Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hành Trình Về Phương Đông (Nguyên Phong)

Lời mở đầu

Trong cuộc sống vội vã, quay cuồng hiện tại, nhiều người đã mất đi niềm tin. Họ quan niệm rằng sống để thụ hưởng, thoả mãn các nhu cầu vật chất vì chết là hết. Không có Thượng đế hay một quyền năng siêu phàm gì hết. Các đây không lâu, một tờ báo lớn tại Hoa kỳ đã tuyên bố, “Thượng đế đã chết!”

Tác giả bài báo công khai thách đố mọi người đưa ra bằng chứng rằng Thượng đế còn sống. Dĩ nhiên, bài báo đó tạo nên một cuộc bàn cãi rất sôi nổi. Một nhà thiên văn học tại trung tâm nghiên cứu Palomar cũng cho biết, “Tôi đã dùng kính viễn vọng tối tân nhất, có thể quan sát các tinh tú xa trái đất hàng triệu năm ánh sáng mà nào có thấy thiên đường hay thượng đế cư ngụ nơi nào?” Sự ngông cuồng của khoa học thực nghiệm càng ngày càng đi đến chỗ quá trớn, thách đố tất cả mọi sự. Tuy nhiên, trong lúc khoa học đang tự hào có thể chứng minh, giải thích tất cả mọi sự, thì một sự kiện xảy ra:

Một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh cầm đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm đại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hoá học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước. Sau khi để một phái đoàn y sĩ do bác sĩ Sir Claude Wade khám nghiệm, ông ta còn chui vào một quan tài để bị chôn sống trong suốt 48 ngày. Khi được đào lên, ông ta vẫn sống như thường. Đạo sĩ còn biểu diễn nhiều việc lạ lùng, dưới sự kiểm chứng nghiêm khắc của các khoa học gia. Điều này gây sôi nổi dư luận lúc đó. Hội Khoa Học Hoàng Gia đã phải triệu tập một uỷ ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí. Phái đoàn khoa học đã đặt ra những tiêu chuẩn rõ rệt để giúp họ quan sát với một tinh thần khoa học tuyệt đối. Không chấp nhận bất cứ một điều gì nếu không có sự giải thích rõ ràng, hợp lý. Để soạn thảo bản tường trình, mỗi khoa học gia trong phái đoàn phải tự mình ghi nhận những điều mắt thấy, tai nghe vào sổ tay cá nhân. Sau đó, tất cả cùng nhau so sánh chi tiết và kiểm chứng cẩn thận. Chỉ khi nào tất cả đều đồng ý thì điều đó mới được ghi nhận vào biên bản chính. Điều này đặt ra để bảo đảm cho sự chính xác, không thành kiến đến mức tối đa. Tất cả những điều gì xảy ra mà không có sự giải thích khoa học, hợp lý đều bị loại bỏ.

Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Giáo sư Spalding đã cho biết, “Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người Tây phương nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người Tây phương phải quay về Đông phương để trở về với quê hương tinh thần.” Điều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các khoa học gia bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều chứng kiến. Sau đó ít lâu, trưởng phái đoàn, giáo sư Spalding đã cho xuất bản bộ sách, “Life and teachings of Masters of the East” và nó đã gây ra một dư luận hết sức sôi nổi. Người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn, thì được biết họ đã rời bỏ Âu châu để sống đời tu sĩ trong dãy tuyết sơn. Tuy thế, ảnh hưởng cuốn sách này đã tạo hứng khởi cho nhiều người khác trở qua Ấn độ để kiểm chứng những điều ghi nhận của phái đoàn. Thiên ký sự của Sir Walter Blake đăng trên tờ London Scientific cũng như loạt điều tra của ký giả Paul Bruton, Max Muller đã vén lên tấm màn huyền bí của Đông phương và xác nhận giá trị cuộc nghiên cứu này. Tìm mua: Hành Trình Về Phương Đông TiKi Lazada Shopee

Ấn độ là xứ có rất nhiều tôn giáo. Tôn giáo gắn liền với đời sống và trở nên một động lực rất mạnh làm chủ mọi sinh hoạt người dân xứ này. Người Ấn thường tự hào rằng văn hoá của họ là một thứ văn minh tôn giáo và dân xứ này được thừa hưởng một kho tàng minh triết thiêng liêng không đâu có. Vì thế Hội Khoa Học Hoàng Gia đã bảo trợ cho phái đoàn đến Ấn độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này.

Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thoả mãn hay học hỏi điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lập đi lập lại những điều đã ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hoá huyền thoại để đề cao văn hoá xứ họ.

Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt. Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là hiền triết (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn độ giáo (Hinduism) không có một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ. Ấn giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo Âu châu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều xảy ra rất thường, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại một kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rồi rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa Học

Hoàng Gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lý nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hoá Ấn độ và Âu châu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.

Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares. Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bỗng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngã. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bả á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên “cò mồi” đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang mãi mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời:

- Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt.

Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng có đông giáo đồ vì họ biết thu tập đệ tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số “từ chương” trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?”

Giáo sư Spalding ngạc nhiên:

- Tại sao ông biết rõ như thế?

Người Ấn mỉm cười:

- Các ông đã bàn cãi với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về Âu châu và kết luận rằng Á châu chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.

Giaó sư Spalding mất bình tĩnh:

- Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà?

Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh:

- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc thánh kinh, “Hãy gõ cửa, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi sẽ gặp”. Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.”

Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say vừa tỉnh. Toàn thân ông như rung động bởi một luồng điện cao thế.

Ông lắp bắp:

- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thi, làng mạc xứ Ấn…

Người Ấn nghiêm nghị trả lời:

- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn bao phủ bởi dẫy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự đi tìm chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.

Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding:

- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng chấn sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…

Giaó sư Spalding thắc mắc:

- Ông vừa dùng danh từ Chân sư, vậy chứ Chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?

- Nếu ông tin ở thuyết tiến hoá của Darwin, thì tôi xin tóm tắt: “sự tiến hoá của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hoá; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…”

- Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?

Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu:

- Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải mục đích tối hậu của con đường đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Gỉai Thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà đức Jesus là một.

Giáo sư Spalding cãi:

- Nhưng chúa Jesus đã từng làm các phép lạ.

Người Ấn bật cười trả lời:

- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng chúa Jesus làm vậy vào mục đích khoe khoang hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hoá những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.

Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người Tây phương đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Thế tại sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng?

Người Ấn nghiêm nghị:

- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng?

Nếu đức Phật hay đấng “Christ” hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin sao? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biễu diễn để lôi cuốn tín đồ nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn?

- Nhưng….nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu?

Người Ấn mỉm cười:

- Vì không biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại? Nếu tôi quả quyết rằng đấng “Christ” vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có tin không? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả không dễ gì chúng ta hiểu thấu.

Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng, căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.

Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:

- Lúc nãy bạn nói rằng có một vị chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không?

- Bạn thân mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.

Nói xong, người Ấn độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ thành phố BenaresDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyên Phong":Bên Rặng Tuyết SơnĐường Mây Qua Xứ TuyếtHoa Trôi Trên Sóng NướcMinh Triết Trong Đời SốngNgọc Sáng Trong Hoa SenHành Trình Về Phương ĐôngTrở Về Từ Cõi SángTử Thư Tây TạngMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 1Dấu Chân Trên CátHoa Sen Trên TuyếtMột Làn Gió Tinh KhôiMuôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 2Muôn Kiếp Nhân Sinh - Tập 3

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hành Trình Về Phương Đông PDF của tác giả Nguyên Phong nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Luận Về Nhân Quả (Chơn Quang)
LỜI GIỚI THIỆU Sau khi đọc tập "Luận về Nhân Quả" của Chơn Quang, chúng tôi có gợi ý và nhuận lại chính xác để đúng với luật Nhân Quả mà chúng tôi đã nhận ra trong lúc vượt qua các ấm. Kinh nghiệm thấy biết Nhân Quả như thế nào chúng tôi đều góp ý như thế ấy để làm sáng tỏ đường đi lối về của nó, để giúp mọi người không còn mơ hồ, mê tín trong cuộc sống để giải thoát khỏi nanh vuốt của quỷ thần mà từ lâu đã tạo sợ hãi, khổ đau cho loài người. Ở đây, sự góp ý của chúng tôi không tác ý chống báng một pháp môn nào, một tôn giáo nào hoặc một tông phái nào, mà chỉ biết nêu ra một sự thật để xác định mục đích giải thoát chân thật của đạo Phật để không bị ảnh hưởng của bất cứ một tôn giáo hoặc một sự vô ý thức nào làm lệch lạc Phật Pháp. Nhân Quả là một định luật rất công bằng cho xã hội, một lợi ích lớn lao cho thế gian, một Đạo Đức sâu sắc, mầu nhiệm... Mọi người chúng ta cần thấu hiểu rõ ràng, lấy đó làm kim chỉ nam để rèn luyện cho mình tạo một đời sống đầy đủ chơn hạnh phúc. Tìm mua: Luận Về Nhân Quả TiKi Lazada Shopee Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ thấy rõ ràng đời sống của mình có hạnh phúc hay đau khổ đều do ở chính mình tạo nên. Đọc "Luận về Nhân Quả" chúng ta sẽ thấy nhân đâu quả đó, do vậy chúng ta sẽ hướng tâm mình đến chân thiện mỹ. Đọc "Luận về Nhân Quả" chúng ta sẽ thấy lợi ích thiết thực bằng cách vượt qua tất cả khổ đau, phiền não thường xảy ra trong cuộc đời. Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ không làm những điều ác, luôn luôn tăng trưởng những điều lành, nhờ thế cuộc đời của quý vị sẽ đạt được an vui và hạnh phúc. Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ không còn sợ hãi, lo ngại về thế giới quỷ thần, vì thế giới này là do tưởng ấm của quý vị lưu xuất, thậm chí đến các cõi trời, Atula, địa ngục,... cũng đều do tưởng ấm mà có. Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ không còn sợ hãi trước bùa chú, thần linh, pháp thuật và sẽ tự tin hơn ở chính mình để không còn bị mê mờ tâm trí, bị gạt gẫm mất của mất tiền một cách vô ích. Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ không bị lường gạt bằng các trò xem quẻ coi tay, nhìn tướng, đoán vận mạng, chọn ngày tốt xấu, xem sao giải hạn, cúng bái quỷ thần, cầu an, cầu siêu,... vì Nhân Quả là định luật công bằng nhất của muôn loài cho nên những việc làm trên là phi Nhân Quả, phi lý và không công bằng. Rõ lý Nhân Quả, quý vị cẩn thận giữ gìn mọi hành động về thân, khẩu, ý bởi vì một hành vi dù vô tình cũng không thoát khỏi quả báo, vì bay lên trời hay chui xuống đất hay dẫu cho thành Phật thì cũng không thoát khỏi bị đền trả. Quyển sách có giá trị thực tế cho đời lẫn đạo, giúp quý vị nghiên cứu về lý Nhân Quả Nghiệp báo một cách cơ bản hơn đồng thời phân tích một cách sâu sắc hơn về các giáo điều ngoại đạo, kể cả Bà La Môn giáo, Tiên đạo, Khổng đạo và các triết thuyết khác đã tấn công và xâm nhập Phật giáo Đại thừa về mọi phía. Giá trị của tập sách là diễn đạt tiến trình của Nhân Quả thế gian, xuất thế gian và Bồ tát đạo. Nội dung còn chủ trương hợp nhất Nguyên thủy và Đại thừa đồng thời chứng minh Nguyên thủy và Đại thừa là một. Quyển sách có một giá trị tinh thần rất lớn. Chơn Quang có một ngòi bút nhận định Nhân Quả sâu sắc và tế nhị, nêu cao ngọn đuốc chánh kiến Phật pháp làm sáng tỏ chân lý Phật dạy. Đọc tập sách này quý vị có dịp thưởng thức những câu chuyện đầy thú vị về Nhân Quả mà Chơn Quang đã khéo léo trình bày, luận giải rất sâu sắc và tỷ mỷ. Quyển sách này dành riêng cho sự phán đoán của quý vị. Riêng phần chúng tôi khi đọc "Luận về Nhân Quả" thấy có một lợi ích thiết thực cho mọi người trong mọi giới của xã hội xin giới thiệu đến quý vị độc giả. Đây không phải là quyển sách đọc một lần, càng đọc quý vị càng thấm thía sâu sắc hơn và nhìn lại cuộc đời mình, càng đọc quý vị càng thấy cần tạo cho mình một lối sống an vui và hạnh phúc chân thật, càng đọc quý vị càng thấy đường giải thoát của Đạo Phật không phải là khó đi. Chơn Như, ngày 20 tháng 10 năm 1988 Tỳ kheo Thích Thông Lạc Kính ghi TỰA Luật Nhân Quả Nghiệp báo đã được nói đến tại Ấn Độ trước khi Đức Phật ra đời, và nó trở thành một giáo lý quan trọng của đạo Phật. Điều này nói lên hai ý nghĩa: Một, những Đức Phật quá khứ, những vị Bích Chi Phật đã từng tuyên giảng về Nghiệp báo và giáo lý này lan truyền đến Phật Thích Ca. Hai, đối với những giáo lý có sẵn, nếu là chân lý, luôn luôn được đạo Phật chấp nhận và phát huy, nếu phi chân lý, sẽ bị đạo Phật loại trừ. Đây là tinh thần khách quan bao dung của đạo Phật. Vì nhận thấy tầm quan trọng trong việc nhận thức đường đi của Nhân Quả cho Đạo Đức của xã hội, nhất là Phật tử, nên chúng tôi chẳng ngại sự thiển cận của mình, đã cố gắng phân tích mọi khía cạnh của luật Nhân Quả để góp ý kiến trong kho tàng văn hóa của Đạo Phật. Nhưng dĩ nhiên sự phân tích này không thể nào hoàn chỉnh, mong mọi người thứ lỗi cho chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu viết luận bản này trước khi đến nương với thầy trụ trì tu viện Chơn Như Thích Thông Lạc, và hoàn thành luận bản này tại đây với sự dạy bảo góp ý rất nhiều của Người. Chúng tôi xin cảm ơn những tác giả mà chúng tôi có trích những đoạn vào luận bản mặc dù chúng tôi không có điều kiện để tìm gặp trực tiếp, nhất là Hòa Thượng Thích Minh Châu với tạng kinh Nikaya vô giá. Công đức này thuộc về những vị thầy đã dạy bảo nuôi nấng chúng tôi, thuộc về những huynh đệ yêu mến đã chung sống đùm bọc chúng tôi, thuộc về các đạo hữu đã hỗ trợ chúng tôi, và thuộc về tất cả chúng sinh trong pháp giới. Chơn Như, Đông 1988. Chơn QuangĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Nhân Quả PDF của tác giả Chơn Quang nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Luận Về Nhân Quả (Chơn Quang)
LỜI GIỚI THIỆU Sau khi đọc tập "Luận về Nhân Quả" của Chơn Quang, chúng tôi có gợi ý và nhuận lại chính xác để đúng với luật Nhân Quả mà chúng tôi đã nhận ra trong lúc vượt qua các ấm. Kinh nghiệm thấy biết Nhân Quả như thế nào chúng tôi đều góp ý như thế ấy để làm sáng tỏ đường đi lối về của nó, để giúp mọi người không còn mơ hồ, mê tín trong cuộc sống để giải thoát khỏi nanh vuốt của quỷ thần mà từ lâu đã tạo sợ hãi, khổ đau cho loài người. Ở đây, sự góp ý của chúng tôi không tác ý chống báng một pháp môn nào, một tôn giáo nào hoặc một tông phái nào, mà chỉ biết nêu ra một sự thật để xác định mục đích giải thoát chân thật của đạo Phật để không bị ảnh hưởng của bất cứ một tôn giáo hoặc một sự vô ý thức nào làm lệch lạc Phật Pháp. Nhân Quả là một định luật rất công bằng cho xã hội, một lợi ích lớn lao cho thế gian, một Đạo Đức sâu sắc, mầu nhiệm... Mọi người chúng ta cần thấu hiểu rõ ràng, lấy đó làm kim chỉ nam để rèn luyện cho mình tạo một đời sống đầy đủ chơn hạnh phúc. Tìm mua: Luận Về Nhân Quả TiKi Lazada Shopee Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ thấy rõ ràng đời sống của mình có hạnh phúc hay đau khổ đều do ở chính mình tạo nên. Đọc "Luận về Nhân Quả" chúng ta sẽ thấy nhân đâu quả đó, do vậy chúng ta sẽ hướng tâm mình đến chân thiện mỹ. Đọc "Luận về Nhân Quả" chúng ta sẽ thấy lợi ích thiết thực bằng cách vượt qua tất cả khổ đau, phiền não thường xảy ra trong cuộc đời. Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ không làm những điều ác, luôn luôn tăng trưởng những điều lành, nhờ thế cuộc đời của quý vị sẽ đạt được an vui và hạnh phúc. Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ không còn sợ hãi, lo ngại về thế giới quỷ thần, vì thế giới này là do tưởng ấm của quý vị lưu xuất, thậm chí đến các cõi trời, Atula, địa ngục,... cũng đều do tưởng ấm mà có. Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ không còn sợ hãi trước bùa chú, thần linh, pháp thuật và sẽ tự tin hơn ở chính mình để không còn bị mê mờ tâm trí, bị gạt gẫm mất của mất tiền một cách vô ích. Đọc "Luận về Nhân Quả" quý vị sẽ không bị lường gạt bằng các trò xem quẻ coi tay, nhìn tướng, đoán vận mạng, chọn ngày tốt xấu, xem sao giải hạn, cúng bái quỷ thần, cầu an, cầu siêu,... vì Nhân Quả là định luật công bằng nhất của muôn loài cho nên những việc làm trên là phi Nhân Quả, phi lý và không công bằng. Rõ lý Nhân Quả, quý vị cẩn thận giữ gìn mọi hành động về thân, khẩu, ý bởi vì một hành vi dù vô tình cũng không thoát khỏi quả báo, vì bay lên trời hay chui xuống đất hay dẫu cho thành Phật thì cũng không thoát khỏi bị đền trả. Quyển sách có giá trị thực tế cho đời lẫn đạo, giúp quý vị nghiên cứu về lý Nhân Quả Nghiệp báo một cách cơ bản hơn đồng thời phân tích một cách sâu sắc hơn về các giáo điều ngoại đạo, kể cả Bà La Môn giáo, Tiên đạo, Khổng đạo và các triết thuyết khác đã tấn công và xâm nhập Phật giáo Đại thừa về mọi phía. Giá trị của tập sách là diễn đạt tiến trình của Nhân Quả thế gian, xuất thế gian và Bồ tát đạo. Nội dung còn chủ trương hợp nhất Nguyên thủy và Đại thừa đồng thời chứng minh Nguyên thủy và Đại thừa là một. Quyển sách có một giá trị tinh thần rất lớn. Chơn Quang có một ngòi bút nhận định Nhân Quả sâu sắc và tế nhị, nêu cao ngọn đuốc chánh kiến Phật pháp làm sáng tỏ chân lý Phật dạy. Đọc tập sách này quý vị có dịp thưởng thức những câu chuyện đầy thú vị về Nhân Quả mà Chơn Quang đã khéo léo trình bày, luận giải rất sâu sắc và tỷ mỷ. Quyển sách này dành riêng cho sự phán đoán của quý vị. Riêng phần chúng tôi khi đọc "Luận về Nhân Quả" thấy có một lợi ích thiết thực cho mọi người trong mọi giới của xã hội xin giới thiệu đến quý vị độc giả. Đây không phải là quyển sách đọc một lần, càng đọc quý vị càng thấm thía sâu sắc hơn và nhìn lại cuộc đời mình, càng đọc quý vị càng thấy cần tạo cho mình một lối sống an vui và hạnh phúc chân thật, càng đọc quý vị càng thấy đường giải thoát của Đạo Phật không phải là khó đi. Chơn Như, ngày 20 tháng 10 năm 1988 Tỳ kheo Thích Thông Lạc Kính ghi TỰA Luật Nhân Quả Nghiệp báo đã được nói đến tại Ấn Độ trước khi Đức Phật ra đời, và nó trở thành một giáo lý quan trọng của đạo Phật. Điều này nói lên hai ý nghĩa: Một, những Đức Phật quá khứ, những vị Bích Chi Phật đã từng tuyên giảng về Nghiệp báo và giáo lý này lan truyền đến Phật Thích Ca. Hai, đối với những giáo lý có sẵn, nếu là chân lý, luôn luôn được đạo Phật chấp nhận và phát huy, nếu phi chân lý, sẽ bị đạo Phật loại trừ. Đây là tinh thần khách quan bao dung của đạo Phật. Vì nhận thấy tầm quan trọng trong việc nhận thức đường đi của Nhân Quả cho Đạo Đức của xã hội, nhất là Phật tử, nên chúng tôi chẳng ngại sự thiển cận của mình, đã cố gắng phân tích mọi khía cạnh của luật Nhân Quả để góp ý kiến trong kho tàng văn hóa của Đạo Phật. Nhưng dĩ nhiên sự phân tích này không thể nào hoàn chỉnh, mong mọi người thứ lỗi cho chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu viết luận bản này trước khi đến nương với thầy trụ trì tu viện Chơn Như Thích Thông Lạc, và hoàn thành luận bản này tại đây với sự dạy bảo góp ý rất nhiều của Người. Chúng tôi xin cảm ơn những tác giả mà chúng tôi có trích những đoạn vào luận bản mặc dù chúng tôi không có điều kiện để tìm gặp trực tiếp, nhất là Hòa Thượng Thích Minh Châu với tạng kinh Nikaya vô giá. Công đức này thuộc về những vị thầy đã dạy bảo nuôi nấng chúng tôi, thuộc về những huynh đệ yêu mến đã chung sống đùm bọc chúng tôi, thuộc về các đạo hữu đã hỗ trợ chúng tôi, và thuộc về tất cả chúng sinh trong pháp giới. Chơn Như, Đông 1988. Chơn QuangĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Luận Về Nhân Quả PDF của tác giả Chơn Quang nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nghi Lễ Phật Giáo (Thích Hoàn Thông)
Mục Lục Đôi lời gợi ý 1. PHẦN TIẾP DẪN Nhập mạch (liệm) Thành phục (phát tang) Tìm mua: Nghi Lễ Phật Giáo TiKi Lazada Shopee Phu thê thọ tang Khai kinh Cáo đạo lộ Tiến vong: Bài I Bài II Phụng Minh Sanh cáo từ tổ Thiết Minh Sanh Tụng Tịnh độ Phát hành Từ hậu thổ An sàng Khai mộ môn Bùa trấn mả 2. PHẦN TRUY TIẾN Trình tổ Nghinh mộ biên (ra mả rước vong về) Tiến linh (cúng ông bà) Tiến vong (cúng cơm vong) Cúng vong (bài nghĩa) Khai chung bản Khai kinh Tụng kinh Cúng ngọ Trừ phục (xả tang, trừ linh) Lễ cúng dường: - Văn tác bạch kỳ siêu cho cha, mẹ - Văn đáp từ kỳ siêu cho cha, mẹ - Văn tác bạch kỳ siêu cho phu, thê - Văn đáp từ kỳ siêu cho phu, thê Nghi thức thăng tòa thuyết pháp Hoàn kinh Nghi cúng cô hồn, tế chiến sĩ Tụng kinh Cúng kỵ nhựt Lễ vớt vong kỳ siêu Kinh Di Đà 3. PHẦN CẦU AN Chúc Thánh nghi Cúng sao hội Sớ cúng sao Nghi thức lễ thành hôn Phép thọ giới Bát quan trai: Thọ có giới sư truyền Phép xả Tự thọ Phép xả Kỷ luật trong 24 giờ Nghi phóng sanh Nghi thức an vị: Nghi cổ Nghi mới Nghi tiến cúng Giác linh Lục tuần chúc thọ 4. PHẦN LINH TINH TẠP DỤNG Cách xưng hô Chọn ngày: - Thập nhị địa chi - Thập thiên can - Ngũ hành - Lục giáp - 12 địa chi thuộc ngũ hành - Địa chi thuộc 8 phương Bát quái - Địa chi thuộc Âm, Dương - Địa chi phân Đông mạng, Tây mạng - Thiên can thuộc Ngũ hành, Ngũ phương - Ngũ hành tương sanh - Ngũ hành tương khắc - Ngũ hành: Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tử - Địa chi hạn, kỵ: Tam hạp, Lục hạp, Chi đức hạp, Tứ kiểm hạp, Địa đới, Tuế tinh, Tứ tuyệt, Lục hại,Tứ xung, Lục xung, Lục hình - Thiên can hạp khắc - Vòng Lục giáp - Nhận định vị trí 12 chi và 6 con giáp trên hai bàn tay - Đọc thuộc các con số Cách tính tuổi - Tìm vòng con giáp để tìm can Cách tìm mạng Coi giờ liệm - Giờ trùng tang liên táng - Liệm chôn kỵ người còn sống - Tùy ngày lựa giờ tốt để liệm - Tính giờ Nguyệt tiên Lựa ngày giờ an táng Cách chọn ngày, giờ Huỳnh đạo: - Ngày Huỳnh đạo - Giờ Huỳnh đạo - Thái tuế áp bổn mạng - Coi ngày xả tang - Bảng định giờ - Cách chiếm giờ đại kiết Bảng chọn ngày (quan trọng) Cách tìm cung: - Cung sanh (hay cung ký) - Cung phi Bát trạch: - Cách tìm cung phi bát trạch theo xưa - Cách tìm cung phi bát trạch theo nay Cách thứ nhứt Cách thứ hai Cách thứ ba Cách thứ tư - Cách tìm các cung biến - Cữu tinh ngũ hình - Cữu tinh chế phục - Hôn nhơn, tu tạo kiết hung biểu - Tám cung kiết hung ca - Bảng lập thành phi cung Bát trạch - Cung phi BÁT TỰ Cách tìm phi cung Bát tự Bảng lập thành phi cung Bát tự - Cung biến kiết hung của Bát tự Cung tử - Bảng lập thành về cung tử Bàn tay Huỳnh long thệ-thế Coi bịnh: Lâu mạnh, mau mạnh hay chết Hóa cầm chưởng Ngày hung không kỵ - Vài bài thơ cổ: Ngày sát chủ Sát chủ Âm Ngày Thọ-tử Sát chủ mùa Phép thả đòn tay nhà - Tìm trực chủ nhà - Trực thuộc ngũ hành Bàn tay Hoanh ốc và Kim lâu Tuổi hạp kỵ ngày, tháng Bảng lập thành ngày nào kỵ tuổi nào Phép chọn người xuất-gia Phép chọn ngày xuống tóc và thâu đồ: - Ngày xuống tóc kiết hung - Ngày Truyền pháp, thâu đồ kiết hung Phép tính sao, hạn - Coi sao - Sao nào cúng đêm nào - Coi hạn - Bảng lập thành về sao - Bảng lập thành về hạn - Ảnh hưởng tốt xấu của mỗi sao - Ảnh hưởng tốt xấu của các hạn Bao nhiêu tuổi gặp việc tốt xấu ra sao Liễn tang Vài loại thước cần nên biết Bàn về 3 kiết tinh: Sát cống, trực tinh và Nhơn chuyên Đổng Công Tuyển Trạch Nhựt Yếu Lãm Ngày hung kỵ dùng Lữ-Tài hiệp hôn Phương hướng tu tạo: - Về hướng nhà - Cách đặt Lò, Bếp: Hỏa môn (miệng lò) Táo tòa (vị trí đặt lò) Điều cấm kỵ nên tránh - Phép để cửa: Đại môn 8 đồ Bát quái lập thành Huỳnh tuyền quyết Đô thiên Xuyên tỉnh quyết (phép đào giếng) Phép tính sanh trai hay gái Chọn ngày đám cưới cần chú ý - Bảng lập thành ngày Bất tương Những tuổi bị lương duyên trắc trở Chọn ngày sửa chữa, xây cất nên biết Vài nguyên tắc chọn ngày tốt Cách làm tương Huế Bát san giao chiến Bát san tuyệt mạng Hung niên (kỵ cưới gả) Tháng đại lợi Tháng cô Hư sát Ích tài thối tài Tuổi phá sản vợ Tuổi phá sản chồng Coi nghề nghiệp Năm tam tai Ngày thánh đản Ngày trai kỳ Các ngày kỷ niệm Cách viết bài vị sao hạnĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nghi Lễ Phật Giáo PDF của tác giả Thích Hoàn Thông nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cẩm Nang Tu Ðạo (Quảng Khâm)
Mục Lục Dẫn Nhập Tiểu Sử Hòa Thượng Quảng Khâm Chương I: Tu Hành 1. Tu Hành: Tìm Lại "Bản Lai Diện Mục" Tìm mua: Cẩm Nang Tu Ðạo TiKi Lazada Shopee 2. Cục Ðá Cột Chân Người Tu A. Tham, Sân, Si B. Ngã Mạn C. Thiện Ít, Ác Nhiều 3. Nẻo Chánh Ðể Tu Hành A. Trừ Trướng B. Xã Bỏ Tâm Phân Biệt C. Tâm Kiên Cố D. Canh Gác Sáu Căn E. Tâm Trường Viễn 4. Bản Sắc Của Việc Tu Chương II: Khổ Hạnh 1. Vững Lòng Tin, Tu Khổ Hạnh A. Khuyến Khích Tu Hành B. Hạnh Nguyện 2. Làm Sao Tu Khổ Hạnh 3. Buông Xã Túi Da Thối Này! Chương III: Rõ Nghĩa 1. Hiểu Biết, Lập Hạnh 2. Công Phu Khuya và Tối 3. Gõ Chuông Chương IV: Pháp Môn Tịnh Ðộ 1. Tây Phương Có Phật Hiệu A-Di-Ðà 2. Niệm Phật 3. Niệm Phật Có Thể Thấy Phật Không? 4. Thầy Quảng-Hóa Tới Tham Phỏng Chương V: Việc Làm Ba-La-Mật 1. Thẳng Thắn 2. Nhẫn Nại 3. Khéo Léo Chương VI: Hạnh Xuất Gia 1. Xuất Gia Ðể Làm Gì? 2. Con Ðường Siêu Thoát Của Người Tu A. Trước và Sau Khi Thọ Giới B. Vất Bỏ Danh Lợi C. Điều Cái Tâm Nầy 3. Tự Ðộ A. Chùa Thập Phương B. Chỗ Lầm Lẫn C. Thăm Viếng Học Hỏi D. Quan Hệ Giữa Kẻ Đồng Tu E. Nhẫn Nhục F. Một Niệm Cách Biệt 4. Ðộ Người A. Biết điều tốt của thí chủ B. Tiếp đãi tín đồ C. Sự nghiệp của Bồ-tát 5. Ðiểm Tốt Của Việc Tu 6. Ðạo Cao Một Tấc, Ma Cao Một Thước 7. Ni Chúng Chương VII: Xuất Gia Và Tại Gia 1. Tại Gia 2. Xuất Gia: Báo Ðền Bốn Ân Lớn 3. Ở Ðời và Ði Tu Chương VIII: Cảnh Giới Của Chúng Sanh 1. Tâm Chúng Sanh 2. Thói Quen, Tập Khí 3. Danh Lợi và Chậm Chạp Chương IX: Nhân Quả Và Sám Hối 1. Nhân Quả 2. Sám Hối Chương X: Lời Cuối 1. Thời Ðại Ðã Thay Ðổi Rồi! 2. Khai Thị - Ngộ Nhập 3. Pháp Ngữ 4. Lời Của Thầy Truyền-Văn Tám Quy Luật của Viện Phiên Dịch Kinh Ðiển ________________________ Dẫn Nhập Tập Cẩm-Nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh, khiến ta giác ngộ như Ngài. Kinh Hoa-Nghiêm dạy rằng: "Chúng sanh như người bệnh, Thiện-tri-thức như bác-sĩ, lời dạy của Thiện-tri-thức như thuốc hay. Thuốc hay thì đắng, song trị lành được bệnh." Bởi vậy, trong tập Cẩm-Nang này, bạn sẽ thấy mỗi lời dạy của Ngài đều vô cùng sâu sắc, trực tiếp song đơn giản; ngắn gọn, dễ hiểu mà hàm súc. Ðây là điểm then chốt dị biệt giữa lời nói của người đã ngộ Ðạo và kẻ chưa tỉnh giác. Kẻ còn mê muội thì cần lời giảng cao xa, sâu sắc, dùng trò chơ trí thức chữ nghĩa, song thiếu thực dụng nội tại. Những lời dạy của Hòa-Thượng QuảngKhâm là những lời mà không ai có thể bắt chước đặng, bởi vì những lời ấy được lưu xuất từ một nội tâm thâm chứng và một cuộc đời chân thật thực nghiệm, "sống" trong sự thâm chứng ấy mỗi ngày. Ngài chỉ ăn một bửa ngọ và chỉ ăn trái cây; ngủ thì ngủ ngồi; áo mặc thì chỉ một vài bộ. Ngài rất ít lời, không nói chuyện dông dài, bàn luận thế sự tạp nhạp. Cả đời, vật sở hữu của Ngài hoàn toàn không! Chẳng có xe hơi, chẳng có trương mục ngân hàng hay thẻ tín dụng, nhà riêng, Tivi, tủ lạnh, radio. tất cả Ngài đều không có. Chính bởi vì, và chỉ có, cuộc sống rỗng không như vậy nên Ngài mới thực sự an trụ trong cảnh giới Chân Không của tự tâm. Ðây thật là điều quý báu để chúng ta, kẻ hậu học, nhất là người xuất gia, phản tỉnh và thức tỉnh. Ðối tượng trọng tâm của tập Cẩm-Nang này là người xuất gia, song hoàn toàn ứng dụng cho kẻ tại gia. Khi đọc Cẩm-Nang, bạn hãy hình dung như có một vị Tăng già hiền từ, chín mươi tuổi ngoài, đang nói chuyện cùng mình vậy. Sách này, đọc là để áp dụng; đây không phải là tiểu thuyết; truyện, hay sách nghiên cứu để tăng kiến thức. Khi được đọc để áp dụng như thuốc lành trị bệnh hay như gậy đỡ chân, thì tập Cẩm-Nang này sẽ giúp chúng ta đổi cái nhìn, sửa thói hư tật xấu, trừ suy nghĩ lầm lẫn, hướng dẫn bước tu đúng đắn. Khi đó, ánh sáng bất tận của Chánh Pháp sẽ chắc chắn tràn ngập nơi nơi - trong tâm bạn và những gì quanh bạn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cẩm Nang Tu Ðạo PDF của tác giả Quảng Khâm nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.