Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xác Không Đầu

Cơ thể bị chia cắt của một người đàn ông được tìm thấy Trong Kênh Saint-Martin. Gần với hiện trường, Maigret gặp chủ nhân ngầm của một quán cà phê, Aline Calas, và tự hỏi liệu cơ thể trong con kênh có phải là của chồng cô không. Như thường lệ, bản năng của Maigret là chính xác. Buộc phải điều tra thêm nhưng với thời gian trên tay khi anh đã giải quyết xong vụ án, Maigret bắt đầu đào sâu vào quá khứ của tất cả những ai quan tâm. Không giống như hầu hết các hư cấu thám tử, nơi tìm kiếm giải pháp là trọng tâm của câu chuyện, cuốn tiểu thuyết này khám phá các động cơ khác nhau có thể dẫn đến phạm tội. Đây là lý do tự thù hận đằng sau những hành động theo đó bạn có thể làm tổn thương và làm tổn thương những người thân thiết nhất với bạn. Simenon, thông qua Maigret, tuyệt vọng cố gắng để tìm ra ý nghĩa thực sự và tham vọng, tin rằng sự hiểu biết có thể dẫn đến sự tha thứ và tha thứ sẽ làm giảm ổ đĩa để phạm tội. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. *** Khi trời vừa rạng sáng thì Jules Naud, người anh cả của hai anh em nhà Naud, xuất hiện trên sà lan, trước hết là cái đầu, tiếp đó đến đôi vai và sau cùng là tấm thân cao lều nghều của anh. Đưa tay lên vuốt mớ tóc màu sợi lanh chưa kịp chải, anh nhìn âu thuyền có bến cảng Jemmages ở bên trái và bến cảng Valmy bên phải. Anh vừa cuốn một điếu thuốc lá và châm hút trong buổi sáng còn se lạnh thì ngọn đèn của một quán rượu ở phố Recollets bật sáng. Mặt tiền của quán rượu có màu vàng khè. Popaul, chủ quán, mặc áo không cổ, tóc chưa chải, đang đứng ngoài vỉa hè để tháo những cánh cửa lùa. Jules đi trên tấm ván bắc làm cầu lên bờ và cuốn điếu thuốc thứ hai trong khi đó thì Robert, người em, cũng cao lớn như anh, đã thức giấc và lên trên boong tàu. Anh ta thấy Jules đang tì tay lên quầy hàng đợi chủ quán rót thêm rượu vào tách cà phê của anh.  Robert đang đợi đến lượt mình. Cùng với những cử chỉ như Jules, anh ta cũng cuốn một điếu thuốc lá. Khi người anh cả rời khỏi quán hàng thì người em cũng đã lên khỏi sà lan. Hai người gặp nhau ở giữa đường. - Ta cho nổ máy đây - Jules bảo người em trai. Có những ngày hai người không nói với nhau quá một chục câu theo kiểu ấy. Con tàu của họ mang tên Hai anh em. Họ đã lấy hai chị em sinh đôi của một gia đình sống trên bờ sông. Robert cũng tì tay lên quầy hàng của ông Popaul béo lùn và đợi chủ quán rót rượu. - Hôm nay đẹp trời - Popaul gợi chuyện. Qua cửa sổ, Robert thấy trời đã chuyển sang màu hồng. Những ống khói trên các nóc nhà bắt đầu hoạt động, sương giá đọng trên các mái nhà lợp bằng đá bảng hoặc bằng ngói bắt đầu tan. Người ta nghe thấy tiếng nổ của đầu máy đi-ê-zen. Phía sau sà lan phụt ra những luồng khói đen. Robert đặt tiền lên quầy hàng, cầm lấy chiếc mũ cát-két và đi khỏi quán rượu. Người phụ trách âu thuyền trong bộ đồng phục đã xuất hiện chuẩn bị cho việc mở cửa âu. Người ta nghe thấy những bước chân ở cảng Valmy nhưng không nhìn thấy người. Tiếng trẻ con bi bô trong những khoang tàu, nơi các bà mẹ đang chuẩn bị cà phê. Jules đang cúi xuống nhìn mặt nước ở cuối sà lan. Người em thấy như có chuyện gì không ổn. Sà lan chở đá xây dựng từ Beauvais về. Chuyến này đá chở nhiều hơn thường lệ một vài tấn. Đêm qua sà lan từ bên La Vilette để đi vào kênh đào Saint-Martin. Thông thường thì tháng Ba kênh đào có nhiều nước. Năm nay ít mưa nên bùn trong các con kênh sục lên khi sà lan đi qua. Những cánh cửa âu thuyền được kéo lên. Jules ngồi bên vòng quay của bánh lái. Người em lên bờ tháo neo. Chân vịt bắt đầu quay tít, những bọt nước có bùn nổi lên. Tì người vào cây sào, Jules đẩy sà lan tránh xa bờ kênh. Bỗng nhiên chân vịt khựng lại, tiếng máy nổ rú lên và Robert thấy Jules đang cúi xuống máy. Cả hai đều không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chân vịt không sát xuống đáy sông. Chắc chắn đã có vật gì mắc vào nó. Có thể là rác đã bị cuốn lên. Cầm một cây sào, Jules đến cuối sà lan và khuấy nước ở đấy lên. Chân vịt vẫn không nhúc nhích. Trong khi Jules đi tìm một chiếc móc bằng sắt thì Laurence từ khoang sà lan nhô đầu lên. - Có chuyện gì vậy? - Không biết. Cái móc bắt đầu làm việc. Vài phút sau đó thì Charles Dambois, người phụ trách âu thuyền, bước tới. Ông ta không hỏi han gì mà chỉ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu để hút. Trên bờ kênh, người ta thấy nhiều y tá và hộ lý vội vã tới phố Cộng Hoà để làm việc tại bệnh viện Saint-Louis. - Anh đã thấy vật đó chưa? - Đã thấy. - Một sợi dây cáp ư? - Không biết. Jules đã móc được vật ấy lên và chân vịt lại tiếp tục quay. Chiếc móc sắt được nhấc lên khỏi mặt nước và mắc vào đấy là một gói giấy báo buộc kỹ. Giấy báo ngâm nước đã mủn ra. Đấy là một cánh tay người, từ bả vai đến bàn tay, thịt đã xám lại như con cá chết. *** Depoil, hạ sĩ cảnh sát của khu phố Ba, đã hết phiên trực đêm ở bến cảng Jemmages, đang chuẩn bị ra về thì gặp Jules chạy tới. - Tôi ở âu thuyền Recollets cùng với chiếc sà lan Hai anh em. Chân vịt đã không quay được khi chúng tôi cho sà lan chạy và chúng tôi đã gỡ từ đó ra một cánh tay người. Depoil đã làm việc ở quận Mười mười lăm năm, có phản ứng nhanh nhạy của người cảnh sát nên anh nắm ngay sự việc. - Tay của đàn ông ư? - Depoil hỏi với vẻ hoài nghi. - Phải. Cánh tay đầy lông màu hung và... Thường thì người ta vớt được xác chết ở kênh đào Saint-Martin từ chân vịt của tàu thuyền. Hầu hết là xác nguyên vẹn, đại đa số là xác đàn ông, ví dụ như xác của một ông già lang thang quá chén hoặc xác của một thanh niên bị địch thủ cho một nhát dao rồi đẩy xuống dòng kênh. Xác chết bị chặt ra từng khúc cũng không phải là không có, một năm trung bình một hai vụ, mà hầu hết là phụ nữ. Depoil có thể kể ra từng vụ một. Chín phần mười họ đều là gái bán dâm, đi lượn lờ trên bờ kênh vào ban đêm. "Tội ác do những kẻ loạn dâm gây ra" - Báo cáo của anh thường kết luận như vậy. Cảnh sát biết rõ những kẻ năng lui tới chốn này, họ có cả một danh sách những kẻ đáng nghi ngờ. Chỉ cần một vài ngày là đủ để tóm cổ được tác giả của vụ án cướp của giết người hoặc tấn công địch thủ bằng vũ khí. - Anh đã mang nó lên bờ rồi chứ? - Depoil hỏi. - Cánh tay người ư? - Anh để nó ở đâu? Mời các bạn đón đọc Xác Không Đầu của tác giả Georges Simenon & Trần Bình (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Thế Hiểm Nghèo - Jonathan Kellerman
Lần nữa, chiều sâu tâm lý tội phạm và mặt trái đen tối của một thành phố hoa lệ đã góp phần tạo nên một tác phẩm xuất sắc của tác giả hàng đầu các sách bán chạy nhất của tờ New York Times - Jonathan Kellerman. Không ai có thể hiểu rõ về lĩnh vực rùng rợn này hơn là một văn sĩ, người "đã đưa các tiểu thuyết về bí ẩn tâm lý thành một hình thức nghệ thuật" (Theo Los Angeles Times Book Review). Và cũng không ai có thể chỉ đạo được một cuộc săn người nào đau đớn và hồi hộp hơn tiến sĩ Alex Delaware - Sherlock Holmes của tâm lý hiện đại. Một người phụ nữ trẻ tuổi ngà ngà hơi men đang tìm kiếm sự giúp đỡ trên con đường cao tốc vắng vẻ đã biến mất trong màn đêm tối đen như mực. Một giáo viên về hưu bị đâm đến chết giữa thanh thiên bạch nhật. Hai người phụ nữ bị giết chết sau giờ làm việc tại cửa hiệu làm đẹp trong một thị trấn nhỏ. Những hành động tàn nhẫn, biến thái và kỳ quặc này cùng vài điều khác nữa được liên kết lại với nhau chỉ duy nhất bằng cách thức kẻ sát nhân sử dụng các phương tiện di chuyển xa xỉ và sự thật đáng ngờ là hắn không hề có động cơ gây án. Như những câu chuyện trinh thám cực điểm, những tội ác này cần đến sự chú ý của thám tử Milo Turgis của Sở cảnh sát Los Angeles và cộng sự của ông trong những cuộc săn đuổi tội phạm - nhà tâm lý học Alex Delaware. Những chuyện bắt đầu từ vệt máu duy nhất trong một chiếc xe kín mui bị đánh cắp đã nhanh chóng bật mí theo hàng loạt các hướng kì lạ và bất ngờ, dẫn dắt Delaware và Turgis đi từ trung tâm của xã hội Los Angeles đến những góc cạnh điêu tàn của nó. Băng qua những con đường đầy những kẻ buôn bán đồ cũ và những đấu sĩ trong bộ quần áo phụ nữ, đến thành phố New York xa xôi, nơi cuộc điều tra đă làm tan chảy một vụ án vốn đóng băng đã lâu và vạch trần được một vụ án giết người kỳ lạ. Tên tội phạm tự thể hiện là một kẻ có thể nhanh chóng thay hình đổi dạng, thách thức mọi sự nhận dạng và để lại sau lưng những nhân chứng bàng hoàng cùng sự chết chóc. Còn Alex và Milo thì hào hứng đối đầu với bộ mặt thật của chứng cuồng sát. Những âm vang đầy mê hoặc, đầy quyến rũ và không chút nao núng mà chỉ có trong tiểu thuyết của Jonanthan Kellerman,Tình thế hiểm nghèođã thu hút sự chú tâm trọn vẹn ngay từ những tội ác hung hãn ban đầu cho đến kết thúc nghẹt thở của nó. *** Nhận định: "Một tác phẩm như chứa đầy chất kích thích." -People "Các tiểu thuyết của Jonathan Kellerman là một nỗi ám ảnh, một khi đã bắt đầu thì khó có thể dứt ra được." -Orlando Sentinel *** Tiểu thuyết gia Jonathan Kellerman sinh ngày 9-8-1949 tại Thành phố New York City, bang New York- Hoa Kỳ. Jonathan Kellerman xếp hạng nổi tiếng thứ 75314 trên thế giới và thứ 989 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng.  Jonathan Kellerman là một nhà tâm lý học người Mỹ, và tác giả đoạt giải Edgar và Anthony của nhiều tiểu thuyết hồi hộp bán chạy nhất. Tác phẩm của ông về tâm lý học bao gồm Savage Spawn: Những phản ánh về trẻ em bạo lực. Mời các bạn đón đọc Tình Thế Hiểm Nghèo của tác giả Jonathan Kellerman.
Tâm Nguyện Cuối Cùng - Lôi Mễ
Bản dịch mạng còn có tựa "Kẻ Tuẫn Tội", edit ThuTran. Theo dõi Tâm nguyện cuối cùng, người đọc vẫn nhận thấy một Lôi Mễ tỉ mỉ trong việc xây dựng cốt truyện với cấu trúc mê cung, truyện lồng truyện, bi kịch này nối liền lên bi kịch khác. Cô gái mất mẹ từ nhỏ cũng vào vụ án hai ba năm trước. Người cảnh sát già thời gian sống chỉ còn tính bằng ngày không có tâm nguyện nào hơn ngoài việc phá được vụ án hai ba năm trước bỏ ngỏ. Những sức ép cùng sự biến chất đến từ một bộ phận cảnh sát. Người đàn ông cô độc sống trong nhà tình thương bám víu vào nỗi đau quá khứ để tiếp tục sống những ngày cuối đời.... Vì vậy, dẫu sớm biết hung thủ là ai nhưng độc giả vẫn khó rời mắt khỏi trang sách bởi vẫn tầng tầng bí ẩn sau từng tình tiết. Và bởi tính đặc thù nghề nghiệp mà tác phẩm của Lôi Mễ không chỉ tỉ mỉ trong tình tiết mà còn tỉ mỉ trong tâm lý, cá tính nhân vật. Điều đó lần nữa được khẳng định ở Tâm nguyện cuối cùng với những lời thoại cùng sự phân tích nội tâm đi sâu vào ẩn khuất của nghề cảnh sát, tâm lý không những tội phạm còn của cảnh sát hay nạn nhân: “Điều khiến người ta ngạc nhiên là, Kỷ Càn Khôn không hề phản bác lại hắn. Sau khi suy nghĩ mấy giây, ông lại gật đầu ‘Mày nói đúng. Mày và tao, đều đáng chết’”. Nội dung, tình tiết của tác phẩm lớp lang, mạch lạc song lại không có nhiều đổi mới, thậm chí có phần dài dòng và có thể coi đây như một sự đuối sức của chính tác giả Lôi Mễ. Chất trinh thám tâm lý không “đậm đặc”, logic như Đề thi đẫm máu; chất hình sự bi thương lại chẳng thể với đến tầm Sông ngầm. Vẫn hình thức giết người liên hoàn quen thuộc nhưng vụ án không trọn vẹn của Lâm Quốc Đống vào hai mươi ba năm trước trong cuốn sách có quá nhiều “lỗ hổng”. Khác hoàn toàn với sự hoàn hảo không một kẽ hở từ thủ pháp gây án tới xóa dấu vết hiện trường trong năm đề thi được đánh dấu bằng máu tươi đỏ thẫm của Đề thi đẫm máu. Vẫn sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cảnh sát song Tâm nguyện cuối cùng không đẩy sự tha hóa đó đến tận cùng như Sông ngầm. Và cái kết có phần quá viên mãn tựa cổ tích của cuốn tiểu thuyết: cái thiện chiến thắng hoàn toàn cái ác, không có hy sinh, đổ máu trong quá trình phá án chẳng đủ tạo nên sự ám ảnh như hy sinh đầy thầm lặng của bao bóng lưng người cảnh sát ở Sông ngầm. Ngoài ra, cách xây dựng nhân vật cũng mang quá nhiều “đặc trưng” đến từ dàn nhân vật nổi tiếng của Lôi Mễ trước đấy. Người đọc dễ dàng nhận ra bóng hình một Phương Mộc nhạy bén với vụ án nhưng cũng đầy đa cảm qua hình ảnh Ngụy Quýnh; một Hình Chí Sâm chí công vô tư qua Đỗ Thành hay kiểu nhân vật tội phạm có tâm lý vặn vẹo như Lâm Quốc Đống trong hình ảnh Giang Á, Tôn Phổ... Cuốn tiểu thuyết dài hơn 700 trang, nội dung phát triển với lối tự sự không mới, tình tiết nhiều phân đoạn dài dòng, cách xây dựng nhân vật đi vào lối mòn... Bởi thế, dẫu Tâm nguyện cuối cùng vẫn mang những nét hết sức đặc trưng vốn là điểm mạnh của Lôi Mễ như sự tỉ mỉ ở phát triển tình tiết, miêu tả tâm lý nhân vật – nhất là tội phạm và cảnh sát song cũng không thể phủ nhận, sự hụt hơi của ông ở tác phẩm này. *** Lôi Mễ là giảng viên một trường Đại học Cảnh sát của Trung Quốc. Do đặc thù nghề nghiệp, tác phẩm của anh rất chuyên nghiệp, cẩn mật, rất đáng để tìm đọc. Seri Tâm lý tội phạm khiến anh nổi danh như cồn, được độc giả đón nhận nồng nhiệt, các fan đều gọi anh là “thầy”. Hầu hết các nhà văn nổi tiếng thế giới thành danh ở thể loại trinh thám hình sự đều không xuất thân từ ngành công an. Lôi Mễ là một hiện tượng đặc biệt. Ở tuổi ngoài 30, anh là sĩ quan cảnh sát cấp phòng (sở), giảng dạy bộ môn Hình pháp học tại một trường cảnh sát trực thuộc Bộ Công an Trung Quốc. Lôi Mễ vào làng văn trinh thám hình sự hơi muộn so với nguyện vọng của mình. Ngay từ thuở nhỏ, anh đã tập tành viết sách nhưng phải đến năm 2006, anh mới xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên mang tên Độc giả thứ 7 và ngay sau đó là liên tiếp 3 tác phẩm: Đề thi đẫm máu, Cuồng vọng phi nhân tính và Sông ngầm. Dù số lượng chưa nhiều, chỉ với những tác phẩm trên, Lôi Mễ đã được xếp hạng trong số những nhà văn trinh thám hình sự nổi tiếng của Trung Quốc. Các tác phẩm trong Series Tâm lý tội phạm của Lôi Mễ: - Độc Giả Thứ 7 - Đề thi đẫm máu - Cuồng vọng phi nhân tính - Sông ngầm - Ánh sáng thành phố - Tâm Nguyện Cuối Cùng Mời các bạn đón đọc Tâm Nguyện Cuối Cùng của tác giả Lôi Mễ.
Sự thật về vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola - Joël Dicker
Tiểu thuyết từng vượt mặt 'Hỏa ngục' ra mắt ở Việt Nam. Cuốn "Sự thật về vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola" của nhà văn sinh năm 1985 được cho là đã thổi làn gió mới vào dòng tiểu thuyết trinh thám đương đại. Chỉ vài tuần sau khi ra mắt vào năm 2012, tiểu thuyết "Sự thật về vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola" đã liên tục giành được những giải thưởng lớn: Giải Goncourt do học sinh trung học bình chọn và Giải thưởng dành cho tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp. Cuốn tiểu thuyết cũng đã bán được hai triệu bản trong năm đầu phát hành, dịch ra 32 ngôn ngữ. Vào mùa hè năm 2013, nó có cú lật nhào ngoạn mục đối với Hỏa ngục của Dan Brown để chiếm vị trí đầu trong các bảng xếp hạng best-seller trên toàn châu Âu.  Với cách viết "tiểu thuyết trong tiểu thuyết" và văn phong kịch tính rùng rợn kiểu Mỹ, "Sự thật về vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola" là tác phẩm hấp dẫn về nội dung, kết cấu. Tác phẩm là những trải nghiệm, suy nghĩ, trăn trở của tác giả về tình hình nước Mỹ, về những điều ngang trái trong xã hội hiện đại, về văn chương, về công lý và các phương tiện truyền thông. Không chỉ là một tác phẩm trinh thám nghẹt thở, tiểu thuyết của Joel Dicker còn là một câu chuyện tình yêu lãng mạn diễn ra trong bối cảnh vùng quê bình lặng, tù túng và đạo đức giả của Mỹ những năm 1970. Thiếu nữ Nola là một nhân vật đa nhân cách, một Lolita trinh trắng, một nàng thơ khêu gợi cảm hứng sáng tác và một nữ thần trong tổ ấm của Harry Quebert, người hơn nàng những 17 tuổi đời. *** Tác giả Joel Dicker sinh ngày 16/6/1985, tại thành phố Geneva, Thụy Sĩ. Cuốn "Sự thật về vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola" là một thành công vang dội cho nhà văn trẻ thuộc cộng đồng Pháp ngữ.  Joel Dicker là nhà văn Thụy Sĩ, nhưng tác phẩm của anh viết với bối cảnh ở Mỹ. Nhân vật chính trong truyện là Marcus Goldman - một nhà văn trẻ, vừa có thành công vang dội với cuốn tiểu thuyết đầu tay. Nhưng sự nổi tiếng và giàu có mà tác phẩm đầu mang lại không khiến Marcus dễ dàng hơn khi viết ra tiểu thuyết thứ hai của mình. Anh vật lộn để sáng tác bằng được tác phẩm mới cho nhà xuất bản trong vài tháng tới.  Tác phẩm giành được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyện môn, báo chí cũng như độc giả. Lisa Gardner, tác giả cuốn sách bán chạy Fear Nothing của Mỹ nhận định: "Đã lâu lắm rồi tôi mới đọc một cuốn tiểu thuyết ly kỳ làm mình bất ngờ đến nhường ấy. Joel Dicker là một ngôi sao mới tỏa sáng ở thể loại trinh thám, anh đã chứng tỏ những lát cắt nghiêm túc của mình trong tác phẩm không ngừng gây sốc, thắt nút nghẹt thở và cực kỳ hồi hộp này". Tờ Metro của Anh đánh giá: "Một tiểu thuyết phải giở trang liên tục với cốt truyện ấn tượng, thông minh, không ngừng gây bất ngờ cho đến tận trang cuối cùng... Một bước ngoặt liên tục, thôi thúc, khiến ta mê mẩn câu chuyện, làm thỏa mãn bất kỳ người đọc nào...". Nhật báo Corriere della Sera của Italy viết: "Sau Sự thật về vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola, dòng tiểu thuyết đương đại sẽ không còn như trước, không một ai còn có thể giả vờ không nhận ra nó". Mời các bạn đón đọc Sự thật về vụ án Harry Quebert hay Chuyện nàng Nola của tác giả Joël Dicker.
Địch Công Kỳ Án Tập 2: Tứ Bình Phong - Robert van Gulik
Mùa hè năm 663, khi mới 33 tuổi, Địch Công được bổ nhiệm chức vụ cấp huyện đầu tiên là Huyện lệnh của Bồng Lai. Vị trí này đi kèm với một nhiệm vụ hóc búa: điều tra vụ bỏ độc mưu sát cố Huyện lệnh - vị quan tiền nhiệm của ông. Nhưng niềm háo hức khi mới nhậm chức mau chóng chuyển thành nỗi kinh hãi, khi ông phải đối mặt với một vong hồn lang thang nơi nha phủ, một con cọp tinh ăn thịt người ẩn nấp chốn rừng rú và một vị tân nương biến mất gần ngôi miếu bỏ hoang… Một Huyện Bồng Lai xa xôi lại ẩn chứa vô số bí ẩn phức tạp đan xen nhau tạo thành mối bòng bong khó tháo gỡ. Hàng loạt các vụ án dây mơ rễ má xuất hiện, không manh mối, không dấu vết. Thậm chí còn cả hồn ma, ma sói xuất hiện trong một không gian mờ ảo, bất định. Liệu Địch Công có tìm ra lời giải thích hợp lý cho những sự kiện kỳ dị và kịp thời phá giải một âm mưu đen tối liên quan đến tận kinh thành hay không? Một tác phẩm trinh thám vừa có tính liêu trai, kì bí, vừa mang đậm nét "duy vật" của Phương Tây. Cái hay của tác giả Robert Van Gulik là lấy ảo để tả thực, lấy cảnh để nói người.. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Tường sự lạ, Địch Công cảm thán Thăm Mậu Bình, Quan án đổi tên Đặng Tri huyện đứng im giữa cửa thư phòng, cảm thấy vô cùng bối rối, mắt mờ đi, không dám bước về phía án thư. Ông ta đứng dựa vào khung cửa, mắt nhắm nghiền, từ từ đưa hai tay lên bóp nhẹ huyệt thái dương. Cơn đau đầu giờ không còn dữ dội mà chuyển sang âm ỉ, thỉnh thoảng lại nhói lên một hồi. Tai không còn ong ong, Đặng Tri huyện có thể nghe thấy tiếng gia nhân bắt đầu công việc thường nhật sau giờ nghỉ trưa nơi hậu viện. Chỉ một chốc nữa thôi, lão quản gia sẽ mang trà chiều tới cho ông ta. Đặng Tri huyện gắng hết sức làm chủ bản thân, cảm thấy nhẹ nhõm phần nào khi hai mắt đã nhìn rõ hơn. Ông ta vội đưa hai tay lên quan sát thật kỹ nhưng không thấy vết máu nào cả. Ông ta nhìn sang cái bàn gỗ mun lớn, mặt bàn được đánh bóng loáng, phản chiếu hình ảnh của những bông hoa cắm trong chiếc lọ ngọc bích giữa bàn. Hoa đã héo úa hết cả, ông ta lờ mờ nghĩ rằng phu nhân đáng ra phải thay hoa mới rồi, mọi khi hiền thê vẫn thường tự mình lựa hoa từ hoa viên. Đột nhiên, Đặng Tri huyện cảm thấy trống rỗng, ông ta lập cập bước vào phòng, tay vịn mép án thư, vừa thở nặng nhọc vừa đi một vòng quanh bàn rồi thả mình xuống ghế bành. ... Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 2: Tứ Bình Phong của tác giả Robert van Gulik.