Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang

Trong tác phẩm Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang ( 1967 ) nhân vật chính là Hoàng, đờn guitar rất giỏi nên có biệt danh là Hoàng guitar, Hoàng có địa vị cao trong một băng du đãng , sau đó muốn hoàn lương, về mở lớp dạy đàn, nhưng đồng bọn vẫn muốn kéo anh vào những việc bất lương. Ngày cuối vì mong có điều kiện xây dựng tương lai hạnh phúc, anh đã nhận lời làm một phi vụ cuối cùng và bị lộ. Những phát đạn oan nghiệt cắm sâu vào lưng Hoàng như những vết thù đời không bao giờ xoá được và cũng chấm dứt kiếp ngựa hoang. *** Duyên Anh sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại Thái Bình Bắc việt mất ngày 6 tháng 2 năm 1997 tại Paris, Pháp (nhằm ngày 29 tết). Ông đã xuất bản năm mươi tác phẩm văn chương. Năm 1975, bị coi như "một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của Việt Nam", chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung. Ông được tự do nhờ Amnesty International và Pen Club International can thiệp. Vượt biển sang Pháp, ông viết lại và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư đại học Sorbonne, nhà văn lừng danh coi Duyên Anh là "nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia". Chưa một người Việt Nam nào tạo nổi sự vinh dự cho dân tộc ở tư thế lưu vong như Duyên Anh. Tự tin vào tài năng và sự phấn đấu của chính mình, ông đã bước lên mọi nghịch cảnh, bước qua mọi oan khiên để giành một chỗ đứng trên vũ trụ văn học quốc tế như một tiểu thuyết gia đầy đủ tư cách.   Tác Phẩm Đã Xuất Bản Hoa Thiên Lý (Tập truyện ngắn 1963) Thằng Vũ (Truyện dài 1963) Điệu Ru Nước Mắt (Truyện dài 1963) Giấc Mơ Một Loài Cỏ - Luật Hè Phố 1 (Truyện dài 1965) Con Suối Ở Miền Đông - Luật Hè Phố 2 (Truyện dài 1965) Dzũng Đakao (Truyện dài 1965) Chương Còm (Truyện dài 1965) Dấu Chân Sỏi Đá (Truyện dài 1966) Sa Mac Tuổi Trẻ (Truyện dài 1966) Kẻ Bị Xóa Trong Sổ Bụi Đời (Tập truyện ngắn 1966) Ảo Vọng Tuổi Trẻ (Truyện dài 1967) Cỏ Non (Tập truyện ngắn 1967) Gấu Rừng (Truyện dài 1967) Mây Mùa Thu (Truyện dài 1967) Ngày Xưa Còn Bé (Truyện dài 1967) Trần Thị Diễm Châu - Châu Kool (Truyện dài 1967) Vết Thù Hằng Trên Lưng Con Ngựa Hoang (Truyện dài 1967) Năng Nợ Giang Hồ (Truyện dài 1967) Bồn Lừa (Truyện dài 1967) Chính Trị Giao Chỉ (Thương Sinh, Phóng sự 1967) Đầm Giao Chỉ (Thương Sinh & Gã Thâm, Phóng sự 1967) Rồi Hết Chiến Tranh (Truyện dài 1968) Ánh Mắt Trông Theo (Truyện dài 1968) Thằng Côn (Truyện dài 1968) Trường Củ (Truyện dài 1968) Thơ Văn Búp Bê (Tập truyện ngắn 1968) Tuyển Truyện Tuổi Thơ (Tập truyện ngắn 1968) Đi Tàu Suốt (Thương Sinh, Phóng sự 1968) Yêu Tiền (Thương Sinh & Gã Thâm, Phóng sự 196?) Ánh Lửa Đêm Tù (Tập truyện ngắn 1969) Cầu Mơ (Truyện dài 1969) Mơ Thành Người Quang Trung (Truyện dài 1969) Tuổi Mười Ba (Truyện dài 1969) Mặt Trời Nhỏ (Truyện dài 1969) Tuyển Truyện Duyên Anh (Tập truyện ngắn 1970) Nhà Tôi (Truyện dài 1970) Lứa Tuổi Thích Ô Mai (Truyện dài 1970) Đàn Bà (Truyện dài 1970) Tên Một Loài Hoa Quê Hương (Truyện dài 1970) Giặc Ôkê (Truyện dài 1971) Hưng Mập Phiêu Lưu (Truyện dài 1971) Ngựa Chứng Trong Sân Trường (Truyện dài 1971) Nước Mắt Lưng Tròng (Truyện dài 1971) Áo Tiểu Thư (Truyện dài 1971) Con Thúy (Truyện dài 1972) Phượng Vĩ (Truyện dài 1972) Thằng Khoa (Truyện dài 1972) Về Yêu Hoa Cúc (Truyện dài 1972) Thư Tình Trên Cát (Truyện dài 1972) Bò Sửa Gặm Cỏ Cháy (Tâm bút 1972) Hạ Ơi (Truyện dài 1973) Đêm Thánh Vô Cùng (Tập truyện ngắn 1973) Cám Ơn Em Đã Yêu Anh (Truyện dài 1974) Hôn Em Kỷ Niệm (Truyện dài 1974) Cây Leo Hạnh Phúc (Truyện dài 1974) Tháng Giêng Ngon Như Một Cặp Môi Gần (Tập truyện ngắn 1975) Đồi Fanta (Truyện dài 1982) Sỏi Đá Ngậm Ngùi (Truyện dài 1985) Một Người Tên Là Trần Văn Bá (Truyện dài 1985) Bầy Sư Tử Lãng Mạng (Truyện dài 1986) Một Người Nga ở Sài Gòn (Truyện dài 1986) Thơ Tù (Thơ 1987) Nhánh Cỏ Mộng Mơ (Truyện dài 1987) Quán Trọ Trước Cổng Thiên Đường (Truyện dài 1987) Nhà Tù (Hồi ký 1987) Trại Tập Trung (Hồi ký 1987) Sài Gòn Ngày Dài Nhất (Hồi ký 1988) Nhìn Lại Những Bến Bờ (Hồi ký 1989) Em, Tôi, Sàigòn và Paris (Thơ 1989) Ngược Giòng Chữ Nghĩa (Tâm bút 1991) Ca Dao Quyện Lấy Miếng Ngon Dân Tộc: Nấu Nướng Dân Gian (Tâm bút 1995) Về Với Ca Dao (Tâm bút 1995) Vỡ Lòng Ca Dao (Tâm bút 1995) Những Đứa Trẻ Con Mỹ Hẩm Hiu (Truyện dài 1995) Hồn Say Phấn Lạ (Truyện dài 1996) Tuổi Bướm Sầu (Truyện dài chưa xuất bản) *** Đứa bé vẫn không chịu ăn uống gì. Ly sữa trước mặt nó đã nguội và đóng váng. Nó ngồi xếp chân vòng tròn, đầu tóc rũ rượi, nước mắt nhễ nhãi, mũi chạy xuống miệng. Trông nó giống hệt con búp bê cũ kỹ, bị vất vào xó nhà. Hàng hóa của Du chột đấy. Món hàng đáng giá trăm ngàn. Du chột bắt cóc đứa bé tự chiều hôm qua. Nó đã nhắm con mồi ngót hai tuần lễ. Đứa bé con gái năm tuổi, con một thương gia, học lớp mẫu giáo trường Măng Non. Du chột kết thân với gã đầy tớ, ngày hai buổi đưa, rước đứa bé đi học, về học. Nó cho đứa bé nhiều kẹo bánh nên đứa bé mến nó lắm, Du chột thay chân gã đầy tớ của ông thương gia, dắt đứa bé vô lớp, chào hỏi cô giáo. Rồi cũng chính nó, giờ tan học, xuất hiện sớm nhất, dẫn đưa bé ra khỏi cổng, giao cho gã đầy tớ. Các cô giáo quen mặt Du chột. Gã đầy tớ tin ở lòng tốt, tin ở tình bạn của Du chột, không nghi ngờ điều gì. Vả lại, gã thiếu trí khôn để nghi ngờ. Thuốc lá, cà phê, phở đã làm gã coi Du chột như thứ “mòng” trời run rủi cho gã gặp mà hưởng thụ. Con đường ngắn dần và hết chông gai. Du chột tới trường sớm nửa tiếng, xin phép cô giáo cho đứa bé về đi ăn giỗ. Cô giáo vui vẻ trao đứa bé trong tay Du chột. Nó gọi tắc xi, dẫn đứa bé vào sào huyệt của nó. Du chột đã “chơi” một “vố” thật nhẹ nhàng, bay bướm. Nó qua mặt tất cả. Bọn đàn em phục Du chột sát đất. Chỉ tiếng đồng hồ sau, ông thương gia đã biết tin con mình bị bắt cóc qua máy điện thoại. Du chột, từ một phòng điện thoại công cộng, đặt giá chuộc đúng trăm ngàn. Lối dọa của nó đã cổ điển. “Nếu báo cảnh sát, nó sẽ thủ tiêu đứa bé”. Nó hẹn sẽ “thảo luận” lại. Du chột thừa kinh nghiệm bắt cóc rồi. Vụ này là vụ thứ bảy. Khi những sòng bạc của nó bị “băng” khác trên chân hơn “băng” của nó “xâm lăng” và tước đoạt quyền thu thuế canh gác, Du chột kẹt tiền bạc. Nó nghĩ cách làm tiền khác tức là bắt cóc trẻ con đòi tiền chuộc. Du chột nghiên cứu kỹ lưỡng, vẽ chương trình, kế hoạch tỉ mỉ trước giờ hành động. Trái hẳn với đường lối bắt cóc con nít bán rẻ cho bọn buôn người. Du Chột phải điều tra xem gia đình con mồi của nó có thương con cái không, thương tới mức độ nào. Bố mẹ càng thương con chừng nào, Du chột càng chắc ăn chừng ấy. Nó sẽ lãnh tiền chuộc ngon lành, cảnh sát không hề hay sự tình. Và Du chột đã thành công cả sáu vụ. Đứa bé bỗng lại khóc thét lên. Nhưng cái hầm chứa đồ sa thải của hãng thầu quá rộng, qua kín, tiếng khóc của nó không thoát ra được. Tên gác dan trông coi kho của hãng là đàn em thân tín của Du chột. Ai dám ngờ dưới hầm chứa đồ cũ là nơi giữ con mồi của “băng” Du chột? Tên canh con mồi nằm dài trên chiếc ghế bố nhà binh, gối đầu lên chồng tiểu thuyết kiếp hiệp, tắt vội cái máy thu thanh bỏ túi, ngồi dậy, ngó đứa bé chằm chằm. Mời các bạn đón đọc Vết Thù Hằn Trên Lưng Ngựa Hoang của tác giả Duyên Anh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đất Khách Quê Người - Mario Puzo
Đất Khách Quê Người là tác phẩm văn học đạt tới sự chân thật, thẳm sâu đến kỳ lạ của nhà văn lừng danh Mario Puzo. Theo tác giả, từ những năm sáu mươi, ông đã dành phần lớn tâm trí cho đề tài nhân sinh này. Ông đã sống, đã thể nghiệm, đã "trầm người" trong khu vực đề tài để diễn tả với một sức mạnh mới. Đất Khách Quê Người là một phần máu thịt của ông, là quê hương, gia tộc, gia đình ông. Mỗi nhân vật trong sách dù xa hay gần, trực tiếp hay gián tiếp…đều là người thân của ông hoặc người ông đã tiếp cận, được sinh ra và lớn lên trong bối cảnh bi thương của con người, buộc phải rời Tổ quốc vượt ngàn dặm biển để kiếm sống nơi đất khách quê người. Mario Puzo là tác giả liên tục thành công trong nhiều cuốn sách, mà tiêu biểu là Bố Già, đã vạch trần và lên án các tập đoàn tội ác Mafia, hoạt động trên đất Mỹ và địa bàn liên quan, với đường dây buôn lậu ma tuý, gái mãi dâm, sòng bạc, ám sát, khống chế, bắt cóc tống tiền. Đất Khách Quê Người khi được xuất bản đã nhanh chóng được công chúng chào đón và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Khác với tác phẩm Bố Già – tận cùng mãnh liệt, trong Đất Khách Quê Người, chúng ta nhận diện một Mario Puzo hồn hậu, sâu xa, tinh tế. Bằng văn phong bình dân, ông viết sinh động và phong phú, xây dựng nên một bản dân ca bi hùng tráng, ly kỳ trong cụ thể, đồ sộ trong giản đơn…Ông đã sống, đã yêu, đã đau khổ và vui sướng cho tác phẩm rất chân phương và lạ lùng này. Nếu Bố Già là đỉnh nhọn thì Đất Khách Quê Người là mặt bằng rộng lớn, với chiều sâu của nhà văn thấu suốt con người và vì lợi ích con người mà chiến đấu bằng bút lực dữ dội, làm rung động lòng người. Toàn bộ khung cảnh cuộc hành hương này được Mario Puzo khái quát vào cuộc sống một gia đình lưu vong người Ý Angeluzzi-Corbo, mà góa phụ Lucia Santa một người đàn bà nghèo khổ, dốt nát nhưng là người mẹ sống chết vì con, đầy bản sắc Ý và rất đỗi anh hùng. Năm mười bảy tuổi Lucia Santa cùng hai người bạn gái rời gia đình vượt mấy ngàn cây số trên đại dương để sang Mỹ lấy chồng, mà chàng trai ấy cô chỉ nhớ thoang thoáng là có cùng chơi giỡn với nhau lúc nhỏ. Nhà nghèo nên ngày Lucia Santa ra đi, ông già không cho nổi con gái cưng một bộ đồ cưới và tấm khăn trải giường. Xuống tàu đi, Lucia Santa dù rất mực thương cha nhưng vẫn hận cha mình mãi. Nơi đất khách, bốn mươi năm ròng rã gia đình Lucia Santa sống gói kín trong căn hộ số 358 lầu bốjn, chung cư đại lộ Số Mười, khu tây New York. Nơi lưu cư này bà đã sinh nở cho hai đời chồng, nuôi dạy sáu đứa con và cố giữ đúng nề nếp tập tục dân nước Ý, phản đối lối sống buông thả của đám trẻ theo kiểu Mỹ. Nhưng quan trọng nhất là bà chỉ huy con cái tập trung sức lực và trí khôn chống lại sự nghèo khổ, tủi nhục, mặc dù có lần bà bảo các con bà phải biết tự hào về cái nghèo thơm thảo của chính mình. Bà cho rằng mình nghèo nhưng là cái nghèo vĩ đại. Chung quanh mối quan hệ đan xen với gia đình do “dũng tướng” Lucia Santa cùng Octavia, đứa con gái thông minh và cương trực, chèo chống, cuộc sống xã hội của cộng đồng lưu dân Ý trên đất Mỹ ở đại lộ Số Mười hiện ra rõ đến đỗi người đọc thấy như có mình trong đó. Chúng ta chảy nước mắt đau khổ hoặc vui mừng cùng các nhân vật. Thuật ẩn ngữ và lối nói dí dỏm trào phúng là đặc tài của Mario Puzo bộc lộ ở đây. Trở lại buổi đầu, Lucia Santa với những khát vọng về một vùng đất mới giàu sang bị tan vỡ, dù đó là vùng đất “hứa”. Thực tế này cho thấy ở bất cứ nơi nào cũng có cái ác, có hiếp đáp, giành giựt, có mưu sâu kế độc để hãm hại nhau. Nhưng ở bất cứ nơi đâu cũng có con người sống gắn bó với nhau, yêu thương nhau, giữ cho kỳ được những bản thể tốt đẹp vẫn có của mình để cùng hướng lên cuộc sống văn minh. Đất KHách Quê người chính là bài ca về sự nỗ lực lao động quên mình để có cuộc sống ấm no, và người chân thật dẫu ở đâu vẫn có thể sống hiên ngang, đứng vững bên cạnh bọn gian xảo, chiếm đoạt, vu khống… Cuối cùng khi về già, con cháu đầy đàn, Lucia Santa lên chiếc xe nhà về khu Long Island sang trọng, giã biệt căn hộ chung cư và kiếp sống lầm than. Chi tiết này Mario Puzo cho bạn đọc một niềm vui có thật. Đây là tính nhân hậu của nhà văn. Đọc Đất Khách Quê Người không phải chỉ để thông cảm một cách sâu xa về đồng loại, mà còn để tự hào và tin cậy ở chính mình. *** Larry Angeluzzi thúc con ngựa ô đen bóng trên lòng đường như một khe núi, giữa hai dãy tường nhà cao dòm trật ót. Dưới những chân tường, trên lề đường lát đá xanh, phân ô biệt lập mỗi lô nhà, lũ trẻ ngừng chơi đùa, im thin thít chiêm ngưỡng anh Larry. Larry vung vẩy đèn dầu màu đỏ thành một vòng cung lớn, những tia lửa toé ra từ những móng sắt của con ngựa khua trên đường rầy xe lửa, làm loé sáng những viên đá trải trên đại lộ Số Mười và lừ đừ theo sau là đoàn tàu chở hàng chậm chạp từ nhà ga cuối cùng, trên phố Hudson tiến về phương bắc. Năm 1928, sở Đường Sắt trung ương New York phải sử dụng những con đường trong thành phố để xuôi ngược bắc nam, nên phải có người cưỡi ngựa mở đường để tránh tai nạn giao thông. Chỉ vài năm nữa, khi cầu nổi xây xong, hình ảnh người dẫn đường chỉ còn là kỷ niệm của lịch sử thành phố. Nhưng Larry Angeluzzi không hề biết nó là người cuối cùng trong nghề này. Nó ngồi trên mình ngựa cứ kiêu hãnh như một cao bồi chính hiệu miền Tây. Nó luôn ăn diện: ghệt trắng nặng, mũ rộng vành, đồng phục quần xanh bằng vải thô cứng, bó chặt tới mắt cá bằng những cái cặp sáng bóng. Nó cho ngựa đi nước kiệu qua thành phố hâm hấp nóng của đêm hè. Những người đàn bà ngồi trên mấy thùng cây nói chuyện tào lao với nhau, cánh đàn ông đứng xớ rớ nhả từng ngụm khói xì gà khét lẹt nơi góc phố. Đám trẻ con nhao nhao bất kể nguy hiểm chạy theo bám vào xe lửa đang chạy. Tất cả đều hiển hiện trong ánh sáng vàng đầy khói của đèn đường và ánh sáng trắng của mấy bóng đèn cửa hàng bánh kẹo. Tới mỗi ngã tư, những cơn gió từ sông thổi tới, làm cho người và ngựa tỉnh táo hẳn, cùng làm mát mẻ cái đầu máy xe lửa đen ngòm. Trên khoảng đất trống trong công viên Chelsea, lố nhố bóng tụi trẻ ngồi chồm hổm xem phim miễn phí. Từ xa trên màn ảnh lớn, Larry thấy con ngựa và anh chàng cưỡi khổng lồ, như đang rầm rập phóng ụp xuống hố, con ngựa của nó hốt hoảng bật ngửa đầu. Qua khỏi ngã tư, những bức tường nhà lại hiện ra. Larry về tới gần nhà. Một cây cầu vượt dành cho người đi bộ bắc từ đại lộ Số Mười qua đường Số Ba Mươi. Qua khỏi gầm cầu là về tới nhà, coi như công việc đã hoàn tất. Đội lệch mũ, Larry cho ngựa phi thẳng về chuồng. Hầu hết những người đang ngồi trên lề đường Số Ba Mươi và Số Ba Mươi Mốt đều là bà con, bạn bè. Larry phóng nước đại qua gầm cầu, vẫy tay với lũ nhóc đang đứng trên lan can cầu. Rồi Larry cho ngựa đi sát lề, rẽ trái vào bãi đất trống của sở Đường Sắt. Phía sau, đầu máy xe lửa khổng lồ nhả ra từng đợt khói trắng mịt mù và như một phép lạ, cây cầu và lũ trẻ biến mất trong làn khói, với những tiếng kêu vui vẻ vút cao lên tận bầu trời đầy sao mờ tỏ. Xe lửa chở hàng uốn vòng vào bãi, cây cầu lại hiện ra, lũ trẻ ào ào nhảy xuống những bậc thang, chạy dọc theo phố. Larry buộc ngựa vào cây cột bên cạnh căn chòi của người bẻ ghi rồi ngồi xuống băng ghế. Bên kia đại lộ là thế giới thân quen của nó. Gần góc đường Số Ba Mươi là cửa hàng bánh rực rỡ ánh đèn, lũ trẻ vây quanh tủ kem trang trí hoa lá loè loẹt. Chính ông chủ Panettiere múc những thìa kem đủ màu thật hậu hĩ. Vì bây giờ lão giàu rồi, còn thừa tiền phung phí cả trong trò chơi chạy đua ăn tiền nữa. Kế bên cửa hàng bánh là cửa hàng thực phẩm treo đủ thứ dăm bông, thịt nguội gói giấy màu. Rồi đến tiệm hớt tóc của lão chủ chuyên đố kỵ, ganh ghét, cứ thấy mái tóc nào mới, không mang dấu ấn của đôi tay, nhát kéo của lão, lão lại gườm gườm khó chịu. Cửa tiệm hớt tóc cửa đóng kín mít để đánh bài. Trẻ con tràn lên lề đường, nhốn nháo như bầy kiến, đàn bà thì quần áo đen ngòm, tụ tập thành từng nhóm trước mỗi nhà. Nhóm nào cũng ồn ào như đang cãi nhau. ... Mời các bạn đón đọc Đất Khách Quê Người của tác giả Mario Puzo.
Mặt Trời Nhà Scorta - Laurent Gaude
Với Mặt trời nhà Scorta, tác giả Laurent Gaudé nói về gia đình của với những cá nhân mang số phận của những kẻ có nòi bị nguyền rủa, nhưng xuyên suốt câu chuyện là tình cảm gia đình thiêng liêng. Ba  anh em nhà Scorta khi làm ăn xa trở về cùng với Raffaele đã tự tay đào xác mẹ mình lên từ cái huyệt công cộng, để được tôn vinh thi hài bà trong một mộ huyệt riêng. Bất chấp đó là một hành động phỉ báng. Mặt trời nhà Scorta, một tác phẩm văn chương xuất sắc, tổng thể chắc chắn, quá hoàn hảo để có thể nhận thêm bất cứ lời giới thiệu và khen ngợi nào. Đồng thời đây cũng là một tác phẩm mang đầy duyên nợ với chính tác giả Laurent Gaudé. *** Sức nóng của mặt trời như làm đất nức toác. Không một làn gió làm lay động rặng ô-liu. Tất cả đều im sững. Hương thơm của núi đồi đã tắt ngấm. Đá rên xiết vì nóng. Tháng tám đè nặng lên dãy núi  Gargano với vẻ uy nghi tự tin của một lãnh chúa. Thật không thể tin rằng một ngày nào đó, nơi này đã từng có mưa. Rằng nước đã từng tưới những cánh đồng và tắm mát cho những những cây ô-liu. Không thể tin rằng một đời sống động vật hay thực vật lại có cơ tìm được gì để tự nuôi dưỡng dưới bầu trời khô cằn này. Đã hai giờ chiều và mặt đất tất phải bốc cháy. Trên một con đường bụi bặm, một con lừa chậm rãi tiến bước. Nó nhẫn nhịn theo từng vòng cua của con đường. Không gì thắng được sự bướng bỉnh của nó. Cả cái không khí thiêu đốt nó đang hít thở. Cả lớp đá nhọn lởm chởm đang làm xây xướt móng guốc của nó. Nó cứ tiến. Và người cưỡi nó cứ như một cái bóng bị khép tội phải chịu một nhục hình thời cổ đại. Y không động đậy. Đờ dại vì nóng. Để mặc con lừa mang cả hai thầy trò đến tận cùng con đường này. Con vật làm nhiệm vụ với một ý chí lì lợm thách thức cả thanh thiên bạch nhật. Từ tốn, từng mét một, không đủ sức để rảo bước, con lừa nuốt chửng bao kilômét đường trường. Và người kỵ sĩ lẩm nhẩm giữa hai hàm răng những lời tan biến liền trong hơi nóng hầm hập. “Sẽ không có gì làm nhụt được chí ta… Mặt trời có thể giết tất cả thằn lằn của đồi núi, riêng ta vẫn sẽ đứng vững. Ta đã chờ quá lâu rồi… Mặt đất có thể rú rít và tóc ta có thể bốc cháy, nhưng ta sẽ lên đường và đi tới cùng.” Giờ khắc cứ thế qua đi, trong một lò lửa thủ tiêu mọi màu sắc. Cuối cùng, ở khúc quành một ngôi làng, biển hiện ra trước mắt. “Thế là chúng ta đã tới cuối đất cùng trời, người đàn ông thầm nghĩ. Suốt mười lăm năm, mình đã mơ đến khoảnh khắc này.” Biển nằm đó. Như một vũng im lìm chỉ để phản chiếu sự hùng mạnh của mặt trời. Con đường đã không xuyên qua một thôn xóm nào, không giao một tuyến đường nào khác, nó luôn luôn tiến sâu vào các vùng đất. Sự xuất hiện của vũng biển im lìm, chói chang nhiệt lượng này khẳng định điều xác thực là con đường chẳng dẫn tới đâu cả. Nhưng con lừa vẫn tiếp tục. Nó sẵn sàng dấn sâu vào làn nước, vẫn với nhịp bước chậm rãi và kiên quyết ấy, nếu chủ nó yêu cầu nó làm thế. Người kỵ sĩ không động đậy. Y vừa bị một cơn chóng mặt. Có lẽ y đã lầm. Tít tắp hút tầm mắt, chỉ thấy đồi núi và biển chồng chéo ào nhau. “Mình đã đi lầm đường, y nghĩ thầm. đáng ra mình đã phải thấy ngôi làng đó. Trừ phi nó đã lùi lại. Phải. Chắc nó đã cảm thấy mình đang đến nên đã lùi sâu xuống biển để mình không tới nó được. Dù phải đâm đầu vào sóng, mình cũng sẽ không lùi bước. Mình sẽ tiến đến cùng. Mình muốn báo thù.” ... Mời các bạn đón đọc Mặt Trời Nhà Scorta của tác giả Laurent Gaude.
Jennie Gerhardt - Theodore Dreiser
Trong bầu trời văn chương của nước Mỹ đầu thế kỉ thứ hai mươi. Theodore Dreiser nổi bật lên như một trong những ngôi sao sáng nhất. Ông sinh ngày 27 tháng 8 năm 1871 tại Terre Haute bang Indiana và mất ngày 28 tháng 12 năm 1945 tại Hollywood bang California. Trong hơn bốn mươi năm lao động sáng tạo Dreiser đã cho ra đời tất cả năm bộ tiểu thuyết cùng với một số đáng kể các truyện ngắn, ký sự, tiểu luận, chín vở kịch, hai tập tự truyện và hai tập thơ. Nôi tiếng nhất trong số đó là hai cuốn tiểu thuyết: “Một bi kịch nước Mỹ” và “Jennie Gerhardt”. Chính hai cuốn này đã đưa ông lên địa vị hàng đầu trong văn đàn và được coi là người cha của nền văn học hiện thực nước Mỹ. “Jennie Gerhardt”, tên sách đồng thời cũng là tên của nhân vật chính trong truyện. Một cô gái xinh đẹp, giàu lòng nhân ái, yêu lao động, hoàn toàn xứng đáng có hạnh phúc và có quyền được hưởng hạnh phúc. Nhưng xã hội tư bản với sự thống trị tuyệt đối của thế lực đồng tiền đã cướp đi của cô tất cả, từ miếng cơm manh áo, đến quyền làm vợ, làm mẹ và thậm chí cả quyền được yêu thương, được xả thân cho người mình yêu dấu. Jennie yêu Brander, một thượng nghị sĩ, có con với ông ta, nhưng Brander thất bại trên đường sự nghiệp và chết đột ngột. Sau đó vài năm cô lại yêu Lester Kane, con trai một nhà đại tư bản. Với Lester, Jennie là người đàn bà lý tưởng mà anh đã bao năm tìm kiếm. Anh hết lòng yêu cô, mong muốn được là chồng chính thức của cô, mang lại cho cô một cuộc sống êm đềm hạnh phúc. Mặc dù thế anh vẫn không làm sao vượt qua nổi cái cơ chế khắc nghiệt và vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản mà anh đang bị khuôn vào trong đó. Hai người vẫn phải chung sống một cách vụng trộm trong nỗi thắc thỏm, lo âu. Cuối cùng để được giữ quyền thừa kế tài sản, Lester buộc lòng phải rời bỏ Jennie để kết hôn với một cô gái khác thuộc dòng dõi giàu có và quyền quý. Jennie tưởng rằng mình có thê sống một cuộc sống tạm gọi là hạnh phúc với đứa con duy nhất, con của thượng nghị sĩ Brander và chút tài sản mà Lester gây dựng cho. Nhưng thần chết đã cướp mất đứa con, cướp đi nốt nguồn an ủi cuối cùng của người đàn bà bất hạnh. Chỉ còn lại một thân một mình, bị bao vây giữa muôn ngàn khổ ải, Jennie vẫn cố sống và dành hết lòng nhân ái của mình vun đắp cho hai đứa con nuôi. Người đàn bà bị xã hội tư bản chà đạp ấy tuy căm giận đến cùng cực chế độ bất công vẫn không để mất đi ở mình lòng tin vào lương tri và nhân phẩm của con người. *** Một buổi sáng mùa thu năm 1880, một người đàn bà đứng tuổi đi cùng một thiếu nữ trạc tuổi mười tám đến bàn tiếp khách của khách sạn chính thành phố Columbus, bang Ohio, hỏi xem ở đó có thể có việc gì thích hợp cho bà không. Tạng người bà béo bệu và yếu ớt, vẻ mặt thẳng thắn, cởi mở, cung cách hồn hậu, rụt rè, đôi mắt to đầy vẻ nhẫn nại, ngưng đọng bóng đen của đau khổ mà chỉ ai đã từng nhìn vào vẻ mặt những người nghèo khó, cùng quẫn và không nơi nương tựa với nỗi thương cảm mới có thể hiểu được phần nào. Bất kỳ ai cũng có thể hiểu vì đâu cô con gái đứng sau bà lại rụt rè bẽn lẽn, – chính nỗi niềm ấy đang đẩy cô lùi lại, hờ hững nhìn ra phía khác. Cô là hoa trái sinh ra từ đầu óc hay tưởng tượng, giàu tình cảm và lòng yêu thương bẩm sinh trong tâm hồn mộc mạc nhưng thơ mộng của người mẹ, kết hợp với sự trầm mặc và đĩnh đạc vốn là đặc tính của người cha. Cái nghèo đang dồn họ tới đường cùng. Mẹ và con gộp lại tạo ra hình ảnh rất đỗi thương tâm về cảnh cơ hàn, lương thiện khiến người thư ký cũng phải mủi lòng. - Bà muốn làm việc gì? - Có lẽ ông cho tôi quét dọn hoặc lau chùi gì đó – bà trả lời rụt rè – Tôi có thể rửa sàn nhà. Nghe mẹ nói, cô con gái bối rối quay đi, không phải công việc làm cô khó chịu, mà bởi cô không thích người ta đoán được nỗi bần bách đã bắt mình phải ngửa tay ra xin việc. Người thư ký mủi lòng trước nông nỗi hiển nhiên của cái đẹp trong bước đường cùng. Sự bất lực thơ ngây của cô con gái làm cho hoàn cảnh của hai mẹ con càng có vẻ gay go thực sự. - Chờ một lát nhé, – ông nói, rồi vừa bước vào phòng làm việc phía trong vừa gọi bà quản lý khách sạn. - Việc làm thì có đấy. Cầu thang chính và phòng khách chưa được quét dọn vì vắng chị lau sàn thường ngày. - Có phải con gái bà ta cùng đứng đấy không? – Bà quản lý hỏi, bà có thể nhìn thấy hai mẹ con từ chỗ bà đang đứng. - Vâng, có lẽ thế. - Nếu bà ấy muốn, chiều nay đến cũng được. Chắc cô con gái cũng giúp bà ta chứ? ... Mời các bạn đón đọc Jennie Gerhardt của tác giả Theodore Dreiser.
Thư Tình - Iwai Shunji
“Thư tình” tác phẩm văn học Nhật Bản của tác giả Iwai Shunji và sau này cũng được chính ông chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh cùng tên. “Thư tình” được coi là tác phẩm vốn được viết ra để dựng thành phim. Cuốn sách xoay quanh những lá thư trao đổi giữa hai cô gái, Watanabe Hiroko và Fujii Itsuki. Watanabe Hiroko ban đầu tưởng viết cho hôn phu Fujii Itsuki ở trên thiên đường nhưng sau đó thì nhận ra mình đang viết cho cô bạn cùng lớp cấp II của vị hôn phu và cũng là mối tình đầu của anh này. Cậu học trò cấp II đem lòng thương nhớ cô bạn cùng lớp trùng họ trùng tên. Chẳng dám thổ lộ tình cảm ấy, cậu chỉ biết viết tên cô, và cũng là tên cậu, vào tấm thẻ mượn của những cuốn sách chẳng bao giờ được ai đụng tới trong thư viện, nơi cô và cậu được phân công làm cán sự. Giống như rất nhiều mối tình học trò đơn phương khác, cô gái không hề nhận ra tình cảm của cậu. Ngay cả “bức thư tình”cuối cùng trên thẻ mượn mà cậu viết cho cô trước khi chuyển trường cũng không được cô biết tới. Một chuyện tình học trò giản dị, được tái hiện một cách tình cờ qua các bức thư trao đổi giữa hai cô gái không quen biết. Và bí mật về “tình yêu từ cái nhìn đầu tiên” những tưởng được chôn vùi theo người đã khuất dần được hé lộ. *** Hai năm trôi qua kể từ sau cái chết của Fujii Itsuki. Và là cái giỗ thứ hai vào ngày mùng 3 tháng Ba. Hôm ấy vào ngày lễ dành cho các bé gái, Kobe đổ tuyết bất thường. Tuyết chôn vùi cả khu nghĩa trang công cộng nằm trên đồi, những hạt trắng bám lấm tấm lên màu đen của những bộ đồ tang. Hiroko ngước lên nhìn trời. Tuyết trắng rơi không ngớt từ bầu trời không màu trông đẹp dung dị. Chắc hẳn bầu trời mà anh ấy nhìn thấy lần cuối trước khi chết trên núi tuyết cũng tựa như lúc này. “Như thể thằng bé đang gửi tuyết xuống ấy nhỉ?” Người lên tiếng là bà Ashiro, mẹ của Itsuki. Người lẽ ra đã là mẹ chồng Hiroko. Đến lượt cô thắp nhang. Chắp hai tay trước mộ, chính Hiroko cũng ngạc nhiên khi có thể thanh thản đối mặt với anh. Thời gian là thế chăng. Nghĩ đến đó, tâm trạng Hiroko có phần xáo trộn. (Xin lỗi anh vì em là người con gái bạc tình.)  Nén nhang Hiroko thắp mới tỏa ra làn khói mỏng trong giây lát thì một hạt tuyết chạm vào đầu nhang và dập tắt ngọn lửa. Hiroko thấy như đó là trò đùa của anh. Ngực cô thắt lại. Nhân thể lễ dành cho các bé gái, rượu ngọt nóng được đem ra thết đãi trong lúc chờ tàn canh hương. Khách đến viếng bỗng ồn ào hẳn lên, hâm nóng người bằng chén rượu và bắt đầu sôi nổi với những câu chuyện thế nhân nhàm chán. Hầu hết trong số đó là người nhà Itsuki. Ngoài ra có cả những người bạn chẳng còn giữ ký ức đầy đủ về anh. Họ đứng trước mộ anh nhưng gần như chẳng có chuyện gì để nói. Kể ra với bản chất kiệm lời và khó gần của anh thì điều này cũng không phải là không có lý. Còn trẻ mà đã vậy đấy. Đối với họ, anh là một cố nhân chỉ có ngần ấy chuyện để kể. “Tôi không uống được đồ ngọt. Không có đồ cay sao? Rượu cay ấy!” “Tôi cũng thích rượu cay.” Đáp lại yêu cầu ngang ngạnh của cánh đàn ông, ông Seiichi - bố Itsuki gọi bà Ashiro. ... Mời các bạn đón đọc Thư Tình của tác giả Iwai Shunji.