Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mưa Trên Cây Sầu Đông - Nhã Ca

Cây sầu đông không biết có phải là một loại cây đặc biệt ở Huế không, tôi nghe người Bắc gọi là cây Xoan, người Huế gọi là Sầu đông, Thầu đâu hay có khi gọi Sầu đâu. Thân cây cao, có nhiều cành màu đen, khô, lá cây có khứa, nối chùm bằng những cọng nhỏ, hoa nhỏ, có cánh li ti màu tím nhạt, nhụy tím thẩm. Ở gốc cây, nếu bị vết sứt thường chảy ra một thứ nhựa trong màu vàng, có thể dùng để dán được. Bây giờ Huế đã đổ nát, đã tang thương. Tôi viết lại câu chuyện này để cùng những người bạn cũ và những cây sầu đông của Huế còn sống sót, nhớ tới một thành phố êm đềm thơ mộng cũ, những ngày cũ, với những giọt mưa rơi từ trên cây sầu đông. Sài Gòn năm 1968 *** Ánh mặt trời sau một mùa đông dài lẩn trốn, hôm nay hiện ra thật lộng lẫy. Hiện ra trên những mái ngói sạch bóng, trên những vườn cây xanh, hiện ra trên chiếc sân rộng giăng những hàng giây thép song song từ bờ rào đến miệng giếng, trên những hàng giây thép, những áo màu bay lay lắc đẩy đưa theo làn gió xuân nhẹ. Trước thềm nhà đặt đầy những chậu hoa thược dược, thằng Rọm đang ngồi lui cui thay mấy cây đại thọ vừa bị cắt bông để đem cắm vào bàn thờ buổi tối hôm trước. Sáng nay, có chị đàn bà gánh hoa từ trên Long Thọ xuống đi ngang qua nhà thật sớm, thằng Rọm đã gọi vào mua để thay thế những chậu cây cũ. Con Bông đang chạy ven bờ chè tàu, nhón gót hái những sợi tơ hồng non mướt đang giăng mắc trên bờ chưa ráo sương ướt. Ngoài ngõ có tiếng chuông xa xích lô bấm cong cong, thằmg Rọm dơ hai tay bẩn chùi vào đít quần rồi đứng dậy, lật đật đi ra cửa. - Ai? Thằng Đậu hở? Chi rứa? - Nì, xe cái bình sành ni vô. Bên cửa hàng bà biểu chở về đó. Thằng Rọm lạch bạch phụ với anh Đậu xính lô khiêng cái bình sành có hình nổi rồng phượng vô sân. Khi cái bình sành đặt nơi mái hiên rồi, anh Đậu xích lô hỏi thằng Rọm: - Răng, bà đem chậu sành về mần chi rứa. Thằng Rọm ngước mắt nhìn anh Đậu xích lô, nhăn mặt: - Chắc đám cưới bà đó, bà đem về chưng. Anh Đậu trợn mắt: - Nói thiệt hay nói chơi. Bà Phúc Lợi lấy chồng? Lấy ai rứa? - Lấy một người đàn ông. - Cái ông nị kỳ cục, ai giỡn, hỏi thiệt mà. - Thì tui cũng nói thiệt. Răng mà các người tò mò quá. Hỏi mần chi. Hỏi để đi ra bán cho cả làng cả nước biết hỉ? Anh Đậu dơ tay bịt miệng, vẻ hốt hoảng: - Bậy nờ, nhà bà từ lâu phúc đức, ai dám nói xấu. Hôm trước con vợ tui... Anh Đậu lại đưa tay che miệng. Nhưng thằng Rọm cười: - Vợ anh nghe chuyện nhà ni chớ chi? Thiệt tao nói cho mi biết con chó ăn cứt mà thơm, người ta ăn cơm mà thúi... Rồi không đợi anh Đậu nói thêm lời nào, thằng Rọm trở ra mấy chậu cây bông thọ đang trồng dở, ngồi xuống. Anh Đậu đội chiếc nón xích lô rách lên đi ra cổng: - Thôi tui về nghe. Thằng Rọm không trả lời. Nó bận bắt một con sâu màu xanh bám trên lá cây vạn thọ. Nó lấy hai ngón tay bóp con sâu nát bét rồi chùi lên quần. Khi đã trồng hết mấy cây bông, thằng Rọm lại lúi cúi tìm sâu tiếp tục bắt. Nó lượm được mấy con nữa, nó đặt trong vòng tay và cầm chặt lại. Thằng Rọm mãi tìm sâu không để ý đến Tỷ Muội mở cổng rào đi vào. Khi tới gần, thằng Rọm thấy bóng quần trắng loáng thoáng, nó mới ngẩng lên: - A, mi qua đó há? - Mần chi rứa ông thằng Rọm. Thằng Rọm phì cười: - Con ni hay hí? Kêu chi lạ rứa. Nhưng Tỷ Muội không để ý lời nói của thằng Rọm, nó chăm chú nhìn vào bàn tay thằng Rọm đang nắm chặt: - Cầm cái chi rứa. - Ni. Thằng Rọm dơ bàn tay lên rồi mở ra. Tỷ Muội kêu thét lên rồi lùi lại một bước. Trong lúc bàn tay thằng Rọm đầy sâu xanh, có con nằm ngay đơ, có con còn ngúc ngoắc muốn bò. Thấy mặt Tỷ Muội tái xanh, thằng Rọm dọa: - Sợ không? - Sợ, sợ ông thằng Rọm ơi, đừng dọa tui... tội tôi mà. Thằng Rọm cười xoà rồi bóp mạnh tay cho đám sâu bẹp dúm hẳn, lượm miếng lá chuối có rễ vạn thọ rũ sạch đất lau tay. Tỷ Muội đã hết sợ, nó hỏi: - Có ai ở nhà không? - Ai? - Ai nữa. Thằng Rọm cười: - Đang nằm trong buồng. Chắc ngủ chưa dậy. - Con quỷ ngủ dữ ác. Tỷ Muội bỏ thằng Rọm chạy vào nhà. Nó chạm phải bàn thờ bà ngoại của Đông Nghi, mấy cây đèn cầy sáp đang cháy dở và mùi nhang thơm nồng. Tỷ Muội nhìn lên tấm ảnh người đàn bà già, rồi chạy tuột vào một căn buồng nhỏ. - Nghi, Nghi. Ngủ chi dữ rứa. Tỷ Muội thấy Đông Nghi nằm trong giường, mùng màn chưa cuốn. Nó vén mùng chui tọt vào ngồi bên bạn. - Dậy, Nghi. Dậy nói chuyện ni cho nghe. Đông Nghi quay lại, mắt tỉnh khô. Nghi đâu có ngủ, nàng đã thức dậy từ lúc sáng sớm nhưng lười biếng nằm dài đó thôi. Nghe Tỷ Muội nói có chuyện Đông Nghi thở ra: - Nghe chuyện tao chưa đủ răng nghe chuyện người ta nữa? Tỷ Muội tiu nghỉu. Nó nhìn ra vườn, Đông Nghi ngủ mà không đóng cửa sổ. Nó nghe tiếng chim hót ngoài vườn và có tiếng cành lá lay động nữa. Nó hỏi bạn: - Đã móc võng lại chưa? - Rồi. - Ra vườn chơi đi. - Ừ, ra trước đi, đợi tao đi xúc miệng rửa mặt một chút. Đông Nghi nhảy ra khỏi giường, Tỷ Muội không đi mà ngồi đợi nơi chiếc ghế nhỏ. Nó thấy trên bàn của Đông Nghi những tờ giáy vẻ nhăng nhít còn bừa bãi. Trên bàn có thêm một đồ chơi mới, một con búp bê tóc vàng, chân dính vào một cái bục tròn, khi Tỷ Muội xoay, nó nghe thấy một điệu nhạc thật êm đềm. Một lát sau hai cô bạn đã ra ngoài vườn. Chiếc võng đã được giăng ra ở giữa cây sầu đông và cây hồng bì. Cây khế ngọt bị lẻ loi, Tỷ Muội nghĩ thế, và trước khi ngồi lên võng, nó vỗ vào thân cây khế và hái một đọt lá khế con cho vào miệng nhấm: - Lá non ngọt rứa thê mi ơi. Rồi nó nhìn quanh vườn: - Mau quá, mới đó mà mùa Xuân rồi. Đông Nghi im lặng. Mắt nàng nhìn mông lung vào những tàn cây xanh, những đọt lá non, những chồi đang hé. Ngày nào những giọt mưa trên cây sầu đông đã rụng xuống, vậy mà bây giờ, trên những cành khô, lá non đã xanh tươi, vẻ dửng dưng không nhớ nhung. Chính mình cũng đã quên hết rồi răng? Những điều đã nguôi ngoai thì quả là thật đúng. Tỷ Muội chợt nhìn thấy vẻ u buồn trên mặt bạn, nó lại tươi cười: - Nghi, đừng có khóc nghe. Đông Nghi mỉm cười choàng tay qua vai bạn. Nàng cảm thấy thương bạn ghê gớm. Tỷ Muội thật dễ thương, nó cũng bằng tuổi Nghi mà nó vô tư sung sướng quá. Đông Nghi nhìn khu vườn, hôm nay vườn cây đã mang một bộ mặt mới lạ hẳn. Những ngày mùa đông mưa mù trời đất như đã chìm vào giấc mộng xa xưa nào. Và Đông Nghi cũng thấy mình nhớn hẳn. Tay Nghi vẫn choàng qua vai Tỷ Muội. Tỷ Muội nép vào vai bạn: - Nghi nghỉ học luôn thiệt há? - Ừ. - Tụi nó nói Nghi đau Nghi nghỉ vài ngày. Đông Nghi cười, mắt mơ màng nhìn lên đọt cây: - Cô giáo có nhắc gì Nghi không? - Có, mấy cô hỏi thăm Nghi đau ra răng. - Mình có đau ốm chi mô. Tỷ Muội buồn bã: - Rứa là từ nay Muội đi học một mình. Đông Nghi nhìn vào mắt bạn, thấy mắt Tỷ Muội như rưng rưng sắp khóc. Đông Nghi cũng muốn khóc theo: - Thiệt mình không biết mần răng để cựa quậy nữa Muội ơi. - Răng chừ làm đám cưới. - Chắc vài tuần. - May áo mới chưa? - Tuần trước ba tui đi Saigon mua mười mấy chiếc áo dài, chưa kể áo cưới họ may. Tỷ Muội ngồi ngẩn ngơ. Đông Nghi cười lớn vỗ vào vai bạn: - Mi nghĩ là tao bằng lòng lấy thằng Khanh vì lẽ chi? - Mạ mi ép buộc chớ chi. - Không phải, vì tiếng đàn ghi ta của hắn, mùa xuân hắn đàn trở lại tao nghe và mê luôn. - Mê chi rứa? Đông Nghi ghé vào tai bạn: - Hắn có mùi hôi nách giống như con chi đó ở trường. Dù răng hắn cũng có mùi vị đặc biệt. Nói xong Đông Nghi rũ ra cười. Tỷ Muội cười theo nhưng thấy Đông Nghi vừa cười vừa chảy nước mắt ràn rụa, nó ôm chầm lấy bạn: - Nghi, Nghi đừng khóc. Đông Nghi đưa tay chùi nước mắt, vẫn chưa thôi cười: - Không, không, tao mô có khóc. Mi biết không? Khi tao đi lấy chồng mạ tao khóc, ông Bồ Đào khóc, thằng Rọm khóc, cây sầu đông khóc. Rồi không dừng được nữa, Đông Nghi òa khóc thật. Nàng ngồi im, nước mắt chảy như mưa lăn trên mặt lá cây. Tỷ Muội hốt hoảng định dỗ bạn, nhưng rồi nó cũng mũi lòng khóc theo bạn. Khóc một lúc, Đông Nghi nín hẳn. Như sau cơn mưa, cây cối sạch sẽ láng bóng, mặt của Đông Nghi trông rạng rỡ hẳn. Nàng nhìn cây sầu đông, những búp hoa như sắp bung nở. Không còn chi giống cảnh cũ nữa, sao mình vẫn còn đau lòng chuyện cũ? Đông Nghi ngơ ngác hỏi lòng mình, rồi nàng cầm tay bạn: - Hồi nớ Tỷ Muội nói chuyện chi lạ? - Chuyện con Trà. - Hắn mần răng? - Con Trà chửa hoang. Đông Nghi trợn mắt, bấu chặt vai bạn: - Thiệt không? - Thì nó nghỉ học cả tuần rồi, tụi nó đồn rầm rầm... Đông Nghi tự dưng mỉm cười. Thôi câu chuyện dành cho thành phố Huế đã ngã sang kẻ khác. Như vậy là Nghi thoát nạn. Nghi đứng dậy vươn vai, nhưng Tỷ Muội kéo bạn ngồi xuống. - Răng, chừ mi có muốn làm nổ thành phố Huế nữa không? Đông Nghi nhìn quanh khu vườn, mắt mơ màng: - Nổ à? Nó chưa nổ thì không trước thì sau nó sẽ nổ, nhưng tao không làm điều đó nữa. - Nếu nó nổ đi có tiếc không? - Tao thích Huế cứ như rì mãi. - Đồ mâu thuẫn. Đông Nghi hiền lành mỉm cười. Tỷ Muội đứng dậy, kéo tay bạn: - Đi vô đi, mình về. - Về mần chi? - Về học bài chớ. Bà quên tui còn đi học nữa. - Ừ hỉ. Đông Nghi thả tay bạn. Nàng đứng thẫn thờ, mình thì hết nữ sinh rồi. Hết nữ sinh thì mần răng làm nổ thành phố? Đông Nghi buồn bã: - Thôi mi về đi. - Không đưa tao vô hỉ? - Thôi Muội về học bài đi. Tỷ Muội cười và bỏ chạy, Nghi nói: - Mai rảnh đi đo áo mới với mình nghe. Hứa làm phù dâu thì phải diện nghe. - Dị òm. Tỷ Muội nói xong đã khuất sau những hàng cây. Còn một mình, Đông Nghi đi tới nơi cây sầu đông, nàng dựa vào thân cây mắt nhìn lên ngọn. Qua những cành cây xương xẩu và những tàu lá non mát, bầu trời xanh ngắt với những đám mây trắng nõn hiện ra. Những đám mây không bay mà đứng sửng, Đông Nghi bỗng thở dài, nàng đưa móng tay cào cào vào thân cây, bóc một mảng vỏ lớn. Đông Nghi nhớ lại thời còn thơ ấu, nàng hay lấy dao cạo thân cây để sáng ra thấy mủ sầu đông chảy ra, đọng thành những hình thù vàng trong xinh xắn. Đông Nghi đi tới một luống hoa, nàng hái một bông vạn thọ chà nát trong lòng tay. Mùi hoa vạn thọ hăng hắc, ngon ngọt làm Đông Nghi choáng váng. Hoa vạn thọ nhiều nhất là mùa Xuân, mỗi mùa Xuân mới có, và nó mới khoe đầy đủ hương sắc. Như cây sầu đông, mùa đông mới có mưa và có giọt lệ của chàng. Tuấn ơi, chừ anh đang ở đâu? Đang làm gì? Những ngày ở Huế chóng vánh nhưng có đủ kỷ niệm để chàng nuôi nhớ suốt đời không? Nhưng Nghi, Nghi sẽ nhớ suốt đời. Con gái Huế lãng mạn lắm, dữ dội lắm, vậy mà thành trì thành kiến vẫn vây chặt được. Năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, nếu không mọc cánh bay được một lần thì phải bán nắm xương tàn cho sông Hương núi Ngự. Đông Nghi cắn môi, nàng muốn khóc nhưng không thể khóc thêm được nữa. Bây giờ là mùa Xuân, mùa Đông chưa tới để mang những giọt lệ cho nàng. Nghĩ đến Tuấn, tim Đông Nghi đau nhói. Nàng ôm lấy ngực, mắt Đông Nghi hoa lên, rồi bao nhiêu cây cối như vừa quay ngược trước mắt nàng, Đông Nghi cố gượng chạy vào nhà. Vào tới sân, chân Đông Nghi vấp mạnh, rồi nàng lảo đảo muốn té. Đông Nghi lại gượng được, nàng mở bừng mắt, thằng Rọm như vừa ngã té xuống đất và đang lòm còm ngồi dậy. Hắn nạt: - Đi mô như bị ma đuổi rứa, khỉ. Đông Nghi khựng lại, nhưng rồi thấy dáng điệu của thằng Rọm, Đông Nghi không nín cười được, nàng cười phì. Thằng Rọm lại trợn mắt: - Cười nữa há. Ô cha, cái con ni cười chi lạ rứa hỉ? Đông Nghi đỡ thằng Rọm dậy: - Xin lỗi nghe. Rồi nàng mân mê mấy đóa hoa vạn thọ, màu vàng thẩm như ánh mặt trời ban mai chao nhẹ trong lòng nàng những nhớ nhung thơ ấu, màu vàng cũng nhắc nhở tấm lòng phụ bạc của nàng. Nghi chẳng phụ Tuấn là gì? Hình ảnh Tuấn chơ vơ giữa sân ga trống, mắt dõi theo chiếc xe cũ kỷ màu đen láng và bước chân chao hụt của chàng. Như thế là hết. Những lá thư ở xa gửi về không bao giờ Đông Nghi được đọc. Thằng Rọm thấy Nghi đang cười bỗng nhiên đăm chiêu, hắn gạt tay Nghi ra khỏi chậu hoa vạn thọ: - Ê, thả tay ra, gãy hết chừ. Đông Nghi chụm tay thằng Rọm. Rọm để yên bàn tay đen đủi của hắn trong tay Nghi nhìn chăm chăm rồi cười: - Ni lớn tồng ngồng rồi, sắp có chồng rồi, cứ làm như con nít con na. Rồi Rọm chỉ cái bình bằng sứ: - Mạ đem về bữa mô làm đám cưới đó tề. Không nghe Đông Nghi nói gì, thằng Rọm ngước nhìn lên, thấy hai giọt lệ đang lăn dài xuống má nàng. Thằng Rọm kêu: Nghi, răng khóc. Đông Nghi đã bỏ chạy vào nhà cánh cửa đóng lại. Buổi trưa hôm đó, Đông Nghi không ăn cơm, nàng khóc âm thầm một mình rồi ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy trời đã chiều. Đông Nghi nghe tiếng ông Bồ Đào nói chuyện với thằng Rọm ở nhà ngoài. Lát sau nàng đi ra, ông Bồ Đào nói: - Mặc áo đi con. Sang bên nớ mạ rồi ba chở đi thử áo hỉ. Đông Nghi ngoan ngoãn rửa mặt, thay áo. Buổi tối hôm đó, đi thử áo dài xong, Đông Nghi với mẹ và ông Bồ Đào đi ăn phở ở vườn hoa Nguyễn Hoàng. Nhìn qua bên kia sông, vườn hoa trước trường Đồng Khánh tối om, chỉ thấy lờ mờ vài đọt dừa cao và những cột điện nhấp nháy sáng sát mặt đường. Thấy cảnh cũ, Đông Nghi lại muốn khóc, nhưng nàng cố che bằng nụ cười, nàng hỏi mẹ: - Đám cưới con mạ có may áo mới không? Bà Phúc Lợi cười, đưa tay vuốt tóc con gái: - Có chớ, mạ may áo gấm đẹp lắm. Rồi bà nhìn ra mặt sông, giọng mơ màng: - Mặc áo mới chắc hôm đó mạ thấy vui lắm. Lâu lắm mạ không còn biết vui khi mặc áo mới nữa. Đông Nghi cúi đầu. Khi đưa đám ma người ta cũng mặc áo mới. Khi bà ngoại chết Nghi cũng có áo mới. Trong đời ta còn bao nhiêu áo mới nữa, sá chi cái cáo mới ngày cưới. Đông Nghi lặng lẽ ăn. Ông Bồ Đào ân cần: - Con thích đi Saigon không, ba cho đi vài ngày trước đám cưới. Mộtánh sáng loé ra trong đầu Nghi. Nhưng rồi tia sáng đó cũng tắt ngấm rất nhanh. Đông Nghi lắc đầu: - Con không muốn xa Huế nữa. Câu nói của Nghi làm cho ông Bồ Đào nhìn bà Phúc Lợi cười đầy ý nghĩa. Nhưng Nghi không nghĩ như họ, nếu lần này được xa Huế không bao giờ nàng còn trở lại nữa. Nghi biết Nghi cũng không còn can đảm dứt bỏ Huế khi không có Tuấn bên cạnh. Căn nhà giam thành kiến ở trong mọt thành phố đầy thành trì miệng tiếng, khu vườn nhốt tuổi thơ, rồi cây nhãn cây hoàng lan, cây bại hoại. Thôi ngoại ơi, con ở lại đây để hái hoa bại hoại cúng ngoại hỉ? Nhưng giá đám cưới muộn hơn để mùa hè này Nghi còn được tắm sông với Tỷ Muội, đi biển với Tỷ Muội hay hai đứa đánh thẻ, chơi ô làng bên Đò Cồn bẻ bắp nướng ăn. Thôi, mơ ước chi nữa, bầu trời con gái đã sụp đổ, tình yêu đã sụp đổ. Mười phương cũng đã hết chín phương, còn một đi lấy chồng. Đông Nghi nhìn mẹ, nhìn ông Bồ Đào, tại sao hai người không là vợ chồng được. Thành kiến, miệng tiếng đã chia rẽ mẹ, và mẹ lại tiếp tục đổ lên đầu con. Ta ở đây, mai một đẻ con đẻ cái, ta lại tiếp tục giữ trọn cái nề nếp cho cái nhà, cái vườn, ta sẽ thành bà mẹ khắt khe như mạ. Nhưng mạ tiếp tục sống như rứa mạ sẽ làm nổ tung thành phố đó. Nếu một mai bà vợ ông Bồ Đào nổi nơi tam bành. Nhưng Đông Nghi yên trí ngay, thành phố này là nơi mang tiếng trong nhà chưa rõ ngoài ngõ đã hay, không lý gì chuyện mẹ và ông Bồ Đào dấu kín mãi được. Nhưng nàng không đủ sức để tìm hiểu chuyện ai nữa, dù kẻ đó là mẹ nàng. Gió ở bờ sông thổi lên mát rượi, Đông Nghi nhớ lại đêm nào ngồi với Tuấn nơi ghế đá bên kia sông. Tóc nàng bay vào mặt chàng, hơi thở chàng phà ấm bên tai. Đông Nghi bỗng thấy nàng cô đơn, trống vắng như một kẻ đi xa trở về quê cũ vẫn còn nguyên từng ấy cảnh vật, nhưng sự xúc động xưa cũ đã chết mất rồi. Buổi tối hôm đó, ông Bồ Đào với mẹ lại bày bàn ra ngồi ở góc sân, nơi cây nhãn. Cũng người xưa cảnh cũ, bụi hoa nhài tỏa hương thơm nức. Và bà Phúc Lợi kêu, giọng ngọt ngào: - Nghi ơi, lấy nước trà ra cho mạ. Đông Nghi bưng nước trà ra, hương hoa nhài vẫn ngây ngất và nàng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn: Thì ra có gì thay đổi mô? Có chi mô, Đông Nghi đặt hai tách nước trà xuống bàn, nhưng mạ không bắt đứng quạt nữa. Nàng đi vào phòng mở cửa sổ. Song cửa ngắn đã được tháo ra và thay bằng song cửa mới, Đông Nghi không trông thấy gì ở ngoài vườn hết. Nhưng khi nàng đứng yên, tưởng tượng, nàng có cảm tưởng như những giọt nước đang rơi lốp bốp ngoài kia, không biết có phải phía ở cây sầu đông không. Mùa đông qua rồi. Nghi ơi, đợi ta với mùa đông nghe. Bao nhiêu nước mưa sẽ là nước mắt, và ta sẽ khóc với người. Nhưng cũng chả can gì hết, chả chết ai hết. Mùa Xuân cũng sẽ trở lại. Đông Nghi lục lọi tìm xấp thơ của Tuấn. Nàng để giữa phòng và châm lửa đốt. Ngọn lửa bùng lên soi rõ khuôn mặt của Đông Nghi với hai mắt mở lớn, khô lệ.   Mời các bạn đón đọc Mưa Trên Cây Sầu Đông của tác giả Nhã Ca.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đám Ma Tôi
"Đám ma tôi" được nhà xuất bản Tân Việt ấn hành lần thứ nhất vào tháng 11 năm 1940, khi thi sĩ Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi. Song nhiều ý kiến cho rằng, có thể tập văn xuôi này được ông viết sớm hơn hoặc có ý định viết từ mấy năm trước đó. Nội dung "Đám ma tôi" thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống - chết ở đời. Điều đặc biệt là thay vì chọn làm người sống để nói về người chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng làm ngược lại, chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”. Cụ thể, trong tập văn xuôi, thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ. “Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa. Bằng giọng văn giễu cợt không chút kiêng kỵ trong “Đám ma tôi”, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay... Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”. *** Viết về cái chết, trước Đinh Hùng (1940) có thi sĩ Hàn Mạc Tử với những vần thơ ngập tràn cô đơn và cõi chết đau thương. Đọc 'Đám ma tôi', đặc biệt đoạn gần cuối, khi người thiếu nữ Hoài yêu say, yêu đắm năm xưa vô tình lạc bước, nàng để ý đến một nấm mồ vì nó điêu tàn nhất nhưng lại bỏ qua dòng chữ khắc mờ trên mộ chí mà chàng Hoài Điệp nằm đó từ năm 17 tuổi, không khỏi liên tưởng đến những câu thơ rất liên quan của Hồ Dzếnh “Nằm im dưới gốc cây tơ/ nhìn xuân trải lụa trên tờ lá non”, và bài thơ tuyệt diệu “Tưởng chuyện ngàn sau”: “Nằm đây, tưởng chuyện ngàn sau/ lung linh nến cháy hai đầu áo quan/ gió lìa cành lá không vang/ tin ta vĩnh quyết trần gian hững hờ!” “… Ta nằm trong ván trông ra/ tủi thân vì thấy người hoa vẫn cười!/ ta toan... giận dỗi xa đời/ chợt hay: khăn liệm quanh người vẫn thơm/ nát thân, không nát nổi hồn/ lẫn trong cái chết vẫn còn cái đau!” 'Đám ma tôi' của tác giả Hoài Điệp (tức thi sĩ Đinh Hùng), do Tân Việt ấn hành lần thứ nhất năm 1940, vừa được Công ty sách Thư Books và NXB Phụ nữ liên kết tái bản tháng 7.2021. - Cảo Thơm - *** Tập văn xuôi Đám ma tôi của tác giả Hoài Điệp (thi sĩ Đinh Hùng), quan niệm về sự sống, cái chết do Tân Việt ấn hành lần thứ nhất năm 1940, vừa được Thư Books và NXB Phụ nữ cho tái ngộ độc giả sau 81 năm. Thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ: " Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa. Cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay trong một hoàng hôn nắng tắt, từng chứng kiến nhiều cuộc sinh ly tử biệt, từng khóc cho những người đi mãi không về nhưng cậu vẫn chưa thể lý giải được ý nghĩa của sự ly trần. Những trăn trở của cậu được thể hiện qua ngòi bút tài hoa của thi sĩ Đinh Hùng. Đám ma tôi ra mắt độc giả năm 1940, khi Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi, cũng có thể được viết sớm hơn khi ông mới 16 - 17 tuổi, thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống-chết ở đời. Thay vì chọn làm người sống để nói về kẻ chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”. Tập văn xuôi tràn ngập chất thơ, định danh một “thi sĩ Đinh Hùng” Trong câu chuyện của thi sĩ Đinh Hùng, nhân vật của ông sao nhiều nước mắt quá, nào là mẹ góa, chị gái, anh trai… ai cũng nức nở, sụt sùi, mắt đỏ hoe. Với cậu con trai, chết là sự sung sướng, giản dị hơn cả việc làm quan hay lấy vợ đẹp. Thân xác bất động trên giường kia được mặc cho áo đẹp, chỉnh tề, hương trầm bay nghi ngút, tiếc là không thể lượn lờ đi chơi với bộ cánh người ta mặc cho. Cậu bất lực nhìn người thân họ hàng chọn cho mình nào quan tài, xe ngựa, nơi chôn cất… Khi mặt trời ló dạng, mọi người đều thức giấc, riêng cậu vẫn thờ ơ với buổi bình minh “vì đã đi hết cuộc đời, sang đến hoàng hôn”. Cậu nằm đó, chứng kiến “tình thương” của người thân và những cuộc “thương vay” của hàng xóm láng giềng, bạn bè của họ và của cậu. Cậu trai mới mấy ngày trước còn chơi bời vui vẻ nay tỏ ra giác ngộ, “có chết đi mới biết rằng người ta yêu nhau!”. Nếu không nằm bất động, e là cậu không có dịp chứng kiến bạn bè mình tập trung lại đông đủ cùng một lúc như thế, chuyện có lẽ chỉ xảy ra khi cậu nảy ra ý định cưới vợ nếu còn sống thêm, nhưng lúc này cậu đã chết rồi, mang theo những món nợ trần gian, tiền bạc chưa kịp trả. Cậu nằm đó, lắng nghe những cuộc đối đáp, than van, Đinh Hùng viết: “người nào cũng tìm được câu để nói, nhưng người nào giỏi thì tìm được thêm nguồn sầu để khóc, và khóc với đủ tự do cá nhân”. Cái bản mặt cậu dưới tờ giấy bản có lẽ là sự hiếu kỳ lớn đối với người đến thăm viếng, ai cũng muốn nhìn mặt người chết lần cuối, dù đã nhẵn mặt, với vẻ kính cẩn lạ kỳ. “Chết đi, bạn ạ, chết đi để được hưởng những thú vị quái lạ”. Một cái xác bất động, tưởng như bỏ đi, sai khiến cùng lúc mọi người làm những việc khác nhau, hoặc nằm nghe tiếng não nùng của con gà tận số nào đó vừa bị cắt tiết. Vì không có việc gì làm, cậu trở nên triết lý: “Thì ra cũng có cái chết nầy và cái chết khác, nếu không sao lại có khi hàng vạn con người chết chôn một lúc mà chẳng lôi theo được một mạng con gà?” Cái “tôi” nằm đó với hai bàn tay trắng nhận lấy tặng phẩm của đời lần cuối, chết đi để lại niềm tiếc thương trong lòng người ở lại trần gian và cả những lời tán thưởng không đáng có, không bao giờ có khi còn sống… Chết với cậu là hết, không lời trối trăng bởi lúc sống đâu có ai nghe tiếng lòng cậu nói, không vướng víu nợ đời như những người đang vây quanh cậu lúc này. Người sống tỏ ra thương hại người chết, người chết thì thương hại người sống một cách thành thực. Cỗ quan tài bắt đầu rời nhà cậu, đi vào một con đường thanh vắng, “hai bên đường có cây xanh. Đằng xa là dáng buồn lả lướt của những cánh đồng lúa non”. Nơi cậu nhập tịch thật tịch mịch, xa tiếng ngựa xe thành thị. Những đôi mắt không hẹn cùng trào lệ, những lời sau cuối được thốt ra trước khi hạ huyệt. “Ở đây ai khóc thương được hãy cứ khóc thương, ai thản nhiên được hãy cứ thản nhiên cho nhiều”, linh hồn cậu bâng quơ nghĩ ngợi khi người phu đào huyệt đắp đất lên cỗ quan tài đang nằm sâu dưới lòng đất. Người sống từ giã người chết lần cuối, một lần trong muôn thuở. Khi họ rời đi, linh hồn cậu rồi sẽ bắt đầu những chuỗi ngày lưu lạc, linh hồn ấy không vội rời đi liền theo gót chân đoàn người đưa tang để lại cái xác đơn chiếc làm gì. Một ngày gần nào đó, linh hồn cậu sẽ “đi đây, đi đó, ra ngoài đất khách, ra ngoài quan san… Rồi mùa đông sau biết đâu nó chẳng trở về nhìn cuộc điêu tàn đời nầy kết liễu?” Tấm linh hồn lưu lạc viễn xứ để lại cái xác dưới hố sâu cô đơn khinh đời nằm vắt từ bình minh này sang đến hoàng hôn khác, để lại dưới huyệt sâu cái thân xác trong lòng đất ẩm thấp, “cái xác khô có rùng mình hay không, nào ai được biết?” Xác thân cậu nằm đó, ngày này qua tháng nọ, “ngày xưa trong cái vô tình của lòng người sống, ngày nay trong cõi lạnh lùng của đất thờ ơ”. Như một lẽ tự nhiên, rồi sẽ có lúc người ta cũng thờ ơ với những dòng chữ đìu hiu khắc mờ trên mộ chí. Tập văn xuôi về sự chết nhưng tràn ngập chất thơ, chất thơ về sau định danh một “thi sĩ Đinh Hùng” lừng danh trên thi đàn muôn thuở. Qua Đám ma tôi, qua giọng văn giễu cợt mọi thứ không chút kiêng kỵ, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay… Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”.   Mời các bạn đón đọc Ðám Ma Tôi của tác giả Hoài Điệp.
Ván Cờ Người
Mỗi quốc gia đều có những trò chơi thể thao đặc trưng của riêng mình. Có thể nói, ở nước Anh là quần vợt, ở Mỹ là bóng chày, ở Nhật Bản là kiếm thuật. Còn ở Trung Quốc thì sao? ở Trung Quốc đó chính là trò mạt chược. HỒ THÍCH *** Trong Ván cờ người nổi lên cuộc sống của ba nhân vật: Hồ Bằng, Trình Văn Hòa và Dương Oánh Oánh. Hồ Bằng là một người chơi bài rất giỏi nhưng chưa bao giờ anh ta chơi lớn. Văn Hòa làm việc tại ngân hàng, vì mải mê chơi mạt chược mà bỏ vợ là Dương Oánh Oánh ở nhà buồn chán. Dương Oánh Oánh đã mời Hồ Bằng đến nhà chơi mạt chược để giải sầu. Kể từ đó, cuộc sống gia đình cũng như con đường công danh của các nhân vật này có sự biến động. Trình Văn Hòa phải vào tù vì tội tham ô, nhận hối lộ dẫn đến sự chấn động ở chốn quan trường. Kết cục của Văn Hòa cũng lý giải rằng, cuộc sống là một vòng tròn luôn luôn biển đổi, mỗi người đều có vận mệnh riêng. Và sự tính toán, xoay sở của Hồ Bằng cũng không thể thoát ra khỏi cái vòng tròn ấy.   1. “Ván cờ người” là tác phẩm xứng đáng có trên tủ sách của nhà bạn. Nó không phải là một bông hoa nở lúc bình minh nhưng lại có một sức sống mãnh liệt. “Bốn người ngồi cùng một bàn chơi”, trong cuộc chơi đỏ đen được mất này, người chơi trước sau cũng phải dừng lại. Nhưng cũng có những người quá ham chơi không biết bao giờ mới hạ màn. - Trương Kháng Kháng (Tác giả nổi tiếng P.Chủ tịch Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc) 2. Chốn quan trường đầy sóng gió; sự lừa gạt, dối trá ở chốn thương trường; sự bằng mặt nhưng không bằng lòng trong chốn tình trường đã được “Ván cờ người” đề cập đến một cách rõ ràng. Qua đó, chúng ta hiểu được thâm ý sâu xa về mối liên hệ giữa con người với việc chơi bài cũng như quan hệ nhân sinh giữa người với người. - A Thành (Tác giả nổi tiếng) 3. Trong“Ván cờ người”, tác giả đã xây dựng nên một cốt truyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Con đường công danh thăng trầm, tình cảm của con người trên bàn mạt chược được phóng đại. Tác phẩm đã vẽ nên một xã hội thu nhỏ với nhiều loại người trở thành một bộ “đánh bạc” đặc sắc. - Vương Cán (Chủ biên Trung Hoa văn học tuyển san - Nhà phê bình văn học TQ) 4. Mạt chược là một trò chơi không phân biệt nam, nữ, già, trẻ. Người chơi thường là những người giàu sang hay quan chức và cũng có không ít nhà lãnh đạo cấp cao. Thông qua trò mạt chược, Vương Thụ Hưng đã xây dựng nên một câu chuyện đầy cơ trí, mưu mô và thủ đoạn. Không những thế, trong “Ván cờ người” còn có những tình cảm bùng cháy mãnh liệt. - Thạch Chung Sơn (Tác giả nổi tiếng) 5. “Ván cờ người” có thể chưa cung cấp đầy đủ cho chúng ta những kiến thức về cách chơi mạt chược nhưng đã miêu tả tỉ mỉ các cuộc tái ngộ của những cao thủ chơi trò này. Điều đó mang lại cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Qua đó, tái hiện một cách khá chân thực về đời sống sinh hoạt của nhân dân và hiện thực xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. - Dương Thiếu Hành (Tác giả nổi tiếng - Phó Chủ tịch Liên văn tỉnh Phúc Kiến)   Vương Thụ Hưng quê ở tỉnh Giang Tô, là nhà văn, hội viên Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có thể loại truyện dài và tiểu thuyết. Cốt truyện trong các tác phẩm của ông rất phong phú, cách kể chuyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Hiện tại, ông đang sống ở Bắc Kinh và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Xuất bản xã. *** PHẦN MỘT: ĐÔNG Hồ Bằng phấn khởi tiếp lời Mạnh Xuyên Thanh, anh nói quan hệ giữa người với người ở Trung Quốc giống như chơi mạt chược, quá nhiều pha người nhìn người, người trông người, vợ chồng với nhau cũng không ngoại lệ. Mạnh Xuyên Thanh phá lên cười, hỏi Hồ Bằng: “Có phải anh bị vợ quản quá chặt?”. Hồ Bằng bảo không phải, mà là đáng thương cho một số người suốt ngày bị vợ nhìn ngó, những người này không còn được tự do, nên đi giày vò người khác, vậy là có quan bất nhân. I. XÚC XẮC 1 Trong cơ quan, mọi người ít nhìn nhau bằng con mắt xung khắc, mâu thuẫn, nhưng không ai ngờ có nhiều người phản đối ông Mâu, Chánh văn phòng như vậy. Là cấp dưới của ông Mâu, Hồ Bằng cũng không còn nói mập mờ như trước, anh thẳng thắn cảnh cáo ông sẽ gặp rắc rối với cấp trên: đừng làm mất lòng họ, họ đều là bạn mạt chược với nhau. Ông chỉ một mình, họ cả bọn. Công tác thì không nghiêm túc, chơi mạt chược lại rất khí thế. Ông Mâu lòng không phục, miệng cũng muốn nói vài câu, nhưng cố nhịn, chỉ lắc đầu. Cán bộ như ông Mâu chỉ dựa vào thực lực để leo lên, có thế mạnh tự điều trị vết thương, tự nâng cao năng lực. Đã được một bài học, ông cất cái máy kiểm tra thẻ ra vào để ở phòng thường trực, không đuổi đám đang vui vẻ chơi mạt chược trong phòng lưu trữ, đám người rỗi việc bình luận chuyện bài bạc, cũng không dám lén nói xấu họ đi muộn về sớm, bỏ bê công việc. Không những vậy, ông còn đón ý những người chơi mạt chược, cố gắng để họ biết thật ra ông cũng thích mạt chược, chẳng qua cách thích không giống nhau mà thôi. Nhưng trước cấp dưới Hồ Bằng, ông Mâu vẫn làm ra vẻ cứng rắn, quyết không thỏa hiệp. “Tôi đâu vì trượt có mỗi một lần bình bầu dân chủ mà phải từ bỏ nguyên tắc, nhập hội với họ. Tôi chỉ ngồi bàn về đạo lý, bàn về mạt chược mà không đánh mạt chược”. Bình thường ông Mâu chỉ đọc những sách linh tinh, có hiểu biết về mạt chược. Ông ra sức cổ vũ cho văn hoá mạt chược, để mọi người hiểu mạt chược là tập đại thành của nhiều trò chơi thời cổ đại, có đôi có cặp, là sản phẩm kết hợp giữa xúc xắc, bài ngà Tuyên Hòa và bài giấy mã điêu, là văn hóa truyền thống, không phải là thứ rác rưởi, cặn bã. Sự thay đổi biểu hiện từ nhận thức tư tưởng đến hành động này của ông khiến ông trở nên thân cận với một số người, họ đều nói ông Mâu đã thay đổi. Có người còn tỏ ra nịnh bợ và tán dương ông, bảo hiểu biết về mạt chược của ông thật uyên thâm, có thể về Đài truyền hình trung ương để mở diễn đàn mạt chược, chắc chắn sẽ có rất nhiều người xem. Nên nhớ, ở Trung Quốc có biết bao nhiêu người chơi mạt chược. Cậu Cư trong đám lái xe được ông Mâu để tâm chỉ bảo, đã kiếm được tiền trên bàn mạt chược một cách dễ dàng. Tối hôm ấy cậu Cư thua đến đồng tiền cuối cùng, trong lúc nôn nóng đã văng tục, hỏi những người cùng chơi ai đã phát minh ra mạt chược? Không ai biết. Cư lên giọng khinh miệt: “Là do Trần Ngư Môn, người Dũng Thượng, thời Hàm Phong, nhà Thanh, phát minh”. Tiếp theo, cậu ta như tiêm nhiễm tiên khí của Trần Ngư Môn, bắt được quân bài đẹp, rất đắc ý, nói: “Dũng Thượng ở đâu, có ai biết không?” - Không ai biết. Cậu đẩy quân bài ù ra giữa bàn: “Dũng Thượng là Ninh Ba bây giờ. Đánh mạt chược mà không biết tổ tông mạt chược, thật kém tài”. Người ngồi quanh bàn cùng chơi ai cũng tức. Cậu ta ù không lớn, thế mà lúc tính sổ mặt ai cũng tái xanh tái xám. Từ đấy về sau Cư chơi bài hễ nhắc đến Trần Ngư Môn lại ù mấy ván lớn, lần nào thử cũng đúng như vậy. Trong hội chơi có người học cậu ta nhưng không linh nghiệm. Ông Mâu chỉ nói một câu làm mọi người nhận ra: “Mỗi người một khác, không ai giống ai”. Câu nói rất có lý. Tô Sách của phòng tài vụ nói, mỗi lần cô ta bắt bài đều lẩm bẩm: “Mã điêu”, vậy là bắt được bài đẹp. Ông Mâu cười thầm: “Mã điêu, mã điêu là bài mã điêu, hình thù của nó dài dài. Đấy là “thái bổ” của cô”. Mọi người cười ồ, vậy là đặt cho Tô Sách biệt hiệu “thái bổ”, cô ta không hiểu ra sao, nhờ ông Mâu giải thích “thái bổ” là gì? Ông Mâu trả lời không rõ ràng: “Thái bổ là lấy dài bù ngắn, gia đình hài hòa”. Lâu dần, mọi người không còn hứng thú với những điển cố mạt chược mà ông Mâu cứ nói đi nói lại, là bởi ông nói lý thuyết, một khi nói sang thực tế thì coi như không ổn. Mọi người không muốn biết những điều thường thức về mạt chược mà ông Mâu nói ra, ăn trứng không cần biết trứng của con gà nào, đánh mạt chược làm thế nào để ù mới là quan trọng. Lại có người chế giễu ông Mâu không biết đánh mạt chược, không phải cùng hội, chỉ khoe khoang, khoác lác mình hiểu biết hơn người. Mọi người lại nghĩ đến Hồ Bằng, một người không đánh mạt chược nhưng tinh thông mạt chược. Lâu lắm anh ta không đến phòng lưu trữ tổng hợp. Nói một cách chính xác, từ ngày ông Mâu quản lý phòng lưu trữ Hồ Bằng không đến đấy nữa. Mọi người rất thích nói chuyện mạt chược với Hồ Bằng, có người nói anh ta là “vua mạt chược”. Tại sao lại bảo Hồ Bằng là “vua mạt chược”? Anh ta đánh được nhiều tiền không? Không. Hồ Bằng tinh thông mạt chược đến độ mê mẩn, ngẩn ngơ. Chỉ cần có người thuật lại ván bài cho Hồ Bằng nghe, anh nghe đến vòng hai là biết ngay từng nước đi của mỗi người, biết ai nắm trong tay quân nào mà không chịu ra, đang cần quân nào, định thắng thế nào. Lúc đầu mọi người cho rằng anh nói mò, về sau đúng là phải phục. Cái hôm đám cưới Tô Sách, sau cuộc vui cỗ bàn, mọi người kéo nhau đi hát hoặc chơi mạt chược. Những người đi hát nhanh chóng kết thành bè, vui vẻ kéo nhau đi; nhưng người đánh mạt chược vẫn đứng lố nhố ở cửa khách sạn. Đầu tiên những người chơi bài xếp thành hai bàn, sau đấy tìm địa điểm, tìm một nơi rộng rãi để có thể ồn ào một chút. Chị Hứa phòng nhân sự đề nghị đến nhà chị, không có nơi nào tốt hơn ở đấy, chồng chị là Tổng Giám đốc một doanh nghiệp, ở một căn biệt thự có lối đi riêng biệt. Hai bàn mạt chược được xếp đặt trong phòng khách tầng một và tầng hai nhà chị Hứa. Rất nhiều người, có người không kịp ngồi vào bàn, thừa ra. Hồ Bằng và Đổng, hai người này tỏ ra không mặn mà. Hồ Bằng bảo anh không đánh mạt chược bao giờ, Đổng cũng bảo không giỏi, thua một hào chóp mũi cũng đổ mồ hôi. Cả bọn đâu có khách khí, khiêm nhường với hai người, lập tức họ vào cuộc. Hồ Bằng và Đổng xem họ đánh được hai ván rồi đi sang phòng khách kế bên xem ti vi. Đổng nhìn Hồ Bằng, hình như cũng đang không muốn xem phim truyền hình nhạt nhẽo, nhưng anh ta lại tỏ vẻ xem rất chăm chú. Hồ Bằng uể oải ngả người ra tựa sofa, thỉnh thoảng lại giải thích với Đổng về cuộc chiến mạt chược ngoài kia. Hồ Bằng giải thích làm ảnh hưởng Đổng đang xem ti vi, anh ta hơi bực mình, đứng dậy ra ngoài xem có đúng như Hồ Bằng nói hay không, nếu không đúng sẽ bảo anh ta im miệng. Đổng đi vòng quanh bàn mạt chược, đúng như lời Hồ Bằng, ông Lý, Giám đốc sở đang thắng, trước mặt ông ta giấy bạc một trăm chồng cao. Quay lại, Đổng nói: “Bằng, tai cậu thính quá đấy, ngoài kia ai được ai thua cậu đều biết”. Hồ Bằng nói: “Đấy là tớ nghe bài, giống như người mù đánh cờ”. Đổng không tin, cho rằng Hồ Bằng uống quá chén nên ba hoa vậy thôi. Truyền hình xem cũng bằng thừa, dù sao thì cũng không còn gì vui, Đổng rủ Hồ Bằng ra ngoài kia xem họ chơi mạt chược, để xem anh ta có thể nói mò nữa không. Hồ Bằng nói: “Tớ sẽ bảo trước với cậu ai thắng, hoặc ai xuất xung, nói không đúng coi như tớ thua, họ kết thúc ván bài mà tớ chưa nói cũng coi như thua”. Đổng nói, được, ra giá cược đi nào, mỗi ván năm chục đồng nhé. Hồ Bằng lắc đầu, xưa nay tớ không chơi cược tiền, ai thua phải uống một cốc vại nước. Đổng nhìn bình nước khoáng để ở góc tường, còn già nửa bình, dù sao thì không uống một mình, anh ta vỗ ngực: “Chúng ta cược, dù sao thì uống nước tớ không sợ cậu, chưa biết ai thắng ai”. Vừa nói xong, Đổng nghe ngoài kia báo ù, anh ta ra thăm dò, kết quả là anh ta phải uống liên tục và phải chạy vào nhà vệ sinh. Những người đánh bài thấy anh ta cứ chạy đi chạy lại thật kì lạ: tay Đổng này bình thường vốn là con người đứng đắn, trong chiếu rượu cũng không uống nhiều, tại sao hôm nay lại lạ thường như vậy? Chẳng mấy chốc, Đổng không uống nổi nữa, nếu còn tiếp tục đánh cuộc với Hồ Bằng thì bụng vỡ ra mất. Anh ra bàn mạt chược tố khổ: “Tôi thua thê thảm, uống hết nửa bình nước khoáng”. Những người chơi bài muốn biết anh đánh cuộc gì, nghe anh ta nói đánh cuộc ai được thua trên chiếu bạc, không ai có thể hình dung nổi. Có người vừa ù, bảo Đổng gọi Hồ Bằng ra, hỏi anh ta xem ai ù. Hồ Bằng nói ngay: “Ra tam tố, song hưởng, xuất lưỡng gia xung”. Ai cũng thấy kì lạ, hai người cùng ù? Người ù nhìn những người cùng chơi, nghĩ bụng chắc chắn Hồ Bằng sai rồi. Một lúc sau có người cười: “Đúng vậy, tôi cũng ù, tam tố độc điêu”. Hồ Bằng nói: “Tôi không nói khoác, không ai đẩy được tàu hỏa. Tôi ngồi trong kia nghe mọi người đánh bài, biết các người ở đây đánh quân nào. Không tin, tôi nói lại cho mọi người nghe”. Hồ Bằng nói lại ai đã đánh quân nào, anh còn nói với mọi người quân bài ấy cầm trên tay bao lâu, buộc phải đánh là bởi phải nghe bài, nghe vạn tự bài thanh nhất sắc. “Trời đất ơi! Giỏi như vậy mà sao không thấy anh đánh?”. Có người hỏi Hồ Bằng. Mời các bạn đón đọc Ván Cờ Người của tác giả Vương Thụ Hưng.
Con Đường Sấm Sét
Tiểu thuyết Con đường sấm sét đã vẽ nên một bức tranh rất hiện thực về đời sống ở Liên bang Nam Phi. Trong cuốn sách này không nêu những sự việc cực kỳ quan trọng, chỉ kể lại một cuộc tình duyên tha thiết giữa một thanh niên da đen và thiếu nữ da trắng, vượt ra ngoài đạo luật phân biệt màu da của bọn thực dân. Bọn tư bản da trắng ở Liên bang Nam Phi còn tìm đủ mọi cách để ngăn cấm người bản xứ học tập. Stinvơn, một làng nhỏ tác giả nêu lên trong truyện, không có lấy một người dân nào biết chữ, kể cả lão trùm trưởng kiêm mục sư. Vấn đề học văn hóa của người da đen là một trong những vấn đề chính nêu ra trong truyện. Tác giả đã dựng lên hai nhân vật điển hình về người giáo viên bản xứ. Lani và Mạckơ. Lani được gửi lên tỉnh Kếp học. Anh đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm. Giàu nghị lực và tha thiết yêu dân tộc, yêu hòa bình, Lani cảm thông một cách sâu sắc nỗi thống khổ của dân tộc mình. Nhận thấy con đường phải đi, anh đã từ chối dạy ở một trường trung học tỉnh, một việc rất ít khi dành cho người da đen. Anh trở về làng, tổ chức một trường học. Anh tin rằng những tư tưởng mới chiếu rọi vào đám dân nghèo tăm tối sẽ đem lại cho họ sức mạnh và nghị lực quật khởi. Hoạt động của Lani đã làm cho bọn tư bản địa phương chú ý. Chúng hiểu rằng hoạt động của anh là nhằm chống lại chính quyền của chúng. Bọn thống trị da trắng coi việc truyền bá văn học mà cả dân tộc anh khát vọng là một hiện tượng thù địch. Trong cuộc đấu tranh này Lani đã gặp một địch thủ lợi hại là Gớt Viliê. Hoạt động của Lani chưa đủ tạo nên một đường lối đấu tranh với bọn thống trị, nhưng ánh sáng giáo dục của anh đã thức tỉnh tinh thần độc lập, bất khuất của đồng bào anh, tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh sau này.Trong mối tình giữa anh và thiếu nữ da trắng Xari, Lani đã biểu lộ nhân cách khảng khái, cao thượng của mình. Lòng dũng cảm và tình yêu chân thành của Xari đã nói lên rằng bọn thống trị không thể đầu độc tình yêu giữa con người bằng chủ nghĩa phân biệt màu da. Mối tình giữa Lani và Xari chính là một biểu hiện mãnh liệt chống đối những thành kiến dân tộc mà luật lệ của bọn thực dân ở Nam Phi đã tạo nên.Cuộc đấu tranh của Lani và Xari với Gớt Viliê chính là cuộc đấu tranh cho quyền sống của con người. *** Độc giả Liên Xô, quen thuộc với tiểu thuyết CON ĐƯỜNG SẤM SÉT của nhà văn Nam Phi Peter Abrahams thường tự đặt cho mình câu hỏi: "Phải chăng tất cả những sự kiện tác giả nêu lên trong cuốn tiểu thuyết này đều xảy ra vào thế kỷ thứ hai mươi?" Câu hỏi trên đã được trả lời một cách chính xác. Đúng! Tất cả những vấn đề viết trong cuốn sách này đều là những sự việc xảy ra trong thời đại chúng ta, ở Liên bang Nam Phi, thành lập năm 1911, và còn được mệnh danh là "Khối hữu nghị các dân tộc trong phe Liên hiệp Anh". Những người da đen sống lâu đời trên mảnh đất này là nạn nhân của bọn địa chủ da trắng. Họ bị chiếm đoạt hầu hết ruộng đất, chỉ còn một số ruộng hoang khô cằn, nên sống một cách cùng cực. Phần lớn những thanh niên da đen khỏe mạnh đều bị bắt đưa vào các đồn điền của các "ngài" da trắng, đặt dưới quyền cai quản của bọn cai ký tàn ác vô nhân đạo. Họ làm việc ngày đêm cực khổ, nhưng chỉ được lĩnh vài đồng xu nhỏ. Họ phải chịu mọi thứ bất công về lương bổng và chế độ làm việc. Họ không được tham gia vào các nghiệp đoàn của người da trắng... Miền Nam châu Phi bị thực dân xâm chiếm vào giữa thế kỷ thứ mười bảy. Ngay khi đặt chân lên đất này, bọn thực dân bắt đầu ngay những cuộc chinh phục bằng máu để chiếm đoạt những vùng nhiều quặng mỏ, ruộng đất phì nhiêu. Bộ máy cai trị hiểm độc của bọn thực dân đã nặn ra một hệ thống luật lệ hà khắc đối với người da đen: những đạo luật nhằm tước đoạt tất cả các quyền công dân, trong đó có đạo luật cấm người da đen không được làm công tác kỹ thuật, đạo luật phân biệt màu da... Những đạo luật vô nhân đạo ấy dặt ra để đàn áp phong trào công nhân và những người lao động Nam Phi, giam hãm họ trong dốt nát tối tăm và tù ngục, không cho họ sử dụng một cách đứng đắn quyền hạn của con người. Mặc dù ách thống trị của bọn thực dân tàn bạo như vậy, các dân tộc quật khởi Nam Phi vẫn không một phút nào ngừng đấu tranh cho mục đích giải phóng dân tộc mình. Tiểu thuyết CON ĐƯỜNG SẤM SÉT đã vẽ nên một bức tranh rất hiện thực về đời sống ở Liên bang Nam Phi. Trong cuốn sách này không nêu những sự việc cực kỳ quan trọng, chỉ kể lại một cuộc tình duyên tha thiết giữa một thanh niên da đen và thiếu nữ da trắng, vượt ra ngoài đạo luật phân biệt màu da của bọn thực dân. Bọn tư bản da trắng ở Liên bang Nam Phi còn tìm đủ mọi cách để ngăn cấm người bản xứ học tập. Stinvơn, một làng nhỏ tác giả nêu lên trong truyện, không có lấy một người dân nào biết chữ, kể cả lão trùm trưởng kiêm mục sư. Vấn đề học văn hóa của người da đen là một trong những vấn đề chính nêu ra trong truyện. Tác giả đã dựng lên hai nhân vật điển hình về người giáo viên bản xứ. Lani và Mạckơ. Lani được gửi lên tỉnh Kếp học. Anh đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm. Giàu nghị lực và tha thiết yêu dân tộc, yêu hòa bình, Lani cảm thông một cách sâu sắc nỗi thống khổ của dân tộc mình. Nhận thấy con đường phải đi, anh đã từ chối dạy ở một trường trung học tỉnh, một việc rất ít khi dành cho người da đen. Anh trở về làng, tổ chức một trường học. Anh tin rằng những tư tưởng mới chiếu rọi vào đám dân nghèo tăm tối sẽ đem lại cho họ sức mạnh và nghị lực quật khởi. Hoạt động của Lani đã làm cho bọn tư bản địa phương chú ý. Chúng hiểu rằng hoạt động của anh là nhằm chống lại chính quyền của chúng. Bọn thống trị da trắng coi việc truyền bá văn học mà cả dân tộc anh khát vọng là một hiện tượng thù địch. Trong cuộc đấu tranh này Lani đã gặp một địch thủ lợi hại là Gớt Viliê. Hoạt động của Lani chưa đủ tạo nên một đường lối đấu tranh với bọn thống trị, nhưng ánh sáng giáo dục của anh đã thức tỉnh tinh thần độc lập, bất khuất của đồng bào anh, tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh sau này. Trong mối tình giữa anh và thiếu nữ da trắng Xari, Lani đã biểu lộ nhân cách khảng khái, cao thượng của mình. Lòng dũng cảm và tình yêu chân thành của Xari đã nói lên rằng bọn thống trị không thể đầu độc tình yêu giữa con người bằng chủ nghĩa phân biệt màu da. Mối tình giữa Lani và Xari chính là một biểu hiện mãnh liệt chống đối những thành kiến dân tộc mà luật lệ của bọn thực dân ở Nam Phi đã tạo nên. Cuộc đấu tranh của Lani và Xari với Gớt Viliê chính là cuộc đấu tranh cho quyền sống của con người. E. V. KÓCNILÔVA Phụ chú: Những chú thích trong cuốn tiểu thuyết này, trừ những chỗ có ghi riêng là của người dịch (N.D.), còn đều sử dụng tài liệu chú thích của Nhà xuất bản ngoại văn Matxkơva. Nó sẽ không cầm quyền, không bị hạn chế, nó tự do: con người là như thế đấy. Nó sẽ bình đẳng, không giai cấp, không bộ lạc, không quốc gia. Sẽ thoát khỏi sự sợ hãi, sự thờ phụng, đẳng cấp, sẽ thành vị quân vương. Tự ngự trị lấy mình, chính trực, cao nhã, sáng suốt, con người là như thế đấy. SELÂY Hình thức giải trí mà tôi ham thích nhất là thú nói chuyện đầy nghĩa lý. Nhưng suốt bốn năm ròng, trong khi sống với "bọn chủ trương cai trị theo màu da" ở Nam Phi, tôi đã bị mất cái thú ấy vì tôi cứ luôn luôn gặp phải những lối đối thoại na ná như thế này: Bất kỳ một sinh viên(1) Nam Phi nào tốt nghiệp đại học: Nếu ông đã sống ở xứ này cũng lâu như tôi thì ông đã biết rằng người ta không thể dạy cho thổ dân ở đây biết đọc hay biết viết gì hết. Tôi: Thế anh đã có bao giờ đến thăm trường đại học Phoóc Herơ của những người truyền giáo chưa? Sinh viên Nam Phi tốt nghiệp đại học: Thôi, ông đừng nói gì với tôi về những người truyền giáo nữa. Tôi: Ấy thế mà tôi đã đến đấy. Tôi thấy có những sinh viên Bantu chính cống từ vùng Xítkai đến đã giải được những phương trình vi phân. Sinh viên Nam Phi tốt nghiệp đại học: Thế nếu một người da đen hiếp em gái ông thì ông sẽ làm gì? Giáo sư LANXƠLÔP HỐCBƠN, F.R.S. trong bài tựa cuốn "Bán đẳng cấp" của Xơđơric Đôvơ. (*) Trích dịch bài tựa Con đường sấm sét,nguyên bản Anh văn. Nhà xuất bản ngoại văn Matxkơva, 1959 (in lần thứ tư). Mời các bạn đón đọc Con Đường Sấm Sét của tác giả Peter Abrahams.