tôi đọc cuốn Nẻo Về Của Ý của Nhất-Hạnh cũng có đoạn tác giả viết quét nhà, lau cầu tiêu mà lòng thơ-thới, mà hồn phơi-phới tức thị cũng là Thiền rồi. Mở đầu đoạn này – tôi còn nhớ - Nhất Hạnh tả một thằng bé con vừa ngồi ăn cơm với quả trứng luộc vừa ngắm trời mưa và đã gợi tả được trạng thái vô tư, thơ thới – trạng thái Thiền – của thằng bé con nhà nghèo đó. Trên các sách báo, gặp bất kỳ đoạn nào, bài nào nói về Thiền tôi cũng đọc, rồi cái gì hợp với mình thì nhớ (nhiều khi chỉ nhớ mang-máng) còn cái gì rơi vào quên lãng ắt là những cái vô bổ với tạng mình. Tôi vẫn nghĩ một cách rất chủ quan rằng thái độ đọc Thiền như vậy mới thật là… Thiền. Mùa hạ 1967 tại Tallahassee, thủ phủ tiểu bang Florida, tôi được một người bạn Mỹ yêu đạo Phật tặng cho cuốn sách Thiền xinh xinh mang nhan đề Zen Buddhism của nhà xuất bản The Peter Pauper Press, Mount Vernon, New York, 1959. Lần đó tôi được đọc những giai thoại nhỏ dí-dỏm về Thiền giữa màu sắc bừng sáng của những loại hoa cúc, hải đường, azalea của miền Nam, phảng phất mùi hương thanh thanh của hoa magnolia, đôi khi dưới bóng rừng ngợp màu rêu, loại rêu ngan ngát tím bao phủ lấy các cành cây và rủ xuống như tơ liễu. Phần lớn những dụ ngôn, giai thoại về Thiền các bạn đọc sau đây đều kể lại theo bản in này. Đó là những truyện có tác dụng “tập thể dục” cho trí thức, giúp ta tự khám phá thấy cái bất lực thê thảm của lý trí đơn thuần. Thực là một thái độ ấu trĩ đến khôi hài khi chúng ta hăm hở muốn định nghĩa Thiền, nhưng với những ai chợt hồn nhiên hỏi tôi “Thiền là gì?” thì tôi cũng hồn nhiên trả lời: “Theo kinh nghiệm bản thân của tôi: Thiền là một trạng thái Niết-bàn tại thế.” Thực ra yếu tính Thiền là một siêu lý, một siêu lộ, một sự phá chấp được đẩy đến tuyệt đối để chân tướng thực tại tự bừng nở trong thực nghiệm tâm linh của ta. Khi đã thấm nhập hương Thiền thái độ dễ hiểu nhất là thái độ thức-tỉnh nóng-bỏng tự động phá chấp y như chiếc lò xo có khuynh hướng ruỗi ra khi bị ép. Nhất định không chịu để lý trí nhốt mình chung thân trong nhà tù khái niệm! Dòng đời như dòng sông, không một sích na nào ngừng trôi chảy, nô lệ cho lý trí đơn thuần ham cắt xén, thì chỉ thấy được cái ngưng đọng, cái chết. Những khái niệm con đẻ của lý trí chật hẹp và khô cứng kia làm sao chụp được dòng thực tại không ngừng triền miên trong thế tương sinh tương lập. Con cá thảnh thơi bơi lội giữa lòng trùng dương khác xa với cái nhìn, với kiến thức của con cá trong một giây phút nào đó vùng quẫy được lên cao khỏi mặt nước và tìm hiểu đại dương bằng cái nhìn – dù là cái nhìn bao quát – của nó lúc đó. Chân lý gói ghém trong mỗi truyện Thiền đúng như que diêm chỉ xòe lên soi sáng một lần. Cùng một câu hỏi, đừng hy vọng có hai câu trả lời lần lượt như nhau. Mỗi chúng ta là một que diêm sống, không ai sống hộ ta, ta phải tự sống lấy, tự chiêm nghiệm lấy Thiền. Que diêm khi tắt đi, chút khói xanh để lại. Rồi chính chút khói xanh đó cũng tan loãng nốt và biến hẳn như vết chân gió xóa trên bãi cát. Tuy nhiên cũng nên chụp lấy chút ít khói xanh còn trong giây phút phiêu lãng đó, bởi dù cho khái niệm không chuyên chở được thực tại nhưng người ta vẫn có thể nương vào khái niệm để tìm tới thực tại. (Vì vậy mà tôi viết tập Vào Thiền này.) Nào chúng ta hãy thực tế vào Thiền, làm quen với phá chấp, học hỏi phá chấp. Với những tiêu đề Vào Thiền, Lời Thiền, Đạo Thiền v.v. xin ai chớ ngạc nhiên khi thấy chúng chợt hư ảo đi và lẫn lộn ranh giới. Có ai túm giữ được nước trong vốc tay đâu. ? !  Mời các bạn đón đọc Vào Thiền của tác giả Doãn Quốc Sỹ.
Người Của Giang Hồ - Nguyễn Hồng Lam
Khi nói đến giang hồ là nói đến những tên tội phạm - điều đó đúng, nhưng một tên cướp giật, một tên móc túi, trộm vặt mà gọi là giang hồ thì chắc chắn là sai. Cho dù qua mỗi thời kỳ, giới giang hồ mang một đặc điểm hoàn toàn khác nhau thì thế giới ấy vẫn chưa bao giờ biến mất hay đứt đoạn. Giới giang hồ vẫn có những đặc trưng riêng, luật lệ riêng. Thoạt kỳ thủy, hai tiếng “giang hồ” được dùng để định danh một lớp người phiêu bạt, lấy việc hành hiệp trượng nghĩa, giúp kẻ yếu người cô giành lại sự công bằng làm mục đích; lấy phô diễn tài năng, hơn thua cao thấp - chủ yếu về sức mạnh võ nghệ - làm niềm vui... Với ý nghĩa đó, “giang hồ” được nhìn nhận như một lối sống, một loại tính cách, đẹp và mã thượng. Tuy nhiên, cái đẹp ấy chỉ còn tồn tại trong sách kiếm hiệp đa phần là hư cấu. Theo thời gian, hai tiếng “giang hồ” đã biến chất, tha hóa hẳn. Đến nay, nó chỉ còn lại như một khái niệm về tội lỗi và cái ác, “giang hồ” được hiểu như từ định danh về một thế giới gồm toàn những kẻ sống ngoài vòng pháp luật, kết bè kết đảng và thủ lợi bằng con đường phạm pháp. Nhưng, việc phân tích các khái niệm không phải là trách nhiệm của chúng tôi. Đó là công việc của các nhà xã hội học. Với cuốn sách này, chúng tôi chỉ muốn khắc họa lại một cách chính xác những khuôn mặt cộm cán nhất của giang hồ miền Nam trong thế kỷ XX. Để bạn đọc tiện theo dõi và nhận diện rõ nét quá trình tha hóa của thế giới giang hồ, những khuôn mặt trong sách được sắp đặt theo đúng trình tự thời gian mà họ sống. Bắt đầu từ Sơn Vương Trương Văn Thoại từ những năm 1930, đến thời “hai tay ba đao” của những năm 60-70, với những Đại Cathay, Sơn Đảo, Lâm Chín ngón, Điền Khắc Kim, Năm Vĩnh v.v..., đến những Năm Cam, Hải “bánh”... cuối thế kỷ XX. *** Rất có thể bạn sẽ chẳng tán đồng, nhưng dù sao, tôi vẫn cứ tin rằng đôi khi những biến cố lớn, những sự kiện đáng nhớ trong đời lại có khởi nguồn hoặc đến với chúng ta một cách hết sức ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên, tôi đến với nghề báo. Ngẫu nhiên, tôi gắn công việc và thời gian của mình với những chuyến đi… Những lúc một mình với chiếc xe gắn máy cà tàng rong ruổi qua từng miền đất lạ của rẻo đất cong cong hình chữ S, tôi thường cảm thấy lòng dội lên một cảm giác lâng lâng khó tả. Lâu dần thành quen, công việc đã vô tình biến tôi thành một tín đồ của chủ nghĩa xê dịch, luôn phải đi và muốn đi. Thú vị là ở chỗ, những lúc rong ruổi đường xa, tôi lại có cơ hội để gặp lại tuổi thơ trong những cơn mơ mòng hiệp khách, chủ yếu hình thành từ những trang sách ngấu nghiến đọc trộm và đam mê khám phá. Cũng ngẫu nhiên như thế, năm 1997, cái địa danh “bãi vàng Phước Sơn” đã tình cờ lọt vào tai tôi và nằm lại đó như một bí ẩn nhiều sức hút. Năm ấy, mưa lũ không lớn lắm. Nhưng ở một xứ sở mà cơ sở hạ tầng còn yếu kém như đất nước thân yêu của chúng ta thì không cần lớn, thiên tai cũng dư sức gây đại họa. Riêng tại Quảng Nam, với trận lụt “không lớn lắm” năm ấy, toàn tỉnh đã có “97 người chết và mất tích”. Thật ra, “chết” với “mất tích” cần phải được hiểu chẳng qua cũng chỉ là một! Trước cơn rùng mình, nổi gai ốc của tôi, Thiếu tá Nguyễn Đức Thành, Phó phòng PX15 Công an tỉnh đã cay đắng bổ sung: – Đó là chưa kể những người đã bỏ mạng tại bãi vàng Phước Sơn đấy. Dân đào vàng toàn người tứ xứ, sợ luật pháp nên không ai trình, ai báo. Dù cố gắng mấy, ngành công an cũng không thể thống kê chính xác được. Chỉ riêng bãi Nguyễn Văn Ngọc đã có 21 người chết. Tỉnh phải đem máy xúc lên đào suốt cả tuần mới lấy được xác các nạn nhân! ... Mời các bạn đón đọc Người Của Giang Hồ của tác giả Nguyễn Hồng Lam.