Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hang Động

Lấy cảm hứng từ huyền thoại hang động trong đối thoại triết học của triết gia thời cổ đại Platon, José Saramago đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Hang động, để phê phán xã hội tiêu thụ nói riêng và chủ nghĩa tự do mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại, thông qua hình ảnh hủng khiếp của Trung tâm thương mại khổng lồ đang từng ngày từng giờ bành trướng về đất đai, về quyền uy, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần, “một thành phố trong một thành phố, nhưng lại to hơn chính cái thành phố kia”. Cuốn tiểu thuyết phản ánh bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp - thủ công nghiệp sang xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ nhanh chóng trên đất nước Bồ Đào Nha, qua đó chỉ rõ mỗi con người trong quá trình này đang bị đặt vào thế tiến thoái lưỡng nan: khi mà lối sống thực dụng, thói quen tiêu thụ, triết lý thị trường của xã hội tư bản ngày càng phát triển, sinh ra những mối quan hệ mới, những thế giới quan mới, buộc người ta phải quen với một trạng thái nô lệ kiểu mới, “ai không điều chỉnh được sẽ không dùng được”, và cũng như trong tác phẩm của Platon, một số người thoát ra khỏi hang động này, kịp thời nhận ra có thể có một cách sống khác. Câu chuyện xoay quanh số phận của một gia đình ba đời làm nghề gốm ở một vùng quê nghèo và đã bị Trung tâm đẩy vào bước đường cùng. Là nhân viên của Trung tâm, Marcal thì làm việc quần quật, đến nỗi vợ của anh, Maarta “chỉ được tận hưởng sự có mặt của chồng ở nhà và ở trên giường vẻn vẹn có sáu đêm và ba ngày mỗi tháng”. Trước bước phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật, công nghiệp, cha con ông Cipriano Algor là những người thợ gốm cuối cùng cũng đành bỏ nghề, một nghề xưa nay vẫn có thể sản xuất ra của cải nay chỉ còn là kỷ niệm, nhà xưởng biến thành nghĩa trang, sản phẩm thành di sản khảo cổ cho hàng ngàn năm sau. Họ chuyển vào sống ở Trung tâm, vốn là ước mơ của bao người, trong gần ba tuần, mà chẳng khác gì bị tù, để rồi người cha phải thốt lên: “tại sao mình lại có thể để bị giam kín trong suốt ba tuần mà không nhìn thấy mặt trời và những ngôi sao…”. Cuộc sống tự do đã thôi thúc họ từ bỏ tất cả, đi tìm một cuộc sống mới không chỉ cho họ mà cho cả con cái của họ nữa. Câu chuyện có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và cũng hết sức cảm động về tình cảm vợ chồng, cha con, về tình yêu giữa hai người goá bụa nảy nở trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực. Một cốt truyện giản dị, sâu sắc được kể liền mạch như trong một cuộc độc thoại nội tâm dài. Phong cách viết tiểu thuyết của José Saramago hết sức độc đào. Ông thường viết những câu văn rất dài, dùng dấu chấm, dấu phẩy mới nhìn tưởng là sai ngữ pháp, nhưng xem kỹ lại thấy hợp lý, mọi đối thoại đều liền mạch nối dài như mãi không dứt. Xen vào mạch truyện, ông thường đưa ra những nhận xét về mọi bình diện của cuộc sống, tuy đôi khi có những ý kiến rất khó hiểu những độc giả luôn tiếp nhận một cách thích thú. *** José de Sousa Saramago (16/11/1922 - 18/6/2010) là nhà văn, nhà thơ Bồ Đào Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1998. José Saramago sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở một làng nhỏ cách thủ đô Lisboa 100 km. Bố là lính pháo binh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, quyết định bỏ công việc đồng áng lên sống ở Lisboa. Những năm tiểu học, cậu là một học sinh giỏi: hoàn thành lớp ba và lớp bốn chỉ trong một năm. Khi lớn lên, vì không có khả năng tài chính Saramago phải vào học một trường kĩ thuật để trở thành thợ cơ khí. Học xong hai năm, Saramago làm việc cho một tiệm sửa chữa xe hơi, vào buổi tối, ông thường tới một thư viện công cộng ở Lisboa để đọc sách tự học thêm. Năm 1944, José Saramago cưới vợ, chuyển sang làm việc ở cơ quan phúc lợi xã hội. Năm 1947, ông viết xong cuốn tiểu thuyết đầu tiên Viúva (Góa phụ) nhưng do yêu cầu nhà xuất bản đã đổi thành Terra do Pecado (Mảnh đất tội lỗi). Sau đó Saramago còn bắt tay viết thêm mấy tiểu thuyết, nhưng rồi ông hiểu ra rằng mình chưa có gì để nói với thế giới nên đã lặng lẽ biến khỏi văn đàn suốt 19 năm không ai để ý. Vì các lý do chính trị, năm 1949 Saramago bị thất nghiệp nhưng nhờ lòng hảo tâm của một thầy giáo cũ ở trường kĩ thuật, ông tìm được việc làm ở công ty hợp kim. Sau đó ông chuyển sang làm việc với nhà xuất bản Estudios Cor. Đến năm 1966, ông xuất bản Os Poemas Possíveis (Chùm thơ có thể) đánh dấu sự trở lại của ông với văn chương. Năm 1969 ông vào Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha. Năm 1970, ông xuất bản tập thơ Provavelmente Alegria (Có thể đây là niềm vui). Sau khi li dị năm 1970, ông có mối quan hệ với nhà văn Isabel Da Nóbrega. Năm 1971, ông rời nhà xuất bản, làm việc trong hai năm cho tờ báo buổi tối Diario de Lisboa. Năm 1975, Saramago xuất bản tập thơ O Ano de 1993 (Năm 1993) và tiểu thuyết Manual de Pintura e Caligrafia (Tài liệu về hội họa và thư pháp, 1978); tiếp đó ông liên tiếp cho ra đời các tập truyện và tiểu thuyết như Objecto Quase (Mục tiêu Quase, 1978), Đêm tối (1979), Que farei com este livro? (Tôi có thể làm gì với quyển sách này?, 1980)... Năm 1988, ông kết hôn với nhà báo Pilar Del Rio. Năm 1993, ông bắt đầu viết hồi ký gồm năm tập. Năm 1995, ông được trao giải Camoes. Năm 1998 ông được trao giải Nobel Văn học, cho đến nay là người Bồ Đào Nha duy nhất được nhận giải thưởng này. Năm 2000 Saramago hoàn thành tiểu thuyết A Caverna (Hang động), là cuốn cuối cùng trong bộ ba tiểu thuyết - 2 cuốn đã xuất bản là Ensaio sobre a Cegueira (Mù lòa, 1995) và Todos os nomes (Tất cả các tên gọi, 1997). Sáng tác của Saramago đa dạng và đầy mâu thuẫn. Tiểu thuyết Phúc âm theo Jesus Christ (1991) bị nhà thờ Cơ đốc giáo buộc tội "coi thường sự thật lịch sử và xuyên tạc các nhân vật chính trong Tân ước" nhưng lại được tái bản hơn hai chục lần trong nước và được dịch ra 25 thứ tiếng nước ngoài. Một trí thức tự học, gắn bó với văn chương từ trẻ nhưng phải đến sáu chục tuổi mới được thừa nhận, Saramago thường cay đắng nói: "Lên sao Hỏa còn dễ hơn là gọi được cửa trái tim của những kẻ cùng thời". Tuy vậy, giải Nobel có vẻ đã phủ nhận suy nghĩ bi quan này. Một số tác phẩm của được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Mọi Cái Tên Mù Lòa Hang Động ... *** Đồ đạc của bố ở đây, Marta nói, không nhiều lắm, chứa đủ trong chiếc vali nhỏ nhất, hình như bố đã linh cảm thấy mình chỉ ở đây có ba tuần thôi phải không, Đến một lúc nào đó trong cuộc đời người ta chỉ còn vác trên vai cái thân mình nữa thôi, Cipriano Algor nói, Câu nói hay đấy, Vâng, thưa bố, nhưng con chỉ muốn bố nói xem sẽ sống bằng gì nào, Nhìn ngắm những bông hoa loa kèn, chúng đẹp giản dị, chẳng thêu dệt rắc rối. Cũng là một câu nói đẹp, chính vì thế thứ hoa đó mãi mãi cũng chỉ là hoa loa kèn, Con là một kẻ hoài nghi điên cuồng, một kẻ vô sỉ khó chịu, Bố ơi, con xin bố, con đang nói chuyện một cách nghiêm túc, Bố xin lỗi con, Con hiểu chuyện vừa rồi là một cú sốc lớn đối với bố, cả đối với con nữa, dù con không xuống dưới đó, con hiểu rằng những người đàn ông và đàn bà kia không chỉ đơn giản là những người đã chết, còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều, Thôi con đừng nói nữa, bởi vì họ không chỉ đơn giản là những người đã chết mà còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều nên bố không muốn tiếp tục sinh sống ở đây nữa, Thế còn chúng con, còn con thì sao, Marta hỏi, Các con hãy tự quyết định lấy cuộc đời mình, bố đã quyết định đời của bố rồi, bố sẽ không sống nốt những ngày còn lại của mình trong cảnh bị trói chặt vào ghế đá và nhìn vào bức tường. Thế bố sẽ sống ra sao, Bố có tiền mà người ta thanh toán cho những hình người bằng gốm, đủ sống một hoặc hai tháng, sau đó ta sẽ tính tiếp, Con không nói đến chuyện tiền nong, bằng cách này hay cách khác thì bố cũng không thiếu tiền cho những nhu cầu về ăn, mặc, điều con muốn nói là bố sẽ phải sống một mình, Bố đã có con Achado, rồi hai con thỉnh thoảng lại về thăm bố nữa, Bố ơi, Gì cơ, Thế còn Isaura, Isaura thì có liên quan gì đến chuyện này, Bố đã nói với con là tình hình giữa hai người đã có thay đổi, nhưng lại chẳng giải thích rõ nó thay đổi như thế nào và tại sao bằng, Và đúng vậy đấy, Nếu như vậy, Như vậy thì sao nào, Hai người có thể sống chung với nhau, ý con muốn nói như vậy. Cipriano Algor không trả lời. Ông xách vali lên, Bố đi đây, ông nói. Cô con gái ôm chặt lấy bố, Chúng con sẽ về thăm bố trong ngày nghỉ đầu tiên của Marçal, trong tiếng từ giờ đến lúc đó bố phải luôn thông báo tin tức cho con nhé, khi về đến nơi, bố nhớ gọi điện ngay cho con nói xem căn nhà ra sao, và cả tình hình con Achado nữa, đừng quên con Achado đấy, bố nhé. Với một chân ở ngoài cửa, Cipriano Algor còn nói, Con hãy ôm hôn Marçal thay cho bố nhé, Thì bố đã ôm hôn anh ấy và đã chia tay anh ấy rồi mà, Ừ, nhưng bố cứ nhờ con thêm một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Hang Động của tác giả José Saramago.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giữa Trong Xanh - Nguyễn Thành Long
Nguyễn Thành Long sinh tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, nguyên quán ở Quy Nhơn, Bình Định, con một gia đình viên chức nhỏ. Năm 18 tuổi ông chuyển ra học ở Hà Nội và có viết cho báo Thanh Nghị (1943). Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Thành Long tham gia hoạt động văn nghệ trong những năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954) ở Nam Trung Bộ và bắt đầu viết văn vào thời gian này. Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết về truyện ngắn và ký. Nét đặc sắc trong truyện ngắn của ông là luôn tạo được hình tượng đẹp, ngôn ngữ giàu chất thơ, trong trẻo, nhẹ nhàng. Nguyễn Thành Long đã cho xuất bản nhiều truyện ngắn, trong đó nổi bật là các tập: Bác cơm Cụ Hồ (1952), Gió bấc gió nồm (1956), Hướng điền (1957), Chuyện nhà chuyện xưởng (1962), Trong gió bão (1963), Gang ra (1964), Những tiếng vỗ cánh (1967), Giữa trong xanh (1972), Nửa đêm về sáng (1978), Lý Sơn mùa tỏi (1980), Sáng mai nao, xế chiều nào (1984),... Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa viết năm 1970, sau chuyến đi thực tế Lào Cai của nhà văn, được in trong tập Giữa trong xanh (1972). Đây là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Nguyễn Thành Long. Qua câu chuyện về những nhân vật không tên, tác giả muốn giới thiệu với người đọc về một vùng đất lặng lẽ mà thơ mộng, ở đó có những con người được lao động thầm lặng, say mê hiến dâng tuổi trẻ và tình yêu của mình cho quê hương, đất nước. Ngoài sáng tác, ông còn là dịch giả hai tác phẩm của Antoine de Saint-Exupéry: Em bé con nhà trời và Quê xứ con người (nguyên tác: Terre des hommes). *** LÂU lắm họ mới lại gặp nhau. Và cùng đi công tác. Chuyến trước ở một vùng trung du. Phùng và Hân quen nhau, có dịp trao qua đổi lại một số ý kiến về những công việc hiện nay, hai người đánh giá thầm nhau kha khá, nhất là ở sự thành thật. Điểm thành thật ấy, mọi người xung quanh không biết, họ chỉ biết hai người có cái gì hợp nhau đấy, và bắt đầu nửa đùa nửa thật cặp ghé đôi bên, như thói thường vẫn thế, khi hai người nữ và nam đều còn đang tự do, cho dù Hân chỉ mới quá hai mươi và Phùng thì đã bốn mươi rồi. Chắc chắn là Phùng và Hân đều có nghe nhưng bỏ qua, cũng chẳng bỏ qua đâu, thật ra cũng có dừng lại ngẫm nghĩ một chút, nhưng việc ấy không ảnh hưởng gì đến cái tình bạn xa xa — xa đến nỗi tưởng không gọi được là tình bạn, nhưng lại có cái vốn quí trọng mà tình bạn hời hợt thường không có. Trong đám đông nhà báo ăn nói rất bạo dạn, Hân nhìn thấy Phùng thì mừng quá. Cô bước tới, xiết tay anh và thấp giọng hỏi dịu dàng: — Anh cũng đi Điện Biên lần đầu ạ? — Lần thứ ba đấy cô ạ — Anh trả lời tươi cười và bất giác nói luôn — lần trước năm nhăm, nhân dịp lập khu tự trị Tây Bắc. — Anh là chiến sĩ Điện Biên ư? Không hiểu sao cô gái lại kêu lên thế. Phùng “vâng” một cách sẽ sàng, và đỏ mặt. Chừng như tiếng “vâng” ấy vẫn còn ồn áo quá, anh xóa bớt đi bằng một câu giảng giải xuề xòa: — Tôi cũng là nhà báo như bây giờ thôi mà. Nói xong, lại như thấy mình nhỡ miệng mà hở hang thêm. Anh nín thinh. Đi thăm chiến trường cũ hôm nay, đoàn nhà báo có ý đi bằng cả một đội xe tải chở hàng lên Tây Bắc. Đây là một đôi xe tiên tiến, chỉ chênh với đội được phong là anh hùng có một tí. Nghe kể cuộc đời của mỗi anh đội trưởng ngẫu nhiên cũng là chiến sĩ Điện Biên cũ, cũng đã loang loáng thấy lóe lên, rền lên biết bao bom đạn, bao hiểm nghèo, bao gan dạ. Các nhà báo từng nhóm hai người chia nhau ngồi trong các lái, Hân và Phùng cùng lên một xe. Lái cho hai người là một người trai trẻ bề ngoài lù khù nhưng đã trải qua sáu năm đánh Giônxơn và Níchxơn thật sôi động, đuôc làm lễ vào Đảng cách đây chỉ nửa tiếng đồng hồ. Chuyện này vừa xảy ra trước mắt các nhà báo, làm cho ai nấy đều kích động lắm. Hân bắt tay anh lái trước rồi mới vòng lại để bước lên xe. ... Mời các bạn đón đọc Giữa Trong Xanh của tác giả Nguyễn Thành Long.
Đừng Bắt Tôi Yêu Em - Jenmieband
Cô là con gái của trùm hắc đạo nhưng lại bị bán cho hắn vì cha cô đã thua cược. Hắn là con người lạnh lùng, bá đạo, khiến cho cả hai giới hắc bạch sợ hãi khi nghe đến tên. Liệu giữa cô và hắn sẽ có tình yêu? *** 1 năm sau "Trông chị xinh lắm." Dục Nhi đứng cạnh thầm tán thưởng Diệp Mi. Diệp Mi vừa mới đẻ xong cách đây có 6 tháng mà thân hình chẳng hề chảy xệ. Không những vậy, cô còn chẳng hề tập luyện. Chiếc váy cưới cúp ngực xoè rộng. Chân váy dài hơn 2m được đính 5000 viên kim cương ngọc bích đổi màu. Thân váy được dát vàng. Trên cổ cô là chiếc vòng cổ kim cương L" Incomparable. Nổi bật nhất đó là tấm khăn voan đính trên đỉnh đầu cô ở giữa có viên kim cương Oppenheimer Blue giá gần 60 triệu đô. Màu sắc dù có chút khác nhau về nhiều mặt nhưng kết hợp lại thì càng nổi bật lên hẳn. Từ đầu đến chân, trông Diệp Mi chẳng khác gì nữ hoàng của Châu Âu những thời kì trước đây. Tiếng gõ cửa vang lên. Dục Nhi quay sang mở cửa. Dục Nam trong bộ comple lịch lãm màu đen đứng trước cửa. "Ấy ấy, trước khi vào lễ đường không được gặp cô dâu." "Ai ra cái điều luật đấy." Dục Nhi dơ tay đầu hàng lùi lại, lách qua Dục Nam. "Em chịu anh. Chỉ 5 phút thôi nhé." Dục Nam vào trong tiện tay đóng luôn cửa. Diệp Mi đang ngồi trước gương ngắm đi ngắm lại bản thân mình. Khuôn mặt không chút son phấn vẫn để lộ những đường nét xinh đẹp đến rung động lòng người. Dục Nam tiến đến ôm chặt lấy bờ eo của cô. Hương thơm quen thuộc của cô liền ngập tràn trong anh. "Lo nghĩ gì vậy?" "Em cảm thấy có chút...lạ kì sao sao đó. Em không ngờ được là hôm nay em được làm cô dâu. Em thấy...ừm..lo lắng." "Không sao đấy là chuyện bình thường thôi. Ai trước khi bước vào lễ đường chẳng vậy, huống hồ anh với em còn trải qua nhiều chuyện như vậy cứ tin ở anh, cùng anh bước tiếp." ... Mời các bạn đón đọc Đừng Bắt Tôi Yêu Em của tác giả Jenmieband.
Chữ Trinh Và Đời Người Phụ Nữ - Hạ Thu
- Đám cưới. A, đám cưới! - A! Cô dâu đẹp quá! Tiếng trẻ nít reo vang ngoài ngõ. Dạ Thảo? Buông cái chén đang rửa xuống, lau nhanh tay vào một chiếc khăn treo trên vách, rồi vọt theo đám trẻ ra ngõ xem đám cưới. Bà Tư nhìn theo con lắc đầu cười vui: - Cái con, hai mươi mấy tuổi rồi mà cứ như con nít hổng bằng. Hễ nghe có đám cưới là lật đật chạy đi coi cô dâu, làm như lạ lùng lắm vậy? Người ta như nó, ít ra cũng con bồng con ẵm trên tay rồi. Nói xong mấy câu đó, bà bỗng dưng thở dài buồn bã: “Tội nghiệp cho con bé, nhà nghèo nên nó mới phải háo hức chạy đi xem cô dâu như vậy. Chứ phải nhà bà dư dã như người ta thì giờ đây nó cũng lên kiệu hoa làm cô dâu mới như ai “ Bà hất chiếc khăn tay lên vai, khẽ ngồi xuống chiếc gường tre với lấy ô trầu nghĩ tiếp: So về nhan sắc con bà có thua kém gì ai. Chỉ tội quần áo mà bần hàn làm át hẳn đi vẻ đẹp tự nhiên trời phú. Gía mà nó có áo lụa quần là như bạn bè trang lứa thì nó đâu phải thui thủi một mình.” Nói thì nói vậy chứ bà cũng tự hào về con lắm. Cả cái xóm này không có đứa nào được thằng bồ như nó, vừa đẹp trai, vừa khá giả, đàng hoàng, lại có học thức hơn người, nghe đâu nó học cái gì về dược thì phải. Mai sau ra trường làm ông dược sĩ chớ chơi đâu. Rồi bà lại mỉm cười so sánh. Đời đôi lúc cũng lạ lùng, làm sao mà một ông sinh viên đẹp trai học rộng như vậy lại có thể yêu một cô gái nhà nghèo chưa học hết lớp ba. - Bà Tư ơi! Chị Thảo chỉ bị xỉu rồi nè. Có tiếng con nít kêu lên nheo nhéo, bà Tư giật mình ngẩng dậy, chợt hồn phách rụng rời khi thấy con gái của mình mặt mày tái mét nằm lả người trong tay bọn trẻ. - Trời ơi! Thảo con, con làm sao vậy nè? Quýnh quáng bà đỡ con nằm xuống chiếc chõng tre ọp ẹp, giật tóc mai gọi con rối rít: - Thảo, Thảo ơi tỉnh dậy đi con Thằng Tèo đứng trước sân đang giải thích oang oang cho mọi người trong xóm: - Tự nhiên, vừa thấy mặt chú rể là chỉ xỉu liền hà. Ai mà biết sao … Mời các bạn đón đọc Chữ Trinh Và Đời Người Phụ Nữ của tác giả Hạ Thu.
Cái Cười của Thánh nhân - Nguyễn Duy Cần
Cái Cười Của Thánh Nhân không chỉ là một quyển biên khảo về văn chương u mặc phương Đông, mà còn hàm chứa trong nó những giá trị nhân văn. Những câu chuyện cổ, những bài văn u mặc trong quyển sách cho ta thấy cuộc đời dưới một lăng kính khác hài hước hơn, thú vị hơn và sâu sắc hơn. Một cuốn sách không chỉ để mua vui mà còn khiến người đọc phải suy ngẫm. "Cái cười của Thánh nhân" là tiếng cười của người thoát vòng tục lụy, tiếng cười vang của con người tự do, tiếng cười vang vọng ngàn năm khắp mấy cõi trời... Đó là tiếng cười của Lão Tử, của Trang Tử và của bao hiền nhân khác biết tung tăng đùa chơi với cuộc đời. Nguyễn Duy Cần đã mượn chuyện ngàn xưa để cười chuyện thời nay đó! Chúng ta đang ở trong một thế giới vật chất đầy đủ nhờ tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhưng tinh thần của chúng ta mệt lắm, khổ lắm bởi tầm nhìn, tầm nhận thức của chúng ta. Chúng ta đang sống vì những việc mà mình cho là quan trọng lắm, giá trị lắm, cần thiết lắm và những cuộc tranh giành, chiến tranh, đau khổ cũng vì đó mà diễn ra... Dường như cuộc sống đang thiếu vắng dần sự bình yên, thiếu vắng dần hạnh phúc! Đọc Cái cười của Thánh Nhân để chúng ta biết cười mình, biết xót xa thân phận của mình và biết tự giải thoát để có tiếng cười đầy hoan lạc trong cuộc đời. - Bác sĩ Trương Thìn, 27/02/2012 *** Một nhà văn tây phương có viết: “Tình yêu là một vị thần bất tử, U mặc là một lợi khí, Cười là một sự bổ ích. Không có ba cái đó, không đủ nói đến văn hóa toàn diện” Cười đùa quả là một sự bổ ích, u mặc quả là một lợi khí căng thẳng, ngột ngạt, cái khô khan của những chủ thuyết một chiều, cái máy móc của tâm hồn do văn minh cơ khí điều khiển uốn nắn… đang biến loài người thành những bộ máy vô hồn, không dám nói những gì mình nghĩ, không dám làm những gì mình muốn… mà chỉ thở bằng cái mũi của kẻ khác, nhìn bằng cặp mắt của kẻ khác, nghe bằng lỗ tai của kẻ khác… theo nghệ thuật tuyên truyền siêu đẳng của văn minh cơ khí ngày nay! Một con người hoàn toàn là sản phẩm của xã hội, chưa biết sống và dám sống theo ý mình… đó là mục tiêu chính mà u mặc nhắm vào. Chính u mặc đã khiến cho bà Roland, khi lên đoạn đầu đài đã “cười to” với câu nói bất hủ này: “Ôi Tự Do, người ta đã nhân danh mi mà làm không biết bao nhiêu tội ác!” Lâm Ngữ Đường, mà trí thức Trung Hoa tặng cho danh hiệu “u mặc đại sư” có nói: “U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện”. U mặc xuất hiện là để đặt lại mọi nghi vấn về các giá trị thông thường của xã hội mà đời nào cũng tự do là “văn minh nhất” lịch sử! Nhà văn Georges Duhamel khuyên người Tây Phương, trong hoàn cảnh hiện thời, cần phải đặt lại tất cả mọi giá trị của văn minh, vì chưa có xã hội nào trong văn minh lịch sử mà người trong thiên hạ điêu linh thống khổ bằng! Ở xã hội Trung Hoa ngày xưa, thời Xuân Thu Chiến Quốc, một thời đại điêu linh nhất đã phải sinh ra một ông Lão, một ông Trang, để đặt lại tất cả mọi giá trị của xã hội đương thời. Nhà văn họ Lâm cho rằng: “Tinh thần ở u mặc Trung Hoa ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao Trung Quốc. Trong Kinh Thi, Thiên Đường Phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái “trống không” của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên: Ngài có xe ngựa, sao không cưỡi, không tế… Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi! Đó là một phần nào đã bộc lộ cái trạng thái u mặc. ... Mời các bạn đón đọc Cái Cười của Thánh nhân của tác giả Nguyễn Duy Cần.