Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Và Chúa Đã Tạo Ra Đàn Bà

"Và Chúa đã tạo ra đàn bà, nhưng quỷ dữ đã tạo nên B.B." – đó là câu quảng bá quen thuộc về bộ phim năm 1956 của đạo diễn Roger Vadim. Điện ảnh đã tạo ra hiện tượng nhục cảm khiêu khích với B.B – Brigitte Bardot – như biểu tượng của thế hệ "Làn sóng Mới" những năm hậu chiến ở châu Âu. B.B đã trở thành liều thuốc độc ngọt ngào hạ gục mọi trái tim đàn ông thế giới. Câu chuyện không thể đặc trưng hơn cho một thế hệ nổi loạn bằng vẻ tự nhiên tươi mát đến choáng váng, chống lại những luân lý và định kiến bảo thủ của một xã hội cũ kỹ. Câu chuyện kể về Juliette Hardy, một cô gái mồ côi khao khát tình yêu, nhưng vấp phải những rào cản định kiến xã hội và những người đàn ông không mấy thực tâm đối xử tốt với cô. Nhưng chính sự hoang dại tự nhiên của cô làm tất thảy không yên ổn với sự đạo đức giả của họ. Như một bài ca lãng mạn không chút bi ai xoa dịu những chấn thương tâm lý, câu chuyện thể hiện truyền thống ái tình hoan lạc rất Pháp. Người ta đã so sánh Bardot với nàng tiên cá cất tiếng hát bằng ánh mắt và diễn xuất tự nhiên trời phú. Giai điệu mà đạo diễn Vadim tạo nên qua Bardot đã định cư trong đầu óc thời đại, bài ca đã dụ được đám kiểm duyệt thời đó va vào những thành vách ẩn sau sương mù và đập vỡ vĩnh viễn cái vỏ nghiêm cẩn của điện ảnh tránh né tình dục. Bộ phim gây nên tranh cãi liệu có phải chính sự đơn giản của cốt truyện lại là đất để cho Vadim khai thác được vẻ đẹp diễn như không diễn của B.B. Sự tinh quái của nhà làm phim nằm ở chỗ không nhọc công biện giải cho vấn đề đạo đức, trưng ra một cô gái đẹp làm sững sờ tất thảy – vốn chẳng xa lạ gì trong kho tàng nghệ thuật nước Pháp, nhưng khác với Victor Hugo cho Esmeralda bị tử hình trong câu chuyện thời Trung cổ thì Juliette Hardy đã được tôn vinh ngầm qua những góc quay đầy khoái cảm của Vadim. Với lối kể hấp dẫn, người đọc vẫn có thể cảm nhận được sức nóng của câu chuyện trên từng câu chữ và những hình ảnh đẹp về B.B in kèm trong cuốn sách. *** Simone Colette là bút danh của Sidonie-Gabrielle Colette - nữ tiểu thuyết gia người Pháp (28.1.1873 – 3.8.1954). Bà nổi tiếng về quyển tiểu thuyết Gigi, mà Alan Jay Lerner và Frederick Loewe đã dựa vào để viết cuốn phim và nhạc kịch mang cùng tên Colette là con gái của viên sĩ quan nghỉ hưu Jules-Joseph Colette và vợ là Adèle Eugénie Sidonie "Sido" Colette (nhũ danh Landoy). Colette sinh tại Saint-Sauveur-en-Puisaye, Yonne, vùng Bourgogne-Franche-Comté của Pháp. Bà học dương cầm từ khi còn nhỏ và đậu bằng tiểu học với điểm cao về môn toán và chính tả. Năm 1906, Colette bỏ ông chồng Gauthier-Villars không chung thủy, tới sống chung với nhà văn nữ người Mỹ Natalie Clifford Barney. Hai người có mối quan hệ tình ái ngắn, và họ giữ tình bạn suốt đời. Colette vào làm việc ở các phòng nhạc Paris, dưới sự bảo trợ của nữ hầu tước Mathilde de Morny, biệt danh Missy, hai người có một mối quan hệ đồng tính lãng mạn. Năm 1907, Colette và Morny cùng diễn xuất trong một vở kịch câm tựa đề Rêve d'Égypte (Giấc mộng Ai Cập) ở Moulin Rouge. Nụ hôn trên sân khấu của họ gần như gây ra một cuộc náo loạn, đến nỗi người ta phải gọi cảnh sát tới để lập lại trật tự. Do vụ bê bối này, buổi trình diễn tiếp theo của vở Rêve d'Égypte đã bị cấm, và họ đã không có thể sống chung với nhau một cách công khai, mặc dù mối quan hệ của họ vẫn tiếp tục trong 5 năm.[9] Trong thời gian này, Colette cũng có quan hệ tình dục khác giới Bà là viện sĩ của Viện hàn lâm Hoàng gia Bỉ về Ngôn ngữ và Văn học Pháp (1935) Nữ thành viên thứ nhì của Hội văn học Goncourt (1945) Chủ tịch Hội văn học Goncourt (1949) Bắc Đẩu Bội tinh hạng Chevalier (1920) Bắc Đẩu Bội tinh hạng Grand Officier (1953) Bà là người phụ nữ đầu tiên được cử hành lễ quốc táng ở Pháp và được mai táng ở Nghĩa trang Père-Lachaise, Paris - mặc dù bị từ chối các lễ nghi Công giáo do đã ly dị - vì đã có công che giấu các người bạn Do Thái và chồng mình trên tầng gác xép sát mái nhà trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp. Nữ ca sĩ kiêm người viết ca khúc Rosanne Cash đã viết ca khúc "The Summer I Read Colette" trong album 10 Song Demo (1996) của mình để tỏ lòng ngưỡng mộ bà. Truman Capote đã viết truyện ngắn "The White Rose" (1970) về bà. Năm 2012, la Monnaie de Paris đã phát hành đồng tiền kim loại 10 euro bằng bạc có hình Colette. Trung tâm nghiên cứu Colette của Pháp có nhiều đề tài liên quan tới cuộc đời của Colette. Tiến sĩ Jane Gilmour đã viết quyển Colette’s France: Her Lives, Her Loves (Hardie Grant Books), nói về cuộc đời của Colette xuyên suốt các nơi mà bà đã từng sống Trường Trung học cơ sở Colette là ngôi trường ở quận 3, thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, có bề dày thành tích trong việc dạy và học không chỉ của quận mà còn của thành phố. *** Và Chúa đã tạo ra đàn bà (tên tiếng Pháp: Et Dieu... créa la femme, 1956) không phải là phim đầu tiên Brigitte Bardot đóng nhưng được xem như cỗ máy đưa Bardot trở thành biểu tượng điện ảnh và văn hóa thế giới. Bardot, với tên gọi âu yếm B.B, đóng đinh vẻ đẹp của mình qua vai diễn Juliette với biệt danh “mèo con nhục cảm” đã làm dấy lên cơn sốt hâm mộ toàn cầu. Khi bộ phim được phát hành ở Mỹ, nó đã vấp phải rào cản kiểm duyệt và trở nên quá phóng túng so với tiêu chuẩn đạo đức xã hội đương thời. Vào thời điểm đó, bộ phim bị Liên đoàn Đạo đức Thiên chúa giáo của Mỹ kết án và cấm đoán. Tuy vậy, năm 1958, bộ phim đã thu được 4 triệu đôla ở Mỹ, trong khi chi phí sản xuất ước chừng 300.000 đôla. Khi bộ phim chiếu ở Mỹ, Bosley Crowther, nhà phê bình phim của tờ The New York Times đã nhận xét: “Bardot chuyển động trong một lối thời trang hoàn toàn làm nổi bật lên vẻ quyến rũ của nàng. Nàng hiển nhiên là kết quả của một sự sáng tạo siêu việt không thể phủ nhận. Nhưng ngoài điều đó ra thì bộ phim khá rời rạc với kịch bản đơn giản. Chúng tôi không thể giới thiệu bộ phim nhỏ này như một sản phẩm hay nhất của phim ảnh xứ Gô-loa. Nó sắp đặt các yếu tố với nhau khá vụng về và được diễn xuất một cách kỳ quặc. Không có gì đáng kể ngoài sức nóng bỏng kinh khủng trong diễn xuất của Cô Bardot.” Gần nửa thế kỷ sau, nhà phê bình phim Dennis Schwartz viết: “Bộ phim khiêu dâm hạng nhẹ được tô điểm thêm tuyến truyện có màu sắc bi kịch song vẫn khó có thể coi là một phim bi nghiêm túc. Nhưng dù cốt truyện mỏng thì nó vẫn luôn sống động và hút mắt, nhờ vào không gì hơn là một chuỗi những cảnh Bardot thể hiện mình như một con mèo con nhục cảm trong các lớp cảnh khỏa thân. Công chúng yêu thích bộ phim và nó đã trở thành một cú đột phá phòng vé, tạo nên làn sóng cho những bộ phim khêu gợi sau này. Bộ phim phơi ra những lời thoại dớ dẩn cùng sự phô trương của Bardot thành một đối tượng tình dục, mà ẩn bên dưới là lời kêu gọi cho sự giải phóng phản kháng lại giáo điều cũng như cái nhìn nhục cảm về tình dục.” Mặc dù đã tham gia đóng phim từ năm 17 tuổi với không dưới 15 phim, nhưng phải đến Và Chúa đã tạo ra đàn bà, B.B mới trở thành ngôi sao thực sự. Lúc này B.B mới 21 tuổi. Bộ phim đầu tay của đạo diễn Roger Vadim ghi dấu ấn quan trọng đến nỗi người ta cứ ngỡ đó là bộ phim đầu tiên của B.B, song trên thực tế khi bộ phim ra mắt cũng là thời điểm hai người chia tay nhau sau 5 năm chung sống. Ông đã viết về người vợ trẻ của mình (ông đã là tình nhân của B.B từ năm nàng 15 tuổi) trong hồi ký: “Cô ấy là vợ tôi, con gái tôi và bà chủ của tôi.” Vốn là một nhà báo của tờ Paris-Match, Vadim (1928-2000) đã sớm phát hiện ra B.B và khi bắt đầu tiến hành thực hiện bộ phim, điện ảnh Pháp cũng đang chấn hưng với phong trào “Làn sóng Mới” (nouvelle vague), đua tranh với “Tân Hiện thực” của Ý, trở thành những ngọn cờ đầu của điện ảnh châu Âu. Ba chục năm sau, Vadim đã nói về sự ảnh hưởng của những bộ phim thời đầu: “Tôi cảm thấy mình như một Bonaparte trẻ trung lúc khởi sự chiến dịch Ý, mà tôi chắc thắng.” (Bardot Deneuve Fonda, hồi ký, 1987). Những bộ phim về sau của Vadim dần chìm vào tâm thế u tối của sự bi quan, không còn vẻ quyến rũ của thời ông liên tiếp là tình nhân và kết hôn với những minh tinh đẹp nhất thế giới. Sau Bardot là Annette Stroyberg (1958-1960), Catherine Deneuve (1962-1964), Jane Fonda (1965-1972). Người ta nhận xét rằng sự xuất hiện của B.B trong bộ bikini bên bãi biển là một hình ảnh xoa dịu sự khắc kỷ hậu chiến của châu Âu - có sức mạnh ma thuật hơn nhiều so với lời lẽ hay một hiệu ứng hào nhoáng - không giống như ảnh hưởng của thuyết tương đối Einstein hay cú lắc hông của Elvis Presley, những biểu tượng truyền thông toàn cầu khi ấy - Bardot đánh bại mọi ký ức văn hóa dễ dàng khi nàng hiện lên màn ảnh. Vadim ca tụng: “Nàng đến từ một chiều không gian khác, ở đâu đó ngoài vũ trụ. Khi người ta phát hiện ra nàng, họ không thể nào rời mắt khỏi nàng nữa.” vẻ đẹp của B.B vừa hoang dại lại vừa siêu thực, và từ Và Chúa đã tạo ra đàn bà, hình mẫu này đã đi trước cách mạng tình dục của thập niên 1970. Trong hình hài một nàng Eva trong vườn địa đàng đầy rắn độc, Bardot đóng vai Juliette, linh hồn tự do bị cầm tù của St. Tropez: một thực thể quá tự nhiên đến nỗi giày dép dường như vướng cẳng nàng, và ngay cả trong thứ lẽ ra không thể bị xem là khiêu dâm như bộ váy cưới, nàng vẫn gây bàng hoàng. Juliette chạy theo bản năng, cự tuyệt những mơn trớn của nhà triệu phú Carradine để theo đuổi gã đê tiện to khỏe Antoine. Khi Antoine từ chối Juliette, nàng miễn cưỡng cưới em trai gã ta, anh chàng Michel nhân hậu nhưng ngây thơ. Cuối cùng; Juliette trút cơn cuồng vọng của mình vào điệu Mambo ma quái. Tạp chí Time viết về khoảnh khắc Vadim giới thiệu B.B đầu phim: “Brigitte nằm đó, trườn dài hết cả màn ảnh, chổng mông lên và trần trụi như con ngươi của nhà kiểm duyệt.” Khi bộ phim được chiếu lần đầu cho các nhà kiểm duyệt Paris, Vadim kể lại, một vị tức giận đến mức ông ta quyết định cảnh Bardot không mặc quần lót diễu trước mặt một cậu trai vị thành niên phải bị cắt bỏ. Vadim cười thầm và cho chiếu lại cảnh đó, và quả nhiên không có vụ khỏa thân nọ. Trên thực tế, Bardot mặc một bộ đồ thể dục màu đen bó sát suốt đoạn đó. Nhà kiểm duyệt khăng khăng cho rằng Vadim đã quay hai bản, và bằng cách nào đó đã đánh tráo khi chiếu. Vadim nhận xét: “Đó là một trong những điều kinh ngạc nhất về sự xuất hiện của Brigitte trên phim. Người ta cứ nghĩ nàng khỏa thân lúc đó trong khi không phải vậy.” Nhà phê bình John Baxtor nhận xét: “‘Mông nàng là một bài ca’, nhân vật nào đó đã thốt lên lời ngưỡng mộ Bardot ngay từ đầu phim. Có lẽ ý họ đó là tiếng hát của mỹ nhân ngư. Từ khoảnh khắc tạo tác đó, Bardot - biểu tượng tình dục, siêu sao, ký hiệu, ảo ảnh - trở thành giai điệu đã định cư trong đầu óc thời đại, bài ca đã dụ được đám kiểm duyệt va vào những thành vách ẩn sau sương mù và đập vỡ vĩnh viễn cái vỏ nghiêm cẩn của điện ảnh tránh né tình dục.” Sau này vào năm 1963, đạo diễn Jean-Luc Godard đã chọn Bardot đóng trong bộ phim Contempt [Sự khinh bỉ, dựa theo tiểu thuyết của Alberto Moravia], được xem như cùng một công thức với Và Chúa đã tạo ra đàn bà, đều khai thác vẻ đẹp bốc lửa hoang dại của B.B. Bộ phim được như một liều thuốc độc ngọt ngào cho khán giả hậu chiến, và người ta tranh cãi rằng chính sự đơn giản của cốt truyện lại là đất để cho Vadim khai thác được vẻ đẹp diễn như không diễn của B.B. Sự tinh quái của nhà làm phim nằm ở chỗ không nhọc công biện giải cho vấn đề đạo đức, trưng ra một cô gái đẹp làm sững sờ tất thảy - vốn chẳng xa lạ gì trong kho tàng nghệ thuật nước Pháp, nhưng khác với Victor Hugo cho Esmeralda bị tử hình trong câu chuyện thời Trung cổ thì Juliette Hardy đã được tôn vinh ngẫm qua những góc quay đầy khoái cảm của Vadim. Người ta vẫn coi năm 1959 như “một năm diệu kỳ” của điện ảnh Làn sóng Mới, khi những đạo diễn mới Truffaut, Camus và Resnais chiếm lĩnh Liên hoan phim Cannes. Nhưng sự khởi đầu thực sự chính là ở vào ba năm trước đó, khi cựu nhà báo 28 tuổi Roger Vadim tung ra sản phẩm đầu tay Và Chúa... Thành công khởi đầu có tính scandal này (succès de scandale) được chứng minh qua cơn sốt phòng vé, và lần đầu tiên những nhà sản xuất độc lập đã mở hầu bao ra đầu tư cho thế hệ đang lên của nền điện ảnh Pháp mới. Sau khi làm trợ lý cho đạo diễn Marc Allegret một thời gian, Vadim cảm thấy đủ tự tin để đạo diễn một bộ phim dành cho người đẹp tính khí thất thường và hay gây sự của mình. Trong dàn diễn viên, có sự tham gia của diễn viên người Đức Curd Jurgens trong vai nhà triệu phú Carradine nhằm đảm bảo sự quảng bá quốc tế. Diễn viên Jean-Louis Trintignant lúc đó hãy còn vô danh, đóng vai người chồng của Juliette, đã mau chóng có mối quan hệ tình ái khá ầm ĩ với cô. Nhà phê bình John Baxter phân tích: “Theo đuổi ý tưởng về một bộ phim kịch tính và dùng màu sắc gây ấn tượng khêu gợi, Vadim dựng bối cảnh cho một Bardot da rám nắng giữa những cảnh nền trắng - cát, vải đũi thô - nhằm khuếch trương hiệu ứng. Hình ảnh cô đang tắm nắng phía sau những tấm ga trải giường phơi bập bồng trong gió và sau đó là cảnh dùng bữa sáng tân hôn quấn mình trong tấm ga trắng, là chứng minh cho dụng công đặc biệt đó của Vadim.” Nữ diễn viên kỳ cựu Jeanne Moreau đã ghi nhận dấu ấn mang tính biểu tượng của bộ phim và Bardot: “Brigitte là một nhân vật cách mạng hiện đại thực sự đối với phụ nữ. Và Vadim, với tư cách một người đàn ông, người tình và một đạo diễn, đã cảm nhận được điều đó. Điều không thể chối cãi trong Làn sóng Mới, đó là bộ phim đột nhiên quan trọng này chứa đầy sự sống, nhục cảm, năng lượng, tình ái và đam mê. Bất kỳ ai cũng phải ghi nhớ rằng Vadim đã bắt đầu mọi thứ, cùng với Bardot.” Năm 1987, đạo diễn Roger Vadim đã một bộ phim cùng tên bằng tiếng Anh song nội dung hoàn toàn khác, bối cảnh New Mexico ở miền Tây nước Mỹ, với diễn viên Rebecca de Mornay và Frank Langella nhưng không thành công. Đơn giản là vì không có Bardot. *** Những câu thoại đáng nhớ [Juliette đang tắm nắng khỏa thân] ERIC CARRADINE: A! Vườn Địa đàng ở Saint-Tropez! JULIETE HARDY: Ôi ông Carradine! Và em chắc ông là Quỷ dữ? ERIC CARRADINE: Có lẽ vậy. Đằng nào thì tôi cũng mang táo đến. *** JULIETE HARDY: Đó là bài hát yêu thích của em! ANTOINE TARDIEU: Lần đầu tiên anh nghe đấy. JULIETE HARDY: Em cũng vậy. *** BÀ VIGIER-LEFRANC: Eric, tôi lo cho anh. ERIC CARRADINE: Lo ư? BÀ VIGIER-LEFRANC: Anh phải lòng cô ả rồi. ERIC CARRADINE: Sao cô chắc vậy? BÀ VIGIER-LEFRANC: Mỗi khi anh nhìn cô ta là trông anh ngốc hẳn đi. *** ÔNG VIGIER-LEFRANC: Đã bao giờ cô nghe đến giày hiệu Vigier chưa? JULIETE HARDY: Rồi. ÔNG VIGIER-LEFRANC: Tôi đấy. Có khi cô cũng đã nghe nói đến máy hút bụi Lefranc rồi? JULIETE HARDY: Rồi. ÔNG VIGIER-LEFRANC: Cũng là tôi. Em có muốn nhảy một bài cha-cha-cha không? JULIETE HARDY: Với máy hút bụi thì không!   Mời các bạn đón đọc Và Chúa Đã Tạo Ra Đàn Bà của tác giả Simone Colette.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quán Trọ Hoa Diên Vỹ - Yoko Ogawa
Một phụ nữ lao ra khỏi phòng quán trọ Hoa Diên Vỹ chửi rủa. Tiếp theo sau là một người đàn ông với tiếng quát lạnh lùng: “Câm mồm đi, con đĩ!”. Tiếng quát đó đã mê hoặc Mari, cô con gái bà chủ đang trực quầy lễ tân. Rồi cô đi theo người đàn ông, để trái tim cùng cơ thể mình lạc lối trong một mối quan hệ nảy sinh từ tình cảm chân thực, nhưng cũng từ những ham muốn và rung động thầm kín nhất, đáng xấu hổ, nơi nền tảng là sự thống trị và phục tùng mỏng manh, yếu đuối, Mari cố gắng tìm hiểu điều gì ở người đàn ông đã hấp dẫn cô: “Thân thể tôi khi phục tùng dịch giả càng khó coi càng tốt. Như thế tôi sẽ có thể cảm giác được mình thảm hại đến đâu. Một cảm giác thoải mái trong sáng trào dâng trong lòng tôi vào cái lúc tôi biến thành một đống thịt bị hành hạ.” Quán trọ Hoa Diên Vỹ không phải là một tiểu thuyết về đề tài bạo dâm. Lối viết sáng suốt của Yoko Ogawa, một trong những nhà văn Nhật đáng chú ý nhất hiện nay, đã đưa câu chuyện vượt lên trên giới hạn của sự dung tục, tầm thường, và hơn thế nữa, trở thành một cuốn tiểu thuyết đặc biệt khó quên, với đầy đủ những nét đặc trưng trong bút pháp tinh tế mà người ta chỉ có thể tìm thấy ở Yoko Ogawa. ***     Sinh năm 1962 tại tỉnh Okayama, thuở nhỏ, Ogawa say mê văn học thiếu nhi thế giới. Trong một cuộc phỏng vấn, bà từng nhắc tới các tác phẩm Không gia đình, Pippi tất dài, Ann ở Green Gables v.v. như những trước tác mà bà yêu thích nhất. Lên trung học, cuộc gặp gỡ tình cờ với Nhật ký Ann Frank đã mang lại cho Yoko một nhận thức hoàn toàn mới lạ đối với văn chương: biểu đạt thành lời nội tâm của bản thân chính là một dạng thức tự do mà con người có được. Đây có lẽ là tác phẩm có ảnh hưởng sâu nặng nhất đối với lối viết đi sâu vào những diễn biến tâm lý tinh tế của con người mà Ogawa không ngừng theo đuổi sau này. “Tôi đưa ra hết, tôi viết hết,” nhà văn đã từng nói. “Khi cuốn sách kết thúc thì không còn gì nữa, không còn gì hết”. Năm 1986, Ogawa bắt đầu viết tiểu thuyết, sau khi thôi công việc thư ký để kết hôn với một kỹ sư của một hãng luyện thép. Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của bà gồm: Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien), Nhật ký mang thai (giải Akutagawa), Giáo sư và công thức toán (giải Yomiuri), Mai táng Brahman (giải Izumi), Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki), Tình yêu bên lề, Quán trọ Hoa Diên Vỹ...Trong số các tác phẩm của Yoko Ogawa, Giáo sư và công thức toán hẳn là tiểu thuyết nồng hậu và gây xúc động nhất.  Sau đó, tiểu thuyết được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi vào năm 2006.      Thông Tin Giải Thưởng   * 1988: Giải Kaien cho tác phẩm đầu tay, Sự phân hủy của bướm (Disintegration of the butterfly, Agehacho ga kowareru toki, 揚羽蝶が壊れる時) * 1990 Giải Akutagawa cho Nhật ký mang thai (Pregnancy Calendar, Ninshin karendaa, 妊娠 カレンダー) * 2004 Giải Yomiuri cho Giáo sư và công thức toán (The Professor and his Beloved Equation, Hakase no aishita sushiki, 博士の愛した数式; dịch sang tiếng Anh với tên The Gift of Numbers) * 2004 Giải Izumi Prize cho Tang lễ của Brahman (Burafuman no maisō, ブラフマンの埋葬) * 2006 Giải Tanizaki cho Cuộc diễu hành của Meena (Meena's March, Mīna no kōshin, ミーナの行進) Những tác phẩm của Yoko Ogawa  - Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki) - Giáo sư và công thức toán - xuất bản 2009 (giải Yomiuri) - Quán trọ hoa diên vỹ - Mai táng Brahman (giải Izumi) - Nhật ký mang thai (giải Akutagawa) - Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien) *** Trước khi đọc Quán trọ Hoa Diên Vỹ, mình đã đọc một câu chuyện khác, cũng của Yoko Ogawa: “Giáo sư và công thức toán”. Nói thật, lúc đầu mình hơi bất ngờ tẹo, tại mình không nghĩ người mang toán học vào văn chương một cách tinh tế có thể viết một câu chuyện trần trụi đến thế như đã làm trong Quán trọ Hoa Diên Vỹ. Dĩ nhiên, chỉ sau chừng tầm chục trang, mình đã tìm lại được bầu không khí quen thuộc. Nếu như Kazumi Yumoto nổi tiếng với seri 3 mùa, chuyên viết về những hồi ức trẻ thơ, Banana nổi tiếng với cách xây dựng hình mẫu gia đình kì quặc đầy thương tổn, hơi hướng khó hiểu kiểu Murakami thì Yoko Ogawa mang ta đến với những mảng màu trần trụi, nhưng cũng hết sức bình thường kiểu Nhật. Ừ, nếu bạn đọc một cuốn sách kể về những chuyện rất đỗi bình thường, phảng phất một gam màu trầm buồn, thêm chút băn khoăn khó hiểu khi gập trang cuối cùng của cuốn sách thì ắt hẳn đó là một câu truyện Nhật. Trở lại với cuốn sách, khi đọc nó mình vẫn luôn tự hỏi rằng họ có thực sự yêu nhau không? Khi mà khoảng cách giữa 2 người là 50 tuổi, và thứ gắn kết họ đơn thuần chỉ là sự cô đơn. Cô đơn của cô bé Mari chính là việc giam mình trong quán trọ Hoa Diên Vỹ, hàng ngày búi tóc bằng dầu trà, cam chịu trao tự do của mình cho người mẹ. Cô khao khát một người bố đúng nghĩa, người đã trao cho cô cơ hội được lựa chọn niềm vui khi cô còn 8 tuổi. Cô đơn với dịch giả đáng kính xuất phát từ nỗi đau mất vợ, từ niềm ăn năn đối với người cháu, và cả những cuộc bạo dâm. Cô đơn còn xuất phát từ việc dịch những thứ chán òm trong cuộc sống, suốt ngày vùi đầu trong từ điển. Hẳn là lúc ông đăng tin tìm người học tiếng Nga, điều ông thất vọng không phải không ai học, mà bởi ông đã không còn ai để trò chuyện, để bầu bạn. Mọi thứ chỉ thay đổi khi ông dịch Marie, khi đó, ông gặp Mari. Du thuyền trở lại trong tiếng còi rú. Bọn hải âu đậu trên cầu tàu đồng loạt bay lên. Dây xích chỗ cửa lên tàu được tháo xuống, phòng chờ vẳng tiếng phát thanh viên. _Có lẽ tôi phải đi rồi. – Dịch giả thì thầm. _Tạm biệt. – Tôi nói _Tạm biệt. Ông ta cũng nói thế. Nhưng tôi cảm giác như chúng tôi đã nói với nhau câu nói quan trọng hơn là chỉ chào tạm biệt. Từ cửa sổ tôi nhìn thấy người đàn ông đi trên cầu tàu và đang bị cuốn trong hàng người. Dù ông ta nhỏ con đến mấy tôi cũng lập tức phân biệt được bóng người mặc vest lẫn trong đám du khách. Giữa chừng ông ta ngoảng đầu lại. Tôi vẫy tay dù thấy thật buồn cười khi làm điều này với một người không biết tên cũng chẳng có quan hệ gì. Ông ta cũng định vẫy trả, nhưng rồi lại ngượng ngùng đút bàn tay đang giơ lên vào túi áo. Tàu rú còi rồi rời bến. … Tôi vẫn luôn sống một mình. Hàng ngày giam mình ở đảo và chỉ làm mỗi việc dịch thuật, nên hầu như không có bạn. Vả lại, tôi cũng không có một cô con gái vừa trẻ lại xinh đẹp như cô. Đã mười năm rồi tôi không được nếm trải cảm giác có ai đó vẫy tay tiễn đưa như vậy. Tôi thường lên thuyền từ chỗ cầu tàu, nhưng lúc nào cũng chỉ một mình. Tôi cũng chưa lần nào ngoảnh đầu lại từ chỗ đó cả. Cô đã vẫy tay với tôi làm như chúng ta đã quen biết từ lâu. Có lẽ với cô đó chỉ là một cử chỉ vặt vãnh, nhưng với tôi nó lại có ý nghĩa sâu sắc. Tôi muốn cảm ơn cô về điều đó. Chân thành cảm ơn cô. Đoạn trích trên kể về lần đầu họ gặp nhau. Ai trong chúng ta có lẽ cũng thấy đồng cảm với người đàn ông ấy. Bởi lẽ, nỗi cô đơn là chuyện chẳng hiếm hoi trong thế giới này. Người ta dễ dàng xao xuyến trước những điều be bé tốt đẹp. Một cái vẫy tay, một nụ cười, một tin nhắn. Chúng tạo nên sự thân mật gắn kết giữa người với người, không gì có thể xóa bỏ. Và điều đáng khâm phục, họ đã vượt qua mọi rào cản, để tìm đến nhau. Có thể, bạn chả đồng ý với mình đâu. Gì chứ, không thể chấp nhận được chuyện yêu nhau tội lỗi như thế. Ừ, mình cũng hem có phản đối đâu. Vì suy cho cùng, như một cái note nào đấy đã viết “văn chương khơi dậy sự cảm thông”, hoặc là mình đã tự huyễn hoặc bản thân rồi.​
Mãi Đừng Xa Tôi
Mãi Đừng Xa Tôi     Thông Tin   Tên truyện: MÃI ĐỪNG XA TÔI Tác giả:   Kazuo Ishiguro    Thể loại:   Tiểu thuyết, Tình cảm, Ngôn tình, Hư cấu, Giả tưởng, Văn học Nhật bản, Văn học phương đông NXB:  Văn học Người dịch:   Trần Tiễn Cao Đăng   Nguồn: Romance Book Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới Thiệu   Kathy, Ruth và Tommy xuất thân từ một ngôi trường đặc biệt: trường nội trí Hailsham. Những con người ở đó đều có chung một số phận được định đoạt. Họ chấp nhận số phận, nhưng vẫn khát khao trì hoãn. Với giọng điệu bình thản như mặt biển sóng ngầm, câu chuyện kể về một hiện thực đáng sợ diễn ra trong một thế giới “giả tưởng”, nhưng cũng không xa lắm thế giới “thật tưởng” mà chúng ta đang sống. Câu chuyện ám ảnh chúng ta bởi tiếng kêu đau đớn đến xé lòng về tình yêu và hạnh phúc. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về giá trị Người của chính mình.   Nhận định    “Vừa hấp dẫn vừa xúc động lòng người… một tiểu thuyết kỳ tài, với sự căng thẳng thắt gút và với nỗi đớn đau chôn chặt.” – Time “Gây bứt rứt đến cùng cực, tiết chế đến độ hoàn hảo… Sức mạnh không cưỡng nổi của cuốn sách là nhờ năng lực vô song của Ishiguro trong việc phô bày phần cốt lõi tăm tối của nó một cách cẩn thận, từng tí một.” – Entertainment Weekly
Mùa Thu Của Cây Dương - Kazumi Yumoto
  AudioBook Mùa Thu của Cây Dương   Việc cầm một cuốn sách trên tay và đọc nó đem lại cho bạn nhiều thi vị hơn là đọc sách qua màn hình máy tính nhờ ebook hay các trang web đọc sách trực tuyến. Tôi còn nhớ mãi cái cảm giác của mình khi đọc “Mùa thu của cây dương” vào những ngày tết vừa rồi. Đó là một ấn tượng đặc biệt tới từ trang bìa bắt mắt hình thảm lá rơi vàng rực, từ mùi thơm nhẹ nhàng của bookmark kẹp trong trang giấy, từ cuốn sách nhỏ chỉ dày hơn 200 trang mà tôi có thể cầm trong tay hay để gọn nơi đầu giường vào mỗi đêm sau khi đọc.        Nhưng điều cuốn hút nhất của một cuốn sách bao giờ cũng đến từ chính câu chuyện và thế giới ngôn ngữ của tác giả. “Mùa thu của cây dương” với tôi cũng vậy. Truyện mở ra trước mắt tôi một thế giới đậm chất Nhật Bản với không khí u nhã đặc trưng.        Gấp sách lại, bạn sẽ nhớ khu trang viên cây dương ngập sắc vàng vào mùa lá rụng, những căn phòng đơn sơ nơi hằng ngày những con người chất phác vẫn sinh hoạt, trò chuyện và dành tặng nhau bao điều ấm áp của cuộc sống, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn. Nhân vật trung tâm của câu chuyện – cô bé Chiaki đã lớn dần lên cùng với cây dương, cái cây mỗi thu, đông sang hay mỗi lúc xuân về đều thủ thỉ cùng chuyện trò; với sự chăm sóc của mẹ và bà cụ, sự gần gũi của cô Sasaki, anh Osamu hay sự đôn hậu của bác Nishioka. Cứ thế, những con người này lặng lẽ cũng nhau chia sẻ bao nhiêu vui buồn của cuộc sống, mặc năm tháng trôi đi. Trang viên cây dương như một nơi để người ta quên đi rằng thời gian vẫn chảy ở bên ngoài.        Đọc truyện, người đọc có dịp ngẫm suy sâu hơn về sự sống và cái chết. Truyện mở đầu bằng cái chết của bố Chiaki, kết thúc bằng cái chết của bà cụ. Suốt dọc câu chuyện là nỗi hoang mang ngây thơ của cô bé Chiaki về cái chết, cô sợ cái chết sẽ giống như một cái hố đen ngòm một ngày nào đó sẽ lôi tuột mình và người thân xuống đó, cô sợ lúc ngăn tủ đựng thư của bà cụ đầy chặt cũng là lúc bà sẽ phải qua đời để làm nhiệm vụ chuyển những bức thư cho người chết. Thế nhưng, cách Kazumi Yumoto nói về cái chết không gây cảm giác sợ hãi ở người đọc. Nỗi hoang mang vẩn vơ của cô bé rồi đây sẽ được bà cụ giúp giải tỏa. Sống trong tình cảm ấm áp của mọi người, Chiaki dần quên đi những sợ hãi, âu lo. Vì thế kết lại bằng cái chết, nhưng câu chuyện vẫn để lại một dư âm gì đó thật sáng tươi.        Con người không thể trốn chạy khỏi sự thật về cái chết, nhưng chúng ta có thể xua đi ám ảnh về nó và làm cho những ngày ta đang sống đẹp thêm, ý nghĩa hơn nhờ một thứ phép màu, đó chính là YÊU THƯƠNG.        Cùng với niềm vui của giây phút hồi hộp mở cuốn sách ra, giờ đây tôi có thêm niềm vui khi gấp sách lại mà vẫn thấy ấm áp, tựa như có một thứ ánh nắng đang chiếu vào tâm hồn mình từ những tán lá dương có màu của mùa thu. Nguồn: facebook        Trong cuốn sách này, các nhân vật đều quan tâm và chia sẻ với nhau những điều nhỏ nhặt, giản đơn nhưng đặc biệt ấm áp. Cốt truyện giản đơn, nhưng tác giả Kazumi Yomoto đã cuốn độc giả vào một không gian tinh tế, như khi Chiaki nhổ cỏ cùng bà cụ chủ nhà, bà thường lén bỏ một ít cỏ vào giỏ của cô bé để em khỏi xấu hổ về việc mình nhổ được ít; khi bà cụ ăn vận kimono đẹp đẽ sang trọng để đi xin lại việc cho bác hàng xóm; hay khi bà cụ đã láu cá bịa ra đủ thứ chuyện với mọi người…      Với giọng điệu dịu dàng, lời văn đẹp, giàu chất thơ, lồng ghép những triết lý nhẹ nhàng, sâu sắc, “Mùa thu của cây dương” thực sự đã mang đến một cách cảm, cách nghĩ đậm chất phương Đông. Trích Mùa thu của cây dương: Giản dị mà day dứt mãi - Đinh Phương Linh Nguồn: Website: www.kienthuc.net.vn (http://kienthuc.net.vn/)              Không cầu kì, kiểu cách, không đao to búa lớn, “Mùa thu của cây dương” cũng nhẹ nhàng như một chiếc lá dương vàng óng xoay xoay theo làn gió thu rớt xuống khu vườn. Một câu chuyện giản dị nhưng sâu sắc lạ thường. Một câu chuyện về tình yêu, tình người, và một lần nữa, về cái chết. Nói “một lần nữa” bởi đây cũng là chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm “Khu vườn mùa hạ”. Cái chết trong câu chuyện của Yumoto Kazumi có lẽ không hề đáng sợ như nhiều người vẫn nghĩ. Cái chết, với bà cụ chủ nhà giống như một chuyến đi, một nghĩa vụ, một công việc phải làm. Cũng chính bởi thế, nên đám tang của bà cụ không hề buồn bã như những đám tang khác. Có nỗi tiếc thương cho người đã khuất, nhưng tâm trạng của ai cũng nhẹ nhõm hơn hẳn. Có lẽ bởi ai trong số họ cũng đinh ninh rằng, bà cụ đang thực hiện chuyến đi của mình, đang làm công việc mà bà đã dành thời gian nhiều năm chuẩn bị - công việc chuyển những lá thư.      Một mùa thu nữa lại trải lá vàng trên căn hộ Cây Dương, nơi lưu giữ những kỷ niệm về một con người kì lạ. Bà cụ ấy không hề được tác giả nhắc tên, suốt từ lúc bà xuất hiện trong cuộc đời cô bé Chiaki cho đến lúc qua đời. Khi bà ra đi, cũng không có ai là họ hàng thân thiết, nhưng bà lại có vô số bạn bè. Những người bạn đưa tiễn bà bằng sự quý trọng, bằng tình yêu, tình người, và trên tất cả, là một sự thanh thản, nhẹ nhàng mà không phải đám tang nào cũng có. Bà sẽ sống mãi trong trái tim họ như một biểu tượng về lòng tốt thầm lặng. Một lòng tốt giản đơn thôi, dễ dàng thôi, lòng tốt của người dưng qua đường, lòng tốt giữa con người với con người, nhưng mấy ai trong đời này có được? Trích "Mùa thu của cây dương" - Có những lòng tốt giản đơn thôi Nguồn: Website Afamily.vn (http://afamily.vn/) Giới thiệu tác giả Kazumi Yumoto   Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   Những tác phẩm của Kazumi Yumoto - Mùa Thu Của Cây Dương - 2010 - Khu Vườn Mùa Hạ - 1992