Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Con Xa Lạ

Đứa con xa lạ là tiểu thuyết của nhà văn Anh - Rachel Abbott. Tác phẩm vừa được Nguyễn Xuân Hồng dịch, Nhà xuất bản Văn học và Văn Việt Books phát hành. Câu chuyện mở đầu bằng một vụ tai nạn khó hiểu trong một đêm không trăng. Caroline Joseph lái xe đưa con gái sáu tuổi Natasha về nhà sau bữa tối cùng họ hàng thì nhận một cuộc điện thoại bí ẩn. Sau cuộc điện thoại, chiếc xe của cô bị trượt trên đường và lật ngửa. Caroline qua đời còn con gái cô - Natasha - biến mất không dấu vết. Sáu năm sau, Natasha đột ngột xuất hiện trong nhà như một bóng ma bí ẩn. Bố cô là David lúc này đã đi bước nữa với Emma và có cậu con trai nhỏ tên Olive. Natasha đối xử với bố và dì như những kẻ thù với sự lạnh lùng, tàn nhẫn mà khó ai ngờ một đứa trẻ 12 tuổi có thể làm được. Cô bé cũng không hé một lời về sáu năm qua của mình và vì sao cô có thể quay trở về. Cuộc điều tra của cảnh sát dần hé lộ thân phận của Natasha. Ngoài sự căm hận với bố, Natasha còn phải đứng trước lựa chọn hoặc làm theo hoặc bị những kẻ điều hành giết. Trong thời gian đó, chính Natasha bị cảm hóa bởi sự kết nối lạ lùng với người mẹ kế và đứa em cùng cha khác mẹ.Trong khi David cố tìm cách để kết nối lại với con gái, vợ anh là Emma cảm thấy bất an trước sự xuất hiện lạ lùng của Natasha. Khi Emma ra ngoài để tránh sự ngột ngạt trong gia đình, con trai cô Olive đã bị Natasha giao cho những kẻ bí ẩn. Tác phẩm cũng dần hé lộ người liên quan tới vụ tai nạn của Caroline Joseph năm nào. Sâu xa của vụ việc là những mối quan hệ làm ăn bí hiểm, những lựa chọn, đấu tranh để giữ gìn hạnh phúc... *** Tác giả Rachel Abbott sinh ra và lớn lên ở Manchester, Anh. Bà được đào tạo làm chuyên gia phân tích hệ thống nhưng lại mở công ty truyền thông đầu thập niên 1980. Sau khi bán công ty năm 2000, bà chuyển tới vùng Le Marche, Italy và bắt đầu viết lách. Rachel từng xuất bản các tiểu thuyết Only the Innocent (Chỉ là  kẻ vô tội), The Back Road (Lối sau) và Sleep Tight (Say ngủ). *** Thêm mười phút nữa, và cô sẽ an toàn ở nhà. Caroline Joseph rùng mình khoan khoái vì chuyến đi dài đằng đẵng sắp kết thúc. Chưa bao giờ cô thích việc lái xe ban đêm và cô luôn cảm thấy hơi mất kiểm soát. Từng cặp đèn pha tiến đến gần dường như đều hút cô về phía chúng, thứ ánh sáng màu trắng của chúng soi tỏ không gian trong xe, trong khi cô nắm chặt vô lăng, cố hướng chiếc xe thẳng về phía trước. Nhưng giờ thì không còn lâu nữa. Cô mong được đem Natasha đi tắm nước ấm, uống một cốc sô cô la nóng, và ủ con bé trên giường. Sau đó cô có thể dành nốt thời gian còn lại của buổi tối cho David. Anh đang gặp chuyện gì đó bực bội, và Caroline nghĩ rằng nếu họ có thể ngồi trước đống lửa cùng với một ly rượu vang khi Natasha đã say ngủ thì cô có thể thuyết phục được anh nói ra mọi chuyện. Chắc chắn phải là chuyện gì đó liên quan đến công việc. Cô liếc nhìn cô con gái quý báu của mình qua gương chiếu hậu. Tasha đã sáu tuổi - hay sáu ba phần tư, như cách cô vẫn thích đem khoe - mặc dù thân hình mảnh khảnh của con bé khiến nó trông nhỏ tuổi hơn. Mái tóc vàng nhạt của nó buông thành những lọn quăn mềm mại trên vai, và những đường nét thanh tú của nó thỉnh thoảng lại sáng bừng lên trong thứ ánh sáng vàng khi họ đi qua những ngọn đèn đường. Mắt con bé nhắm chặt, và Caroline mỉm cười trước vẻ bình an của con bé. Hôm nay Tasha thể hiện tính cách dịu dàng như thường lệ, chơi rất vui vẻ với anh chị em họ trong khi đám người lớn bận rộn làm theo lệnh bố của Caroline. Ông cụ đã đưa ra một “chỉ dụ” - lần này tuyên bố rằng Caroline, cùng với các anh chị em và gia đình của họ, phải đến dự một bữa tối trước dịp Giáng sinh. Bình thường, tất cả mọi người đều vâng lời. Tất cả mọi người có nghĩa là trừ David ra. Đường rẽ vào những con hẻm dẫn tới nhà họ vùn vụt tiến lại gần, Caroline liếc nhìn Natasha lần chót. Khi họ rời khỏi đường chính và xa dần những khung cửa sổ của các cửa hiệu đèn đuốc sáng choang, quầng sáng màu hổ phách của những ngọn đèn đường cao vút, khoang sau xe chìm vào bóng tối. Con bé ngủ suốt cả chuyến đi, nhưng lúc này bắt đầu cựa quậy. “Con ổn chứ, Tasha?” Caroline hỏi. Đứa bé chỉ làu bàu đáp lại, vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn để trả lời trong lúc đưa mu bàn tay dụi dụi mắt. Caroline mỉm cười. Cô đạp nhẹ phanh và chuyển số để rẽ. Tất cả những gì cô phải làm là chạy nốt vài dặm đường cuối cùng của chuyến đi này, dọc theo những ngõ phố hẹp có hàng giậu hai bên, chìm sâu trong bóng tối, và rồi cô có thể nghỉ ngơi. Cô chợt thấy lo lắng về David. Anh biết cô rất ghét lái xe buổi tối, và lẽ ra anh có thể cố gắng - vì Natasha, nếu không phải vì cô. Hôm nay cả hai người đều nhớ anh. Có một chuyển động đột ngột bên trái thu hút ánh mắt của Caroline, và cô xoay đầu về phía đó, tim cô đập nhanh trong lồng ngực. Một con cú xà thấp xuống hàng giậu, phần ngực trắng xóa của nó bắt trọn quầng ánh sáng từ đèn pha của cô, sáng rỡ trên nền trời đen. Cô thở phào. Trời không có trăng, và mặt đường đen kịt trên các ngõ phố dẫn tới ngôi nhà của họ lấp loáng những hạt sương. Mọi thứ xung quanh cô dường như yên tĩnh hoàn toàn, như thể cả thế giới vừa dừng lại, và giờ nếu con cú bay đi thì cô là vật duy nhất vẫn còn chuyển động. Caroline biết, nếu cô mở cửa sổ, sẽ chẳng có tiếng động gì ngoài tiếng động cơ xe ầm ì khe khẽ. Phía trước hay đằng sau đều chẳng có ánh sáng, và trong phút chốc, nỗi sợ bóng tối rất tự nhiên của cô nhăm nhe ụp xuống. Cô rướn người về phía trước, bật radio với âm lượng nhỏ, cảm thấy bình tâm nhờ sự vui tươi của những ca khúc dịp lễ. Chẳng mấy cô sẽ phát ngán với những âm thanh này nhưng ngay lúc này, sắc thái vui vẻ thường lệ của chúng khiến cô thấy thư thái. Cô mỉm cười khi điện thoại trên ghế ngồi cạnh mình bắt đầu reo. Chắc chắn rằng đó là David muốn hỏi khi nào cô về, cô chỉ hơi liếc nhìn màn hình, nhưng đúng khoảnh khắc cuối cùng cô nhận ra, cuộc gọi đến từ một số đã được ẩn. Cô chạm vào màn hình và hủy cuộc gọi. Dù là ai thì cũng cứ đợi tới lúc cô về đến nhà đã. Cô đánh lái bằng một tay để cua nhanh trong lúc đặt điện thoại trở lại ghế ngồi, khiến chiếc xe hơi trượt đi trên mặt đường lạnh lẽo. Cô cảm thấy hơi hoảng. Nhưng chiếc xe vẫn vững, và cô lại thở bình thường. Caroline ngoặt thật cẩn thận ở những chỗ tiếp theo, nhưng đôi vai căng cứng của cô trùng xuống khi cô chạy đến một đoạn đường thẳng có bờ giậu cao che chắn, cùng những đường rãnh sâu dọc hai bên. Caroline rướn sát vào kính chắn gió, đăm đăm nhìn sâu vào màn đêm. Đèn pha xe cô đang rọi vào một khoảng tối thẫm hơn - có gì đó trong ngõ phố phía trước. Cô hơi đạp phanh và ve một số, chạy chậm lại vẻ phòng xa. Cô chuyển tiếp về số hai để tiến gần vật cản, hãi hùng nhận ra đó là một chiếc xe hơi, xoay nghiêng chắn ngang đường, hai bánh trước của nó vùi xuống rãnh bên mé phải đường. Cô nghĩ mình nhìn thấy một bóng đen trong xe, như thể có ai đó đổ gục trên vô lăng. Khi Caroline chầm chậm tiến về phía chiếc xe, tim cô bỗng đập rộn, cô nhấn nút để hạ kính cửa sổ. Trông như có người cần được giúp đỡ. Điện thoại lại reo vang. Ý nghĩ đầu tiên của cô là mặc kệ, nhưng nếu đã xảy ra một vụ tai nạn thì cô có thể cần gọi thêm hỗ trợ. Cô vớ lấy điện thoại trên ghế và trả lời cuộc gọi, nhận ra tay mình đang run bắn. “A lô?” “Caroline, em về nhà chưa?” Đó là một giọng nói cô mơ hồ nhận ra, nhưng không sao xác định rõ được. Mắt cô không rời vật cản phía trước trong lúc cô dừng lại và mở dây an toàn. “Vẫn chưa. Nhưng sao? Ai đấy?” “Nghe anh này. Cho dù em làm gì, em cũng đừng dừng xe lại. Cho dù có chuyện gì xảy ra, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng đừng dừng xe lại.” Người đàn ông nói nhỏ và nhanh. “Về nhà. Về thẳng nhà. Em nghe anh nói không?” Vẻ hoảng hốt của giọng nói trong điện thoại tương ứng với tâm trạng lo lắng dần tăng của chính Caroline. Cô ngập ngừng. “Nhưng có một chiếc xe nằm ngang đường, và trông như có người bên trong. Có thể họ bị bệnh, hoặc họ vừa gặp tai nạn. Tại sao tôi không thể dừng lại? Có chuyện gì vậy?” “Cứ làm như lời anh đang bảo, Caroline. Đừng ra khỏi xe. Đạp chân xuống ngay và chạy qua chiếc xe đó, đừng có dừng lại vì bất kỳ ai hay bất kỳ cái gì. Cứ làm đi.” Giọng nói khẩn trương, gấp gáp. Caroline cảm thấy nỗi sợ dâng lên trong cổ họng. Chuyện này là sao? Cô liếc nhìn gương chiếu hậu, và quyết định. Cô ném điện thoại di động lên ghế cạnh mình, nắm lấy vô lăng bằng cả hai tay. Chiếc xe nằm bẹp kia dài và thấp, choán hầu hết bề rộng mặt đường với hai bánh sau hơi hẫng khỏi mặt đất vì ca-pô chếch xuống rãnh. Không có nhiều chỗ để vòng qua phần thùng sau của chiếc xe, nhưng cô có thể làm được. Cô phải làm được. Cô đạp mạnh chân xuống sàn. Lốp xe trượt trên mặt đường lạnh lẽo, nhưng vẫn bám được, và cô đánh xe sang trái. Bánh xe bên trái cô leo lên bờ đường bên dưới hàng giậu và chiếc xe lượn một góc khá nguy hiểm. Cô xoay vô lăng trở lại bên phải và chiếc xe của cô nện mạnh xuống, hướng thẳng mé bên kia đường. Caroline lại đánh lái sang trái để chỉnh thẳng hướng, động cơ rồ lên khi cô tăng tốc. Đột nhiên cô cảm thấy mình bắt đầu trượt đi. Cô cuống cuồng xoáy vô lăng hết hướng này lại hướng khác, nhưng cho dù cô làm gì, chiếc xe vẫn chẳng nghe lời. Băng phủ mặt đường, và cô đang đi quá nhanh. Cô nhớ đã được dặn cách lái xe ở chế độ trượt, nhưng cách đó cũng không ổn. Trong đầu cô vụt lóe lến một cái tên. Cô đột nhiên nhận ra ai vừa gọi cho mình. Nhưng tại sao lại là anh ta? Cô gọi to tên anh ta, nhưng cô biết rằng lúc này anh ta chẳng thể làm được gì. Mắt cô bị hút về phía gương, về phía khoang sau tối om của chiếc xe, nơi tất cả những gì cô nhìn thấy là màu trắng trong đôi mắt mở to, hãi hùng của Natasha. Cô đạp mạnh chân phanh, nhưng chẳng ăn thua. Chiếc xe trượt nghiêng, va vào bờ đường lần nữa, chồm lên một góc và bật tung, lăn lông lốc, va mạnh qua hàng giậu và đâm sầm xuống rãnh, cơ thể gãy rời của Caroline văng đi rồi nằm yên nửa trong nửa ngoài ô cửa sổ để ngỏ. Viên cảnh sát lái xe dọc theo những ngõ phố hẹp, tận hưởng khoảnh khắc bình yên hiếm hoi trong thời khắc sắp đến Giáng sinh. Một người giấu tên gọi đến báo có một chiếc xe hơi văng khỏi đường ở đâu đó quanh đây, nhưng theo nhân viên điều phối, người gọi đến không cung cấp thêm được chi tiết nào nữa. Viên cảnh sát hy vọng vụ này chỉ là một gã đần nào đó phá xe vì bị cạn xăng hoặc trục trặc. Anh đã phải xử lý quá đủ đám say xỉn vào cái mùa tiệc tùng này rồi, và một chiếc xe xinh xắn bị bỏ lại sẽ lại khiến anh phải rời khỏi đường một lúc - thậm chí có khi đến hết ca trực luôn. Dần dần anh nhận ra rằng không thể tìm được sự lạc quan ấy của mình. Những ánh đèn khiến anh phải tin. Không ai vứt bỏ xe của mình mà đèn vẫn sáng cả, và đằng trước anh còn nhìn thấy một ngọn đèn trắng đứng yên, chiếu sáng quắc, soi tỏ những hàng cây trơ trụi bên đường. Lúc anh lại gần hơn, quầng ánh sáng chói chang từ cặp đèn pha khiến anh lóa mắt. Anh dùng mu bàn tay che bớt mắt, hết sức thận trọng tiến lại gần phòng trường hợp có người nằm trên đường mà anh không thể nhìn thấy. Anh tiến đến cách chiếc xe khoảng hai mươi mét và tắt động cơ. Ngay lập tức anh thấy rằng tình hình rất tệ. Chiếc xe bị lật ngửa, phần trước ghếch lên một bên bờ hẻm. Nhưng chính tiếng động mới khiến anh rùng mình sởn tóc gáy. Xen lẫn với tiếng nổ đều đều êm ả của động cơ xe đắt tiền vang lên trong không gian thôn dã tĩnh mịch xung quanh, chính là nhạc nền rất huyền ảo không lẫn đi đâu được của bài White Christmas của Bing Crosby. Tiếng nhạc thư thái tuôn vào không khí buổi đêm lạnh lẽo qua một ô cửa để ngỏ, nơi đầu của một người phụ nữ thò ra ở một góc rất khó tin khiến viên cảnh sát không cần đến gần chiếc xe cũng biết cô ấy đã chết. Anh chầm chậm tiến lại phía chiếc xe dựng ngược để tắt động cơ, và cả tiếng nhạc. Anh đã có thể hít thở trở lại. Giờ thì đây chỉ là một vụ tai nạn giao thông trên đường với duy nhất một chiếc xe gặp nạn, mặc dù rất thảm khốc. Anh với lấy bộ đàm. Trong lúc đợi nhân viên cấp cứu đến, biết rõ rằng họ chẳng thể làm gì hơn là xác nhận những gì anh đã biết, viên cảnh sát tiến hành chặn đường, gọi nhóm chuyên gia đến điều tra vụ tai nạn và đề nghị kiểm tra trên hệ thống máy tính cảnh sát toàn quốc về chiếc xe để xác định chủ sở hữu. Anh vớ lấy một chiếc đèn pin cực mạnh trong ngăn hành lý của mình và rọi quanh ngõ phố, rọi xuống hào, dọc theo bờ đường, cố tìm kiếm xem có ai từng tìm cách bò ra khỏi chiếc xe, có thể bị thương, hoặc thứ gì đó trên đường có thể là nguyên nhân khiến chiếc xe bị mất lái không. Chẳng có gì cả. Con đường trống trơn. Viên cảnh sát thấy nhẹ người khi không khí yên ắng bị phá vỡ bởi những tiếng còi rúc càng lúc càng gần, và chỉ vài phút sau xe cứu thương vụt đến, ánh đèn của xe làm hiện ra một người đi xe đạp một mình đang ngập ngừng tiến lại hiện trường. Người đàn ông nhảy xuống xe và đứng cách một quãng. Viên cảnh sát tiến lại phía anh ta. “Xin lỗi, thưa ông - ông cần lùi lại.” “Vâng, thưa ngài sĩ quan. Tôi chỉ đang trên đường về nhà thôi.” “Tôi hiểu, nhưng tôi không thể để ông đi qua đoạn đường này vào lúc này, thưa ông. Tôi tin chắc ông thông cảm chuyện đó.” “Có người bị thương à? Trông như xe của Caroline Joseph. Tôi nói có đúng không?” Người đi xe đạp hỏi. “Lúc này tôi chưa khẳng định được, thưa ông.” Người đàn ông ngó qua viên cảnh sát để nhìn chiếc xe rõ hơn. “Tôi nhìn thấy kia là cô ấy thì phải? Ôi lạy Chúa. Cô ấy chết rồi, phải không?” Anh ta nhìn viên cảnh sát, miệng há ra vì sốc. “David tội nghiệp. Đó là chồng cô ấy. Anh ấy sẽ suy sụp mất.” Viên cảnh sát không nói gì. Tất cả những gì anh có thể làm là giữ người đàn ông cách hiện trường vụ tai nạn càng xa càng tốt cho tới khi lực lượng hỗ trợ đến, nhưng ngay cả từ khoảng cách này, vẫn nhìn thấy rất rõ phần đầu của người phụ nữ. “Không có Natasha đi cùng cô ấy sao?” Người đi xe đạp hỏi, giọng anh ta run lên. “Cô gái bé bỏng của cô ấy? Đứa bé đáng yêu nhất.” Viên cảnh sát lắc đầu, có phần nhẹ người. “Không, thưa ông. Ghế cho trẻ con có ở phía sau nhưng thật may là trống không. Không có ai khác ở trong xe.” Mời các bạn đón đọc Đứa Con Xa Lạ của tác giả Rachel Abbott.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.
Ngôi Nhà Số 12 - John Milne
Nancy bốn mươi sáu tuổi, một người phụ nữ trầm lặng, cô đơn, sống cô độc trong ngôi nhà và mớ tài sản do cha mẹ cô để lại. Chẳng có người bạn nào bên cạnh, Nancy đến Eastbourne để nghỉ dưỡng và kiếm bạn mới. Và cô đã gặp được Henry John, xấp xỉ ngũ tuần, góa vợ và đang sống cùng người em Isobel Jones trong một thị trấn nhỏ gần London. Cuộc gặp gỡ với Henry đã khiến Nancy nghĩ rằng từ nay cô sẽ không bao giờ phải cô đơn nữa. Nhưng Nancy đâu ngờ rằng, sau hôn lễ lặng lẽ, một cuộc đời bi đát hơn đang chờ đợi cô trong ngôi nhà mang số 12 đại lộ Rừng Sồi... Tình tiết nhanh, ngắn gọn, John Milne một lần nữa mang đến độc giả một bí ẩn mới đậm chất John Milne như đã từng gặp trong các tác phẩm như Con mèo đen, Đường hầm, Oliver Twist,... Liệu văn phòng thám tử Terry Mason và những người bạn của mình có phát hiện ra được bí mật đen tối trong ngôi nhà số 12? Liệu Nancy có thoát khỏi căn nhà u ám đó trước khi quá muộn hay chịu nằm chờ chết trong tuyệt vọng? Tất cả còn chờ các bạn độc giả cùng khám phá. *** Những nhân vật trong truyện Nancy Robert là một thiếu phụ bốn mươi tuổi. Cô ta đã sống cùng gia đình nhiều năm ở Ấn Độ. Đến năm 1970, gia đình cô chuyển sang nước Anh sinh sống. Cha mẹ cô giờ đây đã chết. Nancy trở thành một người phụ nữ trầm lặng và cô đơn. Henry John xấp xỉ tuổi ngũ tuần và góa vợ. Vợ hắn đã mất một năm trước đây. Isobel Jones trạc tuổi Nancy. Cô ta sống với anh trai mình là Henry John trong một thị trấn nhỏ gần London. Terry Mason là một người làm công tác văn phòng nhưng anh ta không thích công việc của mình. Anh ta luôn muốn trở thành thám tử. Một ngày nọ, Terry được hưởng một số tiền từ di chúc của người cậu quá cố, và giờ đây Terry Mason đã lập một văn phòng thám tử tư. Sheila Williams là bạn của Terry Mason trong nhiều năm. Cô ta làm việc cho một văn phòng môi giới bất động sản. Bill Evans là một người giao sữa. Anh ta lái một chiếc xe chở sữa đi đến các căn hộ để giao sữa vào mỗi sáng sớm. Tom Matthews là một cậu bé bán báo mười ba tuổi. Cậu ta cũng giao báo đến các hộ trong khu phố vào mỗi sáng sớm. Bob Wilkinson là một người bạn của Terry. Anh ta làm việc tại Sở Xã Hội. Gordon Burgess là bạn của bạn Terry. Anh ta làm việc tại Tòa Thị Chính.   Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Số 12 của tác giả John Milne.
Đời Tổng Thống K. Thứ Tư - Mario Puzo
Bạn đọc Việt Nam đã từng làm quen với Mario Puzo qua các tác phẩm Bố già, Sicily miền đất dữ. Đời tổng thống K. thứ tư là tác phẩm mới nhất của ông. Đời tổng thống K. thứ tư là một tác phẩm văn học hư cấu, viết về tấn bi kịch trong đời tư của một Tổng Thống Hoa Kỳ... Vừa phát hành, tác phẩm đã được báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng ở Hoa Kỳ hết lời ca ngợi và đươợ in ở nhiều nước với nhiều thứ tiếng khác nhau. Bản dịch này, chúng tôi dịch theo bản gốc do Bantam Books tái bản năm 1992 và đồng thời in, phát hành tại Hoa Kỳ và Canada. Tác phẩm mới nhất của Mario Puzo, người đã “sinh” ra từ BỐ GIÀ đến SICILY MIỀN ĐẤT DỮ... ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ, tuy có dựa vào một vài sự kiện có thật, có mang dáng dấp của một vài nhân vật có thật, nhưng như chính tác giả tuyên bố, nó vẫn là một tác phẩm hư cấu, vẫn là một tiểu thuyết văn học trăm phần trăm. Nó VIẾT VỀ TẤN BI KỊCH TRONG ĐỜI RIÊNG CỦA MỘT TỔNG THỐNG MỸ. Và cũng như hầu hết các tác phẩm của MARIO PUZO, vừa ra đời năm 1992, ĐỜI TỔNG THỐNG K. THỨ TƯ đã được các phương tiện thông tin đại chúng phương Tây chào đón rầm rộ như một sự kiện văn học trọng đại nhất trong năm. *** Oliver Oliphant đã tròn trăm tuổi và tâm trí vẫn sáng trong như tiếng chuông. Thật bất hạnh cho lão! Đấy là một tâm trí sáng trong, còn tinh nhạy tới mức khi phá bỏ rất nhiều phép tắc đạo lý, nó tẩy sạch trơn lương tâm lão. Một tâm trí xảo quyệt tới mức Oliver Opliphant chưa lần nào bị vấp những cái bẫy hầu như khó tránh khỏi trong cuộc sống hàng ngày, lão chưa hề lấy vợ, chưa từng là một ứng cử viên giữ chức vụ mang màu sắc chính trị và chưa hề có người bạn tin tưởng tuyệt đối. Oliver Opliphant, người giàu có nhất Hoa Kỳ và có lẽ là công dân ẩn dật có uy quyền nhất, đang đón đợi Christian Klee, con trai đỡ đầu của lão, chưởng lý Tối cao pháp viện Hoa Kỳ, tại dinh cơ đồ sộ có đội vệ sĩ tuyển lựa kỹ canh gác cẩn mật chỉ nằm cách Nhà trắng mười dặm. Sức quyến rũ của Oliphant không thua kém gì sự tài giỏi của lão: quyền lực của lão dựa vào cả hai điểm này. Tuy đã tròn trăm tuổi, các vĩ nhân tin tưởng khả năng phân tích của lão lũ lượt kéo tới lắng nghe lời khuyên bảo của Oliphant đông đến nỗi lão được mệnh danh là “Oracle” (1). Với tư cách cố vấn Tổng thống, Oracle đã dự đoán trước các cuộc khủng hoảng về kinh tế, các vụ sụp bể ở Wall Street, đồng đô la mất giá, cuộc tháo chạy của tư bản nước ngoài, những mức tăng vọt không thể tưởng tượng nổi của giá dầu. Lão dã sự đoán trước những bước thăng trầm về chính trị ở Liên Xô, những đường lối bất ngờ của các đối thủ trong Đảng Dân chủ và Cộng hoà. Nhưng cái chính là lão đã tích luỹ được mười tỷ đô la. Lời khuyên của một người giàu nứt đố đổ vách như vậy, thậm chí dù sai trái, cũng đều như vàng ngọc là lẽ tự nhiên. Nhưng Oracle thường dự đoán gần đúng. Bây giờ, vào Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện này, Oracle đang bận tâm tới mỗi một điều: tổ chức lễ sinh nhật mừng ngày một trăm năm có mặt trên Trái đất này của lão. Buổi lễ sẽ được tổ chức vào Chủ Nhật Lễ Phục Sinh tại Rose Garden trong Nhà trắng, đích thân Tổng thống Hoa Kỳ là Francis Xavier Kennedy chủ trì lễ tiệc... Tâm trạng phấn chấn vui mừng trước một việc thu hút sự chú ý của mọi người là một sự phù hoa chấp nhận được đối với Oracle. Thế giới lại nhớ tới lão trong giây phút ngắn ngủi. Lão buồn rầu nghĩ bụng, có lẽ đây là sự xuất hiện cuối cùng của lão trên vũ đài. Tại Rome, vào Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện, bảy tên khủng bố đã hoàn tất công việc chuẩn bị vụ ám sát Giáo hoàng. Bọn chúng gồm bốn gã đàn ông và ba phụ nữ, chúng tin rằng chúng là những kẻ giải thoát cho nhân loại. Chúng tự mệnh danh là Đức Chúa của Bạo Lực. Trưởng nhóm đặc biệt là một tên thanh niên người Italia dày dặn kỹ thuật khủng bố. Mật danh của hắn khi tham gia chiến dịch đặc biệt là Romeo: cái tên gọi này gây hào hứng cho tính châm biếm trẻ trung của hắn và nó thật gợi cảm mơn dịu tình yêu đầy trí tuệ đối với loài người. Chiều tối Ngày Thứ Sáu Thánh Thiện, Romeo đã nằm nghỉ trên chiếc giường cũ kỹ trải khăn hoen ố trong căn nhà an toàn do International One Hundred bố trí. Miệng ngậm thuốc lá, lòng bồn chồn một nỗi lo ám ảnh suốt bao ngày đêm, hắn đọc cuốn anh em nhà Karamazov loại in phổ thông bán rẻ. Cơ bắp chân hắn bị chuột rút vì căng thẳng, có lẽ vì sợ hãi, nhưng chẳng sao. Thường thì rồi đâu sẽ vào đấy cả. Thế nhưng nhiệm vụ lần này thật đặc biệt, thật phức tạp, kéo theo bao nguy hiểm cho thể xác và tinh thần trong lần thi hành nhiệm vụ này, hắn thực sự là Đức Chúa của Bạo Lực, một cái tên nghe đích thực Thiên chúa giáo nên mỗi khi nhớ tới nó hắn lại phá lên cười. Romeo là con trai của gia đình Armando Giangi một gia đình cao sang giàu có. Bố mẹ hắn muốn con trai trở thành một người thuần tính, giàu sang, ngoan đạo, nhưng những ước muốn đó trái ngược hắn bản chất khổ hạnh của hắn nên đến năm Romeo mười sáu tuổi, hắn đã khước từ mọi của cải vật chất và không chịu đi lễ nhà thờ. Và bây giờ, vào năm hai mươi ba tuổi, chẳng hiểu sao hắn lại nảy ra cái ý nổi loạn ghê gớm là ám sát Giáo hoàng? Hắn bị một sự mê tín kinh hãi luôn ám ảnh. Lúc còn nhỏ, một hồng y giáo chủ mà hắn căm ghét đã làm lễ kiên tín cho hắn. Romeo thường bị ám ảnh cái mũ màu đỏ báo điềm gở của vị Hồng y Giáo chủ nọ rất giống màu lửa hun ở dưới địa ngục. Do đó, hình ảnh lửa hun nơi địa ngục ấy cứ khắc sâu dần trong tâm trí hắn theo từng buổi đi lễ, Romeo tự chuẩn bị cho bản thân để gây một tội ác khủng khiếp làm hàng ngàn người sẽ phải nguyền rủa tên tuổi hắn, rồi người ta sẽ biết rõ tên thật của hắn. Hắn sẽ bị bắt. Hắn đã trù tính như vậy. Nhưng lại vào dúng lúc hắn, Romeo, được tôn sùng là vị anh hùng đã ra tay cứu giúp làm thay đổi trật tự xã hội tàn ác hiện đang tồn tại. Những điều bỉ ổi kéo dài suốt trăm năm qua sắp được tẩy rửa sạch tinh. Nhưng nếu ngược lại, Romeo mỉm cười thầm nghĩ. Hàng thế kỷ trước đây, vị Giáo Hoàng đầu tiên được khoác cái tên “Innocent” (2) đã ban bố sắc lệnh cho phép tra tấn hành tội và ra rả truyền bá niềm tin thực sự và cứu rỗi những linh hồn dị giáo. Nhà thờ sắp phong thánh cho vị Giáo chủ mà Romeo sẽ giết, điều đó càng khơi gợi tính châm biếm trẻ trung của hắn. Hắn sẽ dựng lên một vị thánh mới. Hắn vô cùng căm ghét họ, tất cả các vị giáo chủ đó. Những vị Innocent IV, Giáo chủ Pius, Giáo chủ Bennedid, ôi, quá nhiều các vị thánh, các vị này cóp nhặt của cải, các vị này đàn áp niềm tin thực sự của con người được tự do lựa chọn, các vị này dùng phép thuật ngu dân và lời lăng nhục gay gắt gây khủng hoảng niềm tin để khoe trương tài cán che giấu những nỗi bất hạnh trên đời. Hắn, Romeo, một trong số Một Trăm Đầu Tiên của Đức Chúa của Bạo Lực sẽ vạch trần cái trò ma thuật thô bạo ấy. Một Trăm Đầu Tiên này được gọi một cách thông tục là bọn khủng bố, toả ra khắp các nước Nhật Bản, Đức, Italia,Tây Ban Nha... Kể cũng lạ là không hề thấy một tên nào trong số Một Trăm Đầu Tiên xuất hiện ở Hoa Kỳ. Tại cái đất nước dân chủ này, trong chiếc nôi của tự do này chỉ toàn thấy những nhà cách mạng trí thức hễ thấy máu đổ là mặt mày tái mét. Như vậy biết kiếm đâu ra kẻ đánh bom các toà cao ốc đã xua hết mọi người rời ra ngoài, biết kiếm đâu ra kẻ cho rằng thông dâm công khai ngay tại trên bậc thềm cửa nhà là một hành động chống đối mang tính duy tâm. Chúng thật đáng khinh. Do đó, không một tên người Hoa Kỳ nào dám ra nhập vào nhóm Một Trăm Đầu Tiên là điều chẳng lấy gì phải ngạc nhiên. Romeo tạm bứt khỏi dòng suy nghĩ mơ mộng. Hắn chẳng rõ quái quỷ thế nào mà lại phải là một trăm. Có thể năm chục hoặc sáu chục cũng được chứ sao, đây chẳng qua chỉ là một con số tượng trưng. Nhưng, những điều tượng trưng như vậy mới tập hợp được quần chúng và lựa chọn ra được những người thích hợp. Điều duy nhất, hắn, Romeo, thực sự hiểu rõ: hắn là một trong số Một Trăm Đầu Tiên, cũng như Yabril, bạn và kẻ sẽ hỗ trợ hắn. Một trong số cơ man nhà thờ ở Rome đang kéo chuông. Gần sáu giờ tối Ngày Thứ Sáu Thánh thiện... Một tiếng nữa Yabril sẽ tới để xem xét, kiểm tra lại toàn bộ các bước trong chiến dịch phức tạp này. Kẻ giết Giáo hoàng có thể sẽ là kẻ đi một nước cờ rất vẻ vang, nên cả một loạt hành động phiêu lưu trào tới kích thích cái đầu lãng mạn của Romeo. Yabril là tên đàn ông duy nhất không hề run sợ Romeo, cả thể xác lẫn tinh thần. Gã biết rõ những trò gian dối của các nhà cầm quyền, những bộ mặt đạo đức giả của các nhà chức trách do luật pháp dựng lên, những mối nguy hiểm do tính lạc quan của những kẻ cuồng tín gây nên, những sơ suất bất ngờ về niềm tin thậm chí cả ở những tên khủng bố mù quáng nhất. Nhưng điều nổi bật nhất của Yabril thể hiện rõ ở điểm gã là một tài năng hiếm có trong cuộc chiến tranh cách mạng. Gã coi khinh lòng nhân từ tầm thường và tình thương hại ấu trĩ gây mủi lòng người. Yabril chỉ có một mục tiêu duy nhất: giải phóng tương lai. Do đó Yabril tàn nhẫn hơn Romeo nhiều. Romeo giết hại người dân vô tội, bất hiếu với bố mẹ và phản bội bè bạn, giết viên luật sư đã từng chở che bảo vệ hắn. Nhưng có lần Yabril bảo hắn: “Nếu mày không dám liệng một trái bom vào vườn trẻ thì mày chưa phải là một kẻ khủng bố thực sự”. Romeo đã đáp: - Cái đó thì tao chịu. Nhưng Romeo lại có thể giết chết một vị Giáo hoàng. ... Mời các bạn đón đọc Đời Tổng Thống K. Thứ Tư của tác giả Mario Puzo.
Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie
Nhân vật chính trong Tay lái súng đa cảm là viên quân nhân về hưu Thomas Lang. Lang có một cuộc sống không mấy dư dả ở Luân Đôn với nguồn thu nhập chính từ công việc vệ sĩ, lính đánh thuê... dựa vào những kỹ năng cũng như các mối quan hệ anh ta có được trong thời gian tại ngũ. Khi ở Amsterdam, Lang bất ngờ được một người đàn ông giấu mặt thuê để theo dõi tay doanh nhân Alexander Woolf. Trong quá trình làm nhiệm vụ, Lang phát hiện ra chính mình lại là đối tượng bị theo dõi bởi cả Bộ Quốc Phòng và Cơ quan Tình báo trung ương - những người đồng thời đang điều tra Woolf vì hành vi buôn lậu ma túy ở quy mô quốc tế. Lang đã cố gắng tìm cách tiếp cận kẻ lạ mặt đã thuê mình theo dõi Woolf để làm rõ mọi chuyện, nhưng thực không ngờ rằng người đàn ông ấy lại chính là Woolf, và hắn ta cùng với con gái hiện đang có mặt tại Luân Đôn. Theo đó, một sự thật đáng sợ được vạch trần: tất cả mọi việc xảy đến với Lang đều nằm trong kế hoạch tinh vi của Woolf, và đằng sau đó còn cả một âm mưu khủng khiếp đang chờ Lang đối mặt... *** Tác giả Hugh Laurie (sinh 1959) là diễn viên, nhạc sĩ, nhà văn nổi tiếng người Anh, hai lần đoạt giải Quả Cầu Vàng và sáu lần được đề cử giải Emmy. Năm 2011 ông được sách kỷ lục Guinness ghi nhận là diễn viên truyền hình được trả thù lao cao nhất, 250.000 bảng Anh một tập trong bộ phim nhiều tập House. Mặc dù văn chương không phải là “nghề tay phải” của Laurie, song Tay lái súng đa cảm (The Gun Seller), tiểu thuyết đầu tay (cũng là tiểu thuyết duy nhất cho đến nay) của ông, lập tức trở nên nổi tiếng và được tái bản nhiều lần. *** Nhận định “Một tiểu thuyết thriller hạng nhất… một cỗ máy giải trí tuyệt diệu vô song” - The Plain Dealer (Cleveland) “Một cuốn tiểu thuyết rất đỗi thông minh tinh tế… tươi mới và lôi cuốn không cưỡng được.” - Christopher Buckley, The New York Times Book Review *** Thử hình dung anh phải bẻ gãy tay ai đó. Phải hay trái không quan trọng. Quan trọng là phải bẻ, bởi vì nếu không bẻ... ờ thì thực ra cũng chẳng vấn đề gì. Cứ cho là nếu anh không bẻ thì sẽ có hậu quả xấu đi. Vậy câu hỏi của tôi là: anh sẽ bẻ thật nhanh - rắc, ối chà, xin lỗi, để tôi giúp anh với cái xương gãy ngay tức thì kia - hay anh sẽ nhẩn nha trong vòng tám phút, thi thoảng mới mạnh tay lên một tí, cho tới khi tất cả những hoa cà hoa cải, những nóng và lạnh quyện vào nhau khó chịu đến vô cùng? Đúng vậy. Tất nhiên rồi. Lựa chọn đúng đắn, lựa chọn duy nhất hẳn là làm cho xong đi càng nhanh càng tốt. Bẻ cái tay, nốc vài ngụm rượu, và lại trở thành công dân tốt. Chẳng thể có câu trả lời nào khác. Trừ khi. Trừ khi, trừ khi, trừ khi. Nếu như anh căm ghét cái kẻ bị bẻ tay kia thì sao? Ý tôi là thực sự ghét hắn ta, vô cùng ghét hắn ta. Đó chính là điều mà lúc này tôi phải tính tới. Tôi nói “lúc này”, có nghĩa là khi đó, là cái khoảnh khắc mà tôi đang miêu tả; cái khoảnh khắc nhỏ, nhỏ khốn kiếp ấy, trước khi cổ tay tôi bị kéo quặt tới gáy và xương cánh tay trái tôi gãy ra ít nhất thành hai đoạn lủng lẳng, rất có khả năng là nhiều hơn. Cái tay mà chúng ta vừa nói đến, anh thấy đó, là tay tôi. Nó không phải là một cánh tay trừu tượng, triết học. Những xương đó, da đó, những lông tay, rồi cả cái sẹo nhỏ màu trắng ở đúng cùi tay do quệt vào góc lò sưởi từ hồi ở trường tiểu học Gateshill, tất cả đều thuộc về tôi. Và giờ là lúc tôi phải cân nhắc khả năng kẻ đứng đằng sau tôi, kẻ đang bóp chặt cổ tay tôi mà bẻ ngược dọc sống lưng theo một tư thế gần như tình tứ, hắn căm ghét tôi, vô cùng căm ghét tôi. Hắn cứ giữ cái tay thế mãi. Họ hắn là Rayner. Tên không rõ. Dù sao tôi đã không thể biết và bởi thế tôi đoán chắc là anh cũng không nốt. Tôi đồ rằng hẳn phải có ai đó, ở đâu đó biết tên của hắn - đã từng rửa tội cho hắn bằng cái tên đó, đã từng gọi hắn xuống ăn sáng bằng cái tên đó, đã từng dạy hắn phải đánh vần nó như thế nào - và một người nào khác ắt đã từng gọi tên hắn trong quán bar để mời hắn làm vài cốc, hay đã từng thì thào cái tên đó trong lúc làm tình, hoặc giả đã viết nó vào một ô trong tờ khai bảo hiểm thân thể. Tôi biết chắc chắn họ đã làm tất cả những điều đó. Chỉ có điều khó mà hình dung ra, thế thôi. Tôi áng chừng Rayner hơn tôi mười tuổi. Thế tốt thôi. Chuyện đó chẳng vấn đề gì cả. Tôi có quan hệ tốt, thân mật - không liên quan tới chuyện bẻ tay - với rất nhiều người hơn tôi mười tuổi. Những người lớn hơn tôi mười tuổi nhìn chung là đáng kính trọng. Nhưng Rayner còn cao hơn tôi bảy phân, nặng hơn khoảng hai chục ký, và ít nhất hơn tôi tám đơn vị trong thang bạo lực. Hắn xấu xí hơn cả cái bãi đỗ xe, với cái sọ to trụi tóc chỗ hóp vào chỗ phình ra như một quả bóng nhét đầy que trong ruột và cái mũi chiến binh phẳng dẹt, trông như thể một dải đồng bằng quanh co khúc khuỷu do ai đó cầm bút chì bằng tay trái, hoặc tệ hơn, bằng chân trái, vẽ lên mặt hắn vậy. Và Chúa ơi, cái trán mới đã làm sao. Bao nhiêu gạch, dao,chai lọ và những thứ vụ ẩu đả đầy đủ lý do khác, theo thời gian đã táng vào cái mặt phẳng căng đét đó mà không hề gây hư hại gì, chỉ để lại những vệt lõm mờ giữa các lỗ chân lông sâu hoắm, lưa thưa. Chúng là những lỗ chân lông sâu nhất và thưa nhất mà tôi đã từng thấy trên da người, khiến tôi nhớ đến khu lỗ gôn của sân gôn địa phương ở Dalbeattie vào cuối mùa hè khô hạn, dài dặc năm 76. Giờ chuyển sang hai bên đầu. Tai của Rayner rõ đã bị cắn rời từ lâu và rồi lại được phết vào cái thành đầu ấy, bởi vì cái tai trái toàn toàn bị lộn ngược trên xuống dưới hay trong ra ngoài, hoặc là một kiểu gì đó khiến ta phải nhìn chăm chú vào hồi lâu rồi mới nghĩ ra “ồ, đó là cái tai”. Và trên hết, Rayner mặc áo khoác da màu đen bên ngoài áo đen cổ lọ, nói thế cho rõ nếu anh vẫn chưa hình dung rõ. Nhưng hẳn anh đã mường tượng rõ được hắn. Kể cả khi Rayner quấn lụa mỏng quanh người và cài hoa lan sau mỗi vành tai, người qua đường yếu bóng vía cũng vẫn sẽ nộp tiền cho hắn trước, sau đó mới băn khoăn tự hỏi liệu mình đã từng nợ hắn hay chưa. Thực tế là tôi chẳng hề nợ tiền hắn. Rayner thuộc một nhóm riêng mà tôi chẳng nợ nần gì cả, và giá như chuyện giữa chúng tôi tốt đẹp hơn một chút thì có lẽ tôi đã gợi ý cho hắn và nhóm của mình đeo chung một loại cà vạt đặc biệt giúp nhận diện nhau. Kiểu hoa văn hình dấu thánh chẳng hạn. Tuy nhiên, như tôi đã nói, chuyện giữa chúng tôi không tốt đẹp gì. Có lần, huấn luyện viên chiến đấu cụt một tay tên là Cliff (vâng , đúng vậy - ông ta huấn luyện đánh nhau tay không , và chỉ có một tay thôi - đời lắm khi thế đấy), đã bảo tôi rằng sự đau đớn là điều mà người ta tự gây ra cho bản thân mình. Người khác làm mọi thứ với anh - họ đánh anh, họ đâm anh, họ cố bẻ tay anh - nhưng nỗi đau là do chính anh. Bởi thế,Cliff ông huấn luyện viên đã từng ở Nhật hai tuần và luôn cảm thấy mình có bổn phận phải nhồi nhét những thứ vớ vẩn kiểu như vậy trong các giờ học, khẳng định, chúng ta luôn có sức mạnh để kiềm chế nỗi đau đớn của bản thân. Ba tháng sau, Cliff bị một mụ góa năm mươi lăm tuổi giết chết trong một vụ ẩu đả tại quán rượu, bởi thế tôi không còn cơ hội cùng ông ta kiểm chứng điều đó. Đau đớn là một sự kiện. Nó xảy tới với anh, và anh đương đầu với nó theo mọi cách có thể. Điều duy nhất tốt cho tôi là, cho tới giờ, tôi chưa hề rên la. Chẳng phải là dũng cảm gì, anh hiểu không, đơn giản là tôi chưa đạt được mức đó. Cho tới lúc này, Rayner và tôi đã quần nhau giữa các bức tường và đồ đạc, trong im lặng đẫm mùi mồ hôi của giống đực, chỉ thỉnh thoảng có một tiếng gằn gừ để thấy rằng cả hai đều đang tập trung. Nhưng giờ đây, cùng lắm là năm giây nữa thôi tôi sẽ xỉu đi hoặc cuối cùng cái xương sẽ rã ra - giờ là thời khắc lý tưởng để tôi tung ra một chiêu thức mới. Và âm thanh là tất cả những gì tôi có thể nghĩ ra. ... Mời các bạn đón đọc Tay Lái Súng Đa Cảm của tác giả Hugh Laurie.