Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khát Vọng Đổi Đời

Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig, bậc thầy về phân tích tâm lý con người, đã phơi bày ra những góc khuất của chủ nghĩa tư bản. Câu chuyện kể về cô gái tên là Christine, nhân viên tại một trạm bưu điện xa xôi thuộc nước Áo. Bố và anh trai đã mất trong chiến tranh, Christine sống với bà mẹ già nua bệnh tật trong một căn phòng ọp ẹp tồi tàn và ngày qua ngày làm công việc nhàm chán. Cho đến một hôm, người dì đã lưu lạc sang Mỹ 25 năm trước của Christine mời nàng đến nghỉ cùng vợ chồng họ trên dãy núi Alps thuộc Thụy Sĩ. Christine gói ghém đồ đạc tới chỗ dì Claire ở Pontresina và hoàn toàn choáng ngợp trước cảnh giàu sang phú quý nơi đây. Dì Claire đã đưa nàng bước chân vào thế giới thượng lưu hào nhoáng. Từ đây, cuộc đời nàng bước sang một trang mới với những mật ngọt cùng những giăng mắc mà nó bày ra. Khát vọng đổi đời được Stefan Zweig hoàn thành trong những năm 30 của thế kỷ XX nhưng chỉ được xuất bản 40 năm sau khi ông qua đời. *** Trong Khát vọng đổi đời, Stefan Zweig đã khám phá từng chi tiết của đời sống thường nhật với một văn phong làm rung động cả khối óc lẫn tâm hồn… Câu chuyện sầu thảm, và có lẽ là một trong những bản cáo trạng u tối nhất từng xuất hiện trong văn chương về việc sự nghèo đói hủy diệt hy vọng, niềm vui, sắc đẹp và tiếng cười như thế nào. - The Spectator (UK) Một tác phẩm vô cùng hấp dẫn cho thấy lịch sử có thể tác động lên đời sống mỗi con người như thế nào. - The Financial Times Khát vọng đổi đời táo bạo, buồn và cảm động… Với hình tượng nhân vật Christine và đặc biệt là Ferdinand, Zweig đã cho chúng ta thấy chân dung của một thế giới đang đến ngày tàn. - The Guardian … Không một tác phẩm nào của Zweig đòi đấu trực diện với di sản của Thế chiến thứ nhất với độ sâu sắc về xã hội lẫn sự chi tiết về con người như Khát vọng đổi đời… chúng ta may mắn có được cuốn sách này, không chỉ bởi nó là bức tranh đau buồn về đời sống nước Áo sau chiến tranh mà còn bởi nó rất khác các tác phẩm khác của Zweig. - William Deresiewicz, The Nationb *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ.   Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. *** Ai đã có lần ghé vào phòng làm việc của một trạm bưu điện nông thôn nước Áo thì có thể coi như mình đã biết tất cả các trạm bưu điện khác, bởi lẽ chúng hầu như chẳng khác nhau là bao. Vẫn những đồ vật được sắp đặt, hay nói cho đúng hơn là được quy định sắp đặt theo một quy chế thống nhất, vẫn những dụng cụ có từ thời Franz Josef[1] và ở bất cứ đâu những vật dụng ấy đều mang dấu ấn của thói quan liêu nặng nề, ngay cả ở tận những xóm làng hẻo lánh vùng Tyrol băng giá cũng thế. Trong các trạm bưu điện ấy lúc nào cũng bốc lên mùi tù hãm của thuốc lá rẻ tiền và bụi giấy, những mùi vị đặc trưng cho các phòng giấy của nước Áo cổ. Các trạm bưu điện đó dù có ở nơi nào cũng đều được thiết kế giống nhau: từ tấm vách ngăn bằng gỗ với những ô cửa sổ nhỏ lắp kính chia căn phòng theo một tỷ lệ nhất định, như muốn ngăn đôi thế giới thành hai khu vực - khu vực dành cho khách hàng và cho nhân viên phục vụ. Trong khu vực dành cho mọi người chẳng có lấy một chiếc ghế hoặc những đồ dùng cần thiết dành cho khách hàng, điều ấy đã nói lên một cách rõ ràng rằng chính phủ rất ít quan tâm đến sự có mặt trong giây lát của mọi công dân trong khu vực ấy. Đồ gỗ duy nhất ở đây thường chỉ có một chiếc bàn viết phủ vải sơn dựng hờ hững vào tường. Tấm vải sơn nứt nẻ, loang lổ vết mực dù chẳng ai nhớ nổi trong cái lọ mực được bắt chặt trên mặt bàn đã bao giờ có một thứ gì, ngoài một chất lỏng lổn nhổn như cháo. Còn nếu tình cờ cạnh đấy có một chiếc bút thì chắc chắn là ngòi bút bị tòe, không thể viết được. Cơ quan ngân khố quốc gia chẳng những chỉ tiết kiệm trong các tiện nghi mà ngay cả trong hình thức cũng vậy. Kể từ khi nước Cộng hòa ra lệnh bãi bỏ các bức chân dung của Franz Josef đến nay thì vật trang trí duy nhất ở những nơi công cộng là những tấm quảng cáo lòe loẹt dán đầy trên các bức tường không quét vôi bẩn thỉu, kêu gọi mọi người đến xem các phòng triển lãm đã đóng cửa từ lâu hoặc mua vé xổ số. Còn trong một vài văn phòng khác, ít được ai ngó tới, vẫn treo những tấm áp phích hô hào mọi người mua công trái chiến tranh, với những thứ trang trí rẻ tiền như vậy lại còn kèm theo một lời yêu cầu không được hút thuốc lá và hầu như chẳng ai thèm chấp hành, sự hào phóng của quốc gia trong các văn phòng bưu điện chỉ được giới hạn có từng ấy. Tuy nhiên, ngăn của nhân viên phục vụ trông có vẻ đáng kể hơn nhiều. Tại đây, với một quy mô thích hợp, chính phủ muốn phô trương sự hùng cường của mình dưới mọi hình thức. Ở góc phòng thường đặt một chiếc két sắt chống cháy mà dựa vào những chấn song lắp trên cửa sổ ta có thể đoán được trong chiếc két ấy đôi khi có chứa những khoản tiền lớn. Trên bàn làm việc ngự trị chiếc máy điện báo bằng đồng thau sáng loáng, trông như một vật trang sức quý giá. Cạnh đấy là chiếc máy điện thoại đang yên nghỉ trên cái giá đỡ mạ kền. Hai thứ dụng cụ trên được cố tình để riêng ra trong một vị trí trang trọng như vậy bởi lẽ chúng đã nối liền cái thôn hẻo lánh này với mọi miền của đất nước bằng những dây dẫn bằng đồng. Những dụng cụ vặt vãnh còn lại của ngành bưu điện đành phải chịu cảnh lép vế: những chiếc cân và những chiếc túi đựng thư, các bảng tra cứu, những chiếc cặp giấy nhét đầy sổ sách, cuốn sổ thống kê, chiếc hộp tròn đựng tiền trả cước phí đầy tiền xu hễ cứ động vào là kêu lẻng xẻng, những quả cân, những chiếc bút chì xanh, đỏ, đen và bút chì hóa học, những chiếc kẹp giấy, cuộn giấy buộc hàng, hộp đựng xi, miếng bọt biển thấm nước, cái bàn thấm, con dao rọc giấy, lọ keo cùng với những chiếc kéo - tất cả những dụng cụ khác nhau đó đành phải chen chúc lộn xộn nơi mép bàn. Còn trong các ngăn kéo thì nhét đầy mọi thứ giấy tờ đủ loại và những biểu mẫu. Thoạt nhìn, tất cả cái đống vật dụng ấy có vẻ như được sử dụng rất hoang phí, nhưng cảm giác ấy hoàn toàn sai lầm - Nhà nước thường xuyên kiểm tra rất nghiêm ngặt từng thứ vật dụng rẻ tiền mau hỏng đó. Từ mẩu bút chì cho đến con tem rách, từ tờ giấy thấm nhàu nát cho tới mẩu xà phòng ở chỗ rửa tay, từ chiếc bóng điện chiếu sáng văn phòng cho tới chìa khóa để khóa văn phòng lại - chính phủ yêu cầu các nhân viên phục vụ phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về tất cả những tài sản quốc gia đó, cho dù chúng đã hỏng hay đang sử dụng. Bên cạnh chiếc lò sưởi bằng gang có treo một bảng đánh máy liệt kê tất cả mọi thứ vật dụng, bên dưới có đóng dấu hẳn hoi và một chữ ký loằng ngoằng. Với một sự chính xác của toán học, tất cả mọi thứ dụng cụ, kể cả những thứ rẻ tiền và không đáng kể của trang thiết bị đã được tính toán, cân nhắc để cung cấp cho từng trạm bưu điện tương ứng. Không một thứ vật dụng nào không có tên ở trong bảng lại có quyền tồn tại trong phòng làm việc, và ngược lại mỗi một dụng cụ có tên trong bảng phải luôn luôn có mặt trong phòng để bất cứ lúc nào cũng có thể sử dụng được. Chính quyền, luật lệ và thể chế đã quy định như vậy. Nghiêm khắc mà nói thì trong cái bảng liệt kê được đánh máy cẩn thận ấy cần phải ghi thêm một nhân vật nữa - đó là người nhân viên cứ sáng sáng vào đúng bảy giờ lại nhấc tấm kính ở vách ngăn ra rồi đưa toàn bộ cái thế giới vô tri vô giác ấy vào hoạt động. Người đó sẽ mở các bao thư, đóng dấu vào các bức thư, thanh toán các giấy chuyển tiền, viết hóa đơn, cân các bưu kiện, ghi chép và đánh những cái dấu bí hiểm không ai hiểu nổi lên giấy tờ bằng bút chì xanh đỏ, nhấc ống nghe lên và quay điện thoại. Nhưng có lẽ vì tế nhị mà người ta không đưa cái nhân vật vẫn thường được khách hàng gọi là nhân viên bưu điện ấy vào trong bảng liệt kê vật dụng nói trên. Tên họ của người đó đã được đăng kí trong một bộ phận khác của ban giám đốc bưu điện. Tuy nhiên cũng giống như những thứ vật dụng khác, người đó cũng nằm trong diện được kiểm tra thường xuyên. Trong căn phòng làm việc đáng tôn kính ấy hầu như không bao giờ xảy ra một sự thay đổi đáng kể nào. Những quy luật vĩnh cửu về cuộc sống và cái chết đành phải lùi bước khi đụng vào bức tường chắn của quốc gia. Xung quanh bưu điện, cây cối đâm chồi nảy lộc rồi trút lá, trẻ con lớn lên còn người già lại chết đi, những ngôi nhà cũ kỹ ọp ẹp đổ sập xuống và người ta lại xây những ngôi nhà mới, chỉ riêng cái công sở của nhà nước ấy là vẫn khoa trương sức mạnh không hề bị khuất phục bởi bất cứ điều gì. Bởi lẽ, trong cái môi trường ấy, mỗi một vật dù bị mòn hay bị mất, bị hỏng hay bị gãy, liền được các nhà chức trách yêu cầu phải thay thế ngay bằng một tiêu bản khác giống y như vậy. Chính điều đó đã chứng minh sự hơn hẳn của cơ quan nhà nước với thế giới bên ngoài đang tàn rữa. Nội dung chứa đựng bên trong có thể chỉ nhất thời nhưng hình thức thì không bao giờ thay đổi. Trên bức tường có treo một tấm lịch. Cứ mỗi ngày trôi qua, một tờ lịch lại được bóc đi. Sau một tuần mất bảy tờ, sau một tháng - ba mươi tờ. Vào ngày ba mươi mốt tháng mười hai, khi lốc lịch đã hết, người ta làm đơn xin cái mới, cũng với kích thước y như vậy, hình thức ấn loát y như vậy. Và thế là một năm mới đã bước sang nhưng tấm lịch thì vẫn như cũ. Trên bàn có một cuốn sổ kế toán với những hàng số chi chít. Khi những dãy số ở hàng bên trái vừa cộng xong, kết quả liền được đưa sang hàng bên phải và công việc tính toán lại tiếp tục, hết trang này đến trang khác. Khi trang cuối cùng được viết kín cuốn sổ cũng coi như hết, lại bắt đầu một cuốn mới, vẫn hình dạng y như thế, chiều dày y như thế, không khác chút nào so với cuốn trước. Còn tất cả mọi công việc đã kết thúc trong ngày hôm ấy thì hôm sau sẽ bắt đầu lại, tẻ nhạt, đơn điệu như chính bản thân công việc. Trên mặt bàn sẽ lại xuất hiện chính những đồ vật ấy, vẫn những tập biểu mẫu in sẵn với những cây bút chì, vẫn những chiếc kẹp giấy và những tờ phiếu ghi, lần nào công việc cũng có vẻ như mới nhưng thực ra vẫn như cũ. Không có chuyện gì thay đổi hoặc thêm vào trong cái thế giới do nhà nước quản lý này. Cuộc sống cứ thế lặp đi lặp lại, không chút sinh khí, nói cho đúng hơn là sự chết dần chết mòn ấy không bao giờ chấm dứt. Điều duy nhất khác nhau giữa những đồ vật là nhịp độ hao mòn và khả năng phục hồi của chúng, nhưng điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào bản thân đồ vật. Chiếc bút chì chỉ tồn tại trong một tuần và sau đó được thay bằng chiếc khác giống y như chiếc cũ. Cuốn sổ bưu điện sống được một tháng, chiếc bóng điện - ba tháng, còn tấm lịch thì một năm. Chiếc ghế mây được quy định phải dùng trong ba năm mới được thay thế còn người ngồi trên đó thì phải ngồi suốt đời - khoảng ba mươi đến ba lăm năm. Sau đó trên chiếc ghế ấy người ta sẽ bổ nhiệm một người khác, song chiếc ghế vẫn như cũ, chẳng khác gì chiếc trước. Vào năm 1926, trong trạm bưu điện Klein-Reifling nằm ở một làng nhỏ bình thường cạnh thành phố Krems và cách thủ đô Vienna khoảng hai giờ xe lửa, thứ vật dụng có thể thay thế được mà ta vẫn thường gọi là “nhân viên phục vụ” lại là một người phụ nữ. Và bởi lẽ trạm bưu điện này được xếp vào loại nhỏ, do đó người nhân viên cũng chỉ được mang tước vị “trợ lý ngành bưu điện”. Qua tấm kính của vách ngăn ta không thể nhìn rõ cô gái được, nhưng có thể thấy một khuôn mặt thiếu nữ nhìn nghiêng không có gì đặc biệt song rất dễ thương: cặp môi nhỏ, đôi má hơi nhợt nhạt, phía dưới cặp mắt có một quầng tối. Vào buổi chiều, khi cô gái bật ngọn điện sáng gắt lên, người tinh mắt có thể nhận thấy một vài nếp nhăn nhỏ trên trán và hai bên thái dương. Mặc dù vậy, bên cạnh cành miên quỳ lấp ló sau khung cửa sổ và bó hoa cơm cháy sáng nay cô vừa cắm trong chiếc lọ bằng sắt tây, cô gái vẫn là một đối tượng sinh động hơn cả giữa những vật dụng của trạm bưu điện Klein - Reifling. Và cũng dễ dàng nhận thấy cô gái ấy còn có thể tiếp tục công việc của mình ít nhất là hai mươi lăm năm nữa. Bàn tay nhỏ nhắn với những ngón tay trắng xanh kia sẽ còn phải nhấc lên đặt xuống hàng nghìn lần nữa cái tấm kính ngăn. Và hàng trăm nghìn lần nữa, mà cũng có thể là hàng triệu lần nữa, bằng những động tác máy móc, cô sẽ còn phải đặt những bức thư lên miếng đệm cao su, rồi cũng hàng nghìn lần nữa có thể hàng triệu lần nữa, đóng cái dấu bằng đồng nhem nhuốc lên những con tem. Có lẽ cái thao tác thành thạo của cánh tay cô gái sẽ ngày càng trở nên chính xác hơn, nhanh nhẹn hơn nhưng đồng thời cũng trở nên vô ý thức hơn. Hàng trăm nghìn bức thư nữa sẽ qua tay cô gái, tất nhiên những bức thư khác nhau nhưng chúng luôn luôn chỉ là những bức thư, và những con tem dẫu có khác nhau, nhưng dù sao thì đó cũng chỉ là những con tem. Những tháng ngày khác nhau sẽ trôi qua, nhưng ngày nào cũng bắt đầu từ tám giờ sáng, đến mười hai giờ trưa, từ hai giờ chiều đến sáu giờ tối, rồi năm tháng sẽ trôi qua, không chút hứng thú, không chút thay đổi vì vẫn chỉ là những công việc ấy, cứ lặp đi lặp lại mãi. Cũng có thể vào chính cái buổi trưa mùa hạ êm ả ấy, người thiếu nữ có mái tóc màu hung nhạt ngồi sau ô cửa kính đang nghĩ về tương lai của mình, mà cũng có thể nàng chỉ đang mơ mộng. Dù có thế nào thì cô gái vẫn ngồi đấy, hai cánh tay tuột khỏi mặt bàn nằm yên trên đầu gối, những ngón tay thon nhỏ, trắng xanh mệt mỏi đan vào nhau. Vào những buổi trưa tháng bảy oi nồng với bầu trời xanh nhạt như thế này, trong trạm bưu điện Klein - Reifling hầu như chẳng có việc gì làm. Công việc buổi sáng đã kết thúc, người đưa thư Hinterfellner, một người đàn ông gù lưng lúc nào cũng nhai thuốc lá đã chuyển xong những bức thư từ lâu. Từ giờ đến chiều tối sẽ chẳng có một cái công văn hoặc một mẫu hàng nào từ các nhà máy gửi đến nữa, còn người dân trong làng thì chẳng muốn hoặc chẳng có thời gian đâu mà viết thư. Những người nông dân đầu đội mũ rơm rộng vành đang vun gốc nho, đám trẻ con chân đất vẫn đang nghỉ hè thì dẫn nhau ra sông. Mảnh sân lát đá trước cửa vắng hoe bị ánh nắng mặt trời nung nóng. Giá bây giờ được ngồi ở nhà thì thật là tuyệt và cũng thật là tuyệt nếu được ngồi yên mà mơ mộng. Dưới bóng râm của cánh cửa chớp, những tờ biểu mẫu và những tấm bưu ảnh đang ngủ yên trên giá và trong hộp gỗ, chiếc máy điện báo uể oải lười biếng hắt ra ánh kim loại trong bóng tối nhờ nhờ vàng đục. Sự tĩnh lặng giống như một lớp bụi vàng dày đặc bao trùm lên tất cả mọi thứ dụng cụ trong phòng, chỉ còn lại dàn nhạc violon nhỏ xíu của đàn muỗi và của bầy ong đất là vẫn còn tiếp tục chương trình hòa nhạc buổi chiều của mình ngoài khung cửa. Vật duy nhất còn hoạt động trong căn phòng mát mẻ là quả lắc chiếc đồng hồ treo tường vỏ gỗ treo giữa hai khuôn cửa sổ. Mỗi một giây trôi qua, chiếc đồng hồ nuốt chửng một giọt thời gian. Tuy nhiên tiếng lắc đều đều yếu ớt của nó chỉ càng làm cho người ta dễ ngủ hơn là đánh thức người ta dậy. Cô gái trợ lý ngành bưu điện vẫn ngồi yên trong cái thế giới nhỏ bé của mình và uể oải thiếp đi với một cảm giác dễ chịu. Đúng ra mà nói, cô cũng định tranh thủ thêu thùa một chút. Cô đã chuẩn bị sẵn kim chỉ và một chiếc kéo nhỏ, nhưng tấm vải thêu tuột khỏi đầu gối rơi xuống đất, nhặt nó lên thì cô không đủ sức và cũng chẳng có ý định ấy. Ngửa người ra thành ghế, cô gái nhắm mắt lại thở nhè nhẹ, hoàn toàn đắm chìm trong cảm giác khoan khoái, dễ chịu vì được nghỉ ngơi. Những giây phút như vậy thật hiếm trong đời nàng. Chú thích [1] Franz Josef (1830 - 1916): hoàng đế Đế quốc Áo - Hung từ năm 1848 tới năm 1916.   Mời các bạn đón đọc Khát Vọng Đổi Đời của tác giả Stefan Zweig.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Đứa Con Của Nửa Đêm - Salman Rushdie
Tên eBook: Những đứa con của nửa đêm Tác giả: Salman Rushdie Thể loại: Huyền ảo, Lịch sử, Tiểu thuyết, Văn học Ấn độ   Dịch giả: Nham Hoa   Số trang: 608   Kích thước: 15 x 24cm   Ngày phát hành: 27-03-2014   Giá bìa: 145 000 VND   Công ty phát hành: Nhã Nam   Nhà xuất bản: NXB Văn Học   Chụp pic: sundaefruit   Type: kasachan, stupid.devil, Frozenz, Meobongxu87, undead_nd    Beta: sagelc91   Tạo prc: Dâu Lê   Nguồn: luv-ebook.com     Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Những đứa con lúc nửa đêm Giới thiệu Cuốn tiểu thuyết Những đứa con lúc nửa đêm lấy bối cảnh quá trình chuyển tiếp của Ấn Độ từ thời thuộc địa Anh sang độc lập rồi tách thành ba quốc gia độc lập Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh. Những đứa con của nửa đêm không phải được viết ra để đọ thật nhanh. Đồ sộ như chính nó, huyền hoặc như chính nó, với một người dẫn chuyện lơ đãng có chủ đích, một lượng từ vựng khổng lồ và vô vàn tham chiếu đến lịch sử cũng như thần thoại của một đất nước thịnh vượng bậc nhất về mặt văn hóa. Cuốn sách làm choáng ngợp ngay cả những người đọc dạn dày. Đây là sự trải nghiệm kỳ thú về tình yêu và mất mát, về những số phận trôi dạt giữa lịch sử đầy bão dông, giữa những nang lực diệu kỳ và phép thuật kỳ diệu như cổ tích. Như mọi tác phẩm khác của “thầy phù thủy” Salman Rushdie, Những đứa con của nửa đêm không phải được viết ra để đọc thật nhanh. Đồ sộ như chính nó, huyền hoặc như chính nó, với một người dẫn chuyện lơ đãng có chủ đích, một lượng từ vựng khổng lồ và vô vàn tham chiếu đến lịch sử cũng như thần thoại của một đất nước thịnh vượng bậc nhất về mặt văn hóa, Những đứa con của nửa đêm làm choáng ngợp ngay cả những người đọc dạn dày. Nhưng ngay cả chưa cần tường tận đến từng chi tiết tinh xảo, cuốn sách này vẫn là một trải nghiệm đọc kỳ thú, về tình yêu và mất mát, về những số phận trôi dạt giữa lịch sử đầy bão giông, những năng lực diệu kỳ và phép thuật như cổ tích, thật như đời và ảo như mơ. Những đứa con của nửa đêm đoạt giải Booker lần đầu tiên năm 1981. Năm 1993, nó lại được chính ủy ban bầu chọn của giải thưởng danh giá này trao giải Cuốn sách đoạt giải Booker hay nhất (The Best of the Booker). Thành tích phi thường đó một lần nữa được lặp lại vào năm 2008, đưa Những đứa con của nửa đêm trở thành một hiện tượng vô tiền khoáng hậu của văn chương thế giới. Nhận định “Một trong những cuốn sách quan trọng nhất từng xuất hiện trong thế giới nói tiếng Anh.” – New York Review of Books “Đồ sộ, sống sít, choáng ngợp… một cuốn sách diệu kỳ theo mọi nghĩa.” – Sunday Times “Một cuốn sách kỳ vĩ.” – Observer “Bản đồ văn chương của Ấn Độ cần phải được vẽ lại… Những đứa con của nửa đêm vang vọng như một lục địa tìm được tiếng nói của mình.” – New York Times Tác giả SALMAN RUSHDIE Salman Rushdie (Sinh 19/6/1947) là nhà văn Anh gốc Ấn, nổi tiếng nhất với tác phẩm Những đứa con của nửa đêm. Tác phẩm của ông kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố hiện thực huyền ảo với hư cấu lịch sử, hầu hết lấy bối cảnh lục địa Ấn, với chủ đề xoay quanh những mối quan hệ phức tạp giữa phương Đông và phương Tây. Tiểu thuyết thứ tư của ông. The Satanic Verses (tạm dịch: Những vần thơ của quỷ Satan, 1988) từng gây nên sự phản đối gay gắt ở nhiều nước Hồi giáo, mà đỉnh cao là án tử hình vắng mặt (Tatwā) do Ayatollah Khomeini, lãnh tụ tôn giáo tối cao của Iran, đưa ra vào ngày 14/2/1989 đối với ông. Rushdie được nước Pháp trao tặng Huân chương Văn học Nghệ thuật vào tháng 1/1999, và được Hoàng hậu Elizabeth II của Anh phong tước Hiệp sĩ vào tháng 6/2007 vì sự nghiệp văn chương. Đến nay, tác phẩm của ông được Nhã Nam dịch ra tiếng Việt và ấn hành gồm: - Haroun và biển truyện, tải eBook - Nàng phù thủy thành Florence, tải eBook - Những đứa con của nửa đêm, tải eBook Mời các bạn đón đọc Những Đứa con lúc nửa đêm của tác giả Salman Rushdie.
Bản Chúc Thư - John Grisham
Tên eBook: Bản Chúc Thư (full prc, pdf, epub) Tác giả: John Grisham Thể loại: Tiểu thuyết, Văn học phương Tây   Dịch giả: Phan Quang Định   Nhà xuất bản: Nxb Phụ Nữ   Năm xuất bản: 2/2011   Số trang: 575   Khổ sách: 13x 19 cm   Giá bìa: 56.000 đồng   Đánh máy: limoupham, yukuntdr, thanhtinh, hexus, tyler92, maianhchip, beolun23, tronghuong   Hiệu chỉnh, Tạo prc: thanhtradn91   Nguồn: VTBT Book - viettorrent.vn   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa eBook Bản Chúc Thư   Giới thiệu: Troy Plelan - 1 tỷ phú già lập dị, sau khi tự tử đã để lại tài sản khổng lồ của mình cho cô con gái ngoài giá thú. Ông muốn gởi đến thông điệp cho các con, người vợ cũ của mình và tay sai rằng họ sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn của cuộc chiến pháp lý làm thay đổi cuộc sống của họ. Luật sư của ông - Nate O'Riley bây giờ được giao nhiệm vụ hiện thực hóa bản chúc thư của Troy cũng như việc tìm kiếm người thừa kế. Nate O'Riley đến một khu rừng truyền giáo ở Brazil để tìm kiếm một người phụ nữ bí ẩn tên là Rachel Lane (được cho là con gái ngoài giá thú của Troy). Trong lúc ấy, gia đình Troy tìm mọi cách thay đổi bản chúc thư. Họ cho rằng mặc dù Troy đã được kiểm tra sức khỏe bởi ba bác sĩ tâm thần hàng đầu, nhưng ông đã thiếu sự tỉnh táo tại thời điểm lập chúc thư. Mời các bạn đón đọc Bản chúc thư của tác giả John Grisham.
Cocktail thị thành - Di Li
Tên eBook: Cocktail Thị Thành (full prc, pdf, epub) Tác giả : Di Li Thể loại: Lãng mạn, Tình cảm, Tiểu thuyết, Văn học Việt nam   Công ty phát hành: Phương Đông   Nhà xuất bản: NXB Phụ Nữ   Trọng lượng vận chuyển: 220 g   Kích thước: 12 x 20 cm   Số trang: 196   Ngày xuất bản: 03/2011   Hình thức: Bìa mềm   Giá bìa: 37.000 ₫   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook -  http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Cocktail thị thành Giới thiệu: "Đọc đi rồi bạn sẽ cay mũi!". Cuốn sách Cocktail thị thành này sẽ khiến nhiều bạn bực mình lắm! Bởi trong đó có khá nhiều thói quen của chúng ta bị tác giả lôi ra để châm chọc, dẫu nhẹ nhàng, nhưng đọc đi rồi bạn sẽ cay mũi! Cocktail thị thành gồm 22 bài viết, hầu hết được đặt trong cái nhìn so sánh của văn hóa thời hội nhập. Một góc Ả rập giữa lòng Hà Nội, Tết không còn như xưa, hay Ta ăn Tết Tây là những ghi chép dễ thương, những cảm nhận tinh tế, đầy nữ tính về khoảng lặng văn hóa Phương Đông - Tây giữa những ồn ào trong đời sống của một thị dân trẻ tuổi. Nhưng, những ấn tượng ấy chỉ là một hai nét điểm xuyết bất ngờ trong suốt tập sách này. Phần còn lại giống như loạt bài khảo luận về tâm lý và văn hóa thị dân đương đại. Rất nhiều vấn đề khác nhau xung quanh thói, tật của thị dân đương đại đã được Di Li đem lên "bàn nghị sự". Mời các bạn đón đọc Cocktail Thị Thành của tác giả Di Li.
Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7 - Park Lee Jeong
Tên eBook: Điều kỳ diệu ở Phòng giam số 7 (full prc, pdf, epub) Tác giả: Park Lee Jeong Thể loại: Hài hước, Tình cảm, Tiểu thuyết, Văn học Hàn quốc   Công ty phát hành: Alphabooks   Nhà xuất bản: NXB Hồng Đức   Trọng lượng vận chuyển: 550 g   Kích thước: 13 x 20.5 cm   Số trang: 352   Ngày xuất bản: 01/2014   Hình thức: Bìa Mềm   Giá bìa: 99.000 ₫   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook -  http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7 Giới thiệu: Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7 kể về Yong Gu, một người cha bị thiểu năng trí tuệ, hầu như không có gì trong tay ngoài tình yêu vô bờ bến dành cho cô con gái Je Sung. Chỉ vì muốn mua cho con gái chiếc cặp Thủy thủ Mặt Trăng mà Yong Gu bị đổ oan tội giết người, cưỡng dâm trẻ em và bị vào tù cùng án tử hình. Và tại không gian chật hẹp của phòng giam số 7 ở nhà tù mà Yong Gu bị tống giam, một điều kỳ diệu đã xảy ra. Ban đầu là nhờ sự trợ giúp của các bạn tù, con gái Je Sung của Yong Gu đã được bí mật đưa vào thăm bố. Nhưng sự việc nhanh chóng bị phát giác bởi sở trưởng trại giam nọ - người ngay từ đầu đã có ác cảm với Yong Gu sau khi biết anh phạm tội giết người, cưỡng dâm trẻ em. Tuy nhiên, vị trại trưởng, trong quá trình điều tra phát hiện ra Yong Gu bị oan, đã bất chấp mọi quy định của trại giam để đưa cô con gái Je Sung của Yong Gu hàng ngày vào thăm và thậm chí sống với bố trong trại giam, đồng thời nhận Je Sung làm con nuôi. Vậy là từ ngày có Je Sung, phòng giam số 7, từ một nơi chỉ có sự tuyệt vọng và nỗi giày vò, trở nên đầy ắp tiếng cười, khi người với người xích lại gần nhau hơn. Chỉ tiếc là câu chuyện cổ tích ở trại giam lại không kéo dài khi ngày xét xử Yong Gu cuối cùng cũng đến. Mặc dù được sự hậu thuẫn và yêu thương của tất cả những người ở trại giam nhưng cuối cùng, tình yêu thương vẫn không đủ để thắng được sự bất công và lộng quyền của những người nắm cán cân luật pháp... Mời các bạn đón đọc Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7 của tác giả Park Lee Jeong. Video giới thiệu cuốn sách Điêu kỳ diệu ở phòng giam số 7:     eBook Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7 - Park Lee Jeong full prc... #Mỗi_ngày_một_cuốn_sách: eBook Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7 - Park Lee Jeong full prc, pdf, epub [Hài hước]Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7 kể về Yong Gu, một người cha bị thiểu năng trí tuệ, hầu như không có gì trong tay ngoài tình yêu vô bờ bến dành cho cô con gái Je Sung. Chỉ vì muốn mua cho con gái chiếc cặp Thủy thủ Mặt Trăng mà Yong Gu bị đổ oan tội giết người, cưỡng dâm trẻ em và bị vào tù cùng án tử hình.Và tại không gian chật hẹp của phòng giam số 7 ở nhà tù mà Yong Gu bị tống giam, một điều kỳ diệu đã xảy ra. Ban đầu là nhờ sự trợ giúp của các bạn tù, con gái Je Sung của Yong Gu đã được bí mật đưa vào thăm bố. Nhưng sự việc nhanh chóng bị phát giác bởi sở trưởng trại giam nọ - người ngay từ đầu đã có ác cảm với Yong Gu sau khi biết anh phạm tội giết người, cưỡng dâm trẻ em.Tuy nhiên, vị trại trưởng, trong quá trình điều tra phát hiện ra Yong Gu bị oan, đã bất chấp mọi quy định của trại giam để đưa cô con gái Je Sung của Yong Gu hàng ngày vào thăm và thậm chí sống với bố trong trại giam, đồng thời nhận Je Sung làm con nuôi. Vậy là từ ngày có Je Sung, phòng giam số 7, từ một nơi chỉ có sự tuyệt vọng và nỗi giày vò, trở nên đầy ắp tiếng cười, khi người với người xích lại gần nhau hơn.Chỉ tiếc là câu chuyện cổ tích ở trại giam lại không kéo dài khi ngày xét xử Yong Gu cuối cùng cũng đến. Mặc dù được sự hậu thuẫn và yêu thương của tất cả những người ở trại giam nhưng cuối cùng, tình yêu thương vẫn không đủ để thắng được sự bất công và lộng quyền của những người nắm cán cân luật pháp...Mời các bạn đón đọc Điều kỳ diệu ở phòng giam số 7 của tác giả Park Lee Jeong.Tải eBook full định dạng prc, pdf, epub tại: https://www.dtv-ebook.com/ebook-dieu-ky-dieu-o-phong-giam-so-7-park-lee-jeong-full-prc-pdf-epub-hai-huoc_557.html Posted by Tải truyện cho di động on 6 Tháng 11 2015