Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Mũi Tên

Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Anh Là Ai? - Hồ Phương
Khi chiếc xe ca chở khách còn cách thành phố Z một quãng khá xa, Trẫn Mẫn đã nhìn thấy thành phố đẹp xinh ấy thấp thoáng hiện lên sau những rừng cây thưa thớt uốn lượn, kéo dài. Anh không khỏi bồi hồi. Những kỷ niệm cũ tưởng đã bị thời gian và công việc chôn vùi, nay như những ngọn lửa nhỏ cùng nhau chấp chới thức dậy. Phải, cách đây đã gần sáu năm, trong chiến dịch mùa xuân 1975, anh đã từng sống ở thành phố này ít nhất cũng được trên ba tháng với tư cách một cán bộ trong ủy ban quân quản đặc trách công tác dân vận và an ninh của một quận trong thành phố. Ba tháng ấy, chắc chắn suốt đời anh sẽ không sao quên. Đó là ba tháng ngây ngất, say sưa, tràn ngập những niềm vui. Ba tháng với vòng hoa nguyệt quế của những người chiến thắng, anh đã sống giữa tình yêu thương ngưỡng mộ và cả sùng kính tràn trề của quần chúng, nhất là tuổi trẻ. Anh vẫn còn nhớ rõ có lẽ không thiếu một gương mặt nào. Nhưng có một gương mặt đã làm cho anh khó quên hơn cả. Đó là Thùy Dương, cô nữ sinh đại học văn khoa năm thứ nhất, một đóa hoa trinh trắng và dịu dàng của thành phố. Cô học ở Sài Gòn. Khi thành phố quê hương được giải phóng, cô đã trở về và lao ngay vào phong trào thanh niên, học sinh với tất cả niềm tin tưởng, say mê. Cô luôn luôn gần gũi anh. Và dần dần anh cảm nhận thấy được một điều xiết bao xúc động: cô nữ sinh ấy đã dành cho anh những tình cảm nồng nàn hoàn toàn khác với tất cả những người cán bộ, chiến sĩ mà cô vẫn hàng ngày gặp gỡ, hoặc cộng tác. Nhưng tiếc thay, giữa lúc tất cả mọi chuyện hãy còn đang ở bước đầu e ấp, hé mở, hai người chưa kịp nói với nhau bất cứ một lời nào thì, đùng một cái, Mẫn được lệnh trở ra Bắc và được vào trường đại học. Mẫn cứ tưởng sẽ được trở về tiếp tục học ở khoa sử trường Tổng hợp, vì trước khi đi bộ đội, anh đã là sinh viên năm thứ nhất ở đó. Nhưng tổ chức lại yêu cầu anh thi vào trường An ninh quốc gia. Từ bất ngờ nọ sang bất ngờ kia, Mẫn hơi buồn, nhưng vốn là một người lính có kỷ luật, quen chịu đựng, anh đã chấp nhận hết, kể cả sau đó ít lâu vì chiều lòng mẹ, anh đã lấy vợ. Đó là một cô nữ dân quân, bạn học cũ từ thời tiểu học. Một cuộc hôn nhân hoàn toàn không bắt đầu bằng tình yêu, giống như hầu hết mọi cuộc hôn nhân xưa cũ của các lớp cha anh trước đây. Tuy vậy, trong mấy năm ở nhà trường, cũng may, anh đã tìm thấy được một niềm vui và ham thích mới: đó là cuộc chiến đấu trên mặt trận thầm lặng. Lẽ ra anh còn có thể thích hơn nếu đó là cuộc chiến đấu ở bên kia chiến tuyến. Còn đây lại là cuộc chiến đấu ở ngay trong hàng ngũ của mình. Tốt nghiệp với những lời phê khá đẹp, Mẫn đã được điều về cơ quan an ninh của quân đội… Cũng không ngờ hôm nay anh đã có dịp trở lại thành phố này. Nhưng anh hiểu: anh trở về đây lần này không phải là để tìm lại cái địa chỉ 20 đường Võ Tánh xiết bao quen thuộc, thân thương của Thùy Dương. Anh về đây cũng đúng là để đi tìm một địa chỉ, nhưng là một địa chỉ của “ma quỷ”. Mẫn trở về thành phố này hôm nay không phải vì nó đang được nổi tiếng về một thắng lợi trong việc dùng mưu phá tan và bắt gọn một tổ chức phản động khá lớn ở địa phương. Không! Mẫn về đây vì một nhiệm vụ đặc biệt… ... *** Hồ Phương là Thiếu tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam và là một nhà văn nổi tiếng, ông đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012. Thiếu tướng, nhà văn Hồ Phương tên thật là Nguyễn Thế Xương, sinh năm 1931 tại Hà Đông, Hà Nội.(có tài liệu ghi 1930, tại Tây Hồ (quận), Hà Nội) Hồ Phương là nhà văn trưởng thành từ "Chiến sĩ Quyết tử" của Thủ Đô sáu mươi ngày đêm khói lửa bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của cha ông, gìm chân quân xâm lược cho cả nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến. Trực tiếp tham gia nhiều chiến dịch lớn suốt những năm chống Pháp trong đội hình của Đại đoàn quân chủ lực đầu tiên của Quân đội là Đại đoàn 308, sau này là Sư đoàn Quân Tiên phong Anh hùng, từ người lính lên Chính trị viên đại đội. Hồ Phương bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tay về bộ đội từ khi mới 17 tuổi. Năm 1949 ông phụ trách một trong những tờ báo đầu tiên của Quân đội là báo Quân Tiên phong của Đại đoàn 308. Từ năm 1955 ông về Tổng cục Chính trị, là thành viên tham gia thành lập tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1957. Nhà văn Hồ Phương từng giữ chức Phó tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội. Năm 1990 ông được phong quân hàm Thiếu tướng. Hiện nay ông đang là chủ nhiệm hội văn nghệ sĩ Xứ Đoài. Mời các bạn đón đọc Anh Là Ai? của tác giả Hồ Phương.
Quá Trễ Để Nói Lời Từ Biệt - Ann Rule
Tuy là một tiểu thuyết hình sự nhưng Quá trễ để nói lời từ biệt lại xoay quanh câu chuyện tình cảm có thật, đầy quyến rũ đồng thời là một thảm kịch đau lòng về sự ghen tuông, phản bội và sau cùng là án mạng... Jennifer Barber Corbin (gọi tắt là Jenn) là một phụ nữ đáng yêu, mảnh dẻ, mắt nâu, tóc vàng. Dường như cô đã có trong tay tất cả: hai đứa con trai cưng, một ngôi nhà sang trọng ở khu ngoại ô nhà giàu vùng Atlanta, xe hơi đắt tiền, du thuyền lộng lẫy. Chồng cô là Bart, một bác sĩ nha khoa thành đạt, cao lớn, đẹp trai và thông minh. Tuy nhiên, cuộc sống êm đềm, hoàn hảo của họ sớm bắt đầu rạn nứt. Bart đã qua lại với một phụ nữ đã có gia đình trong suốt thời gian chung sống với Jenn, cuộc hôn nhân của cả hai thực chất không hề tồn tại một tình yêu chân thành. Hai vợ chồng đã phải nhờ đến các chuyên gia tư vấn về hôn nhân. Bart phiền muộn còn Jenn như người vỡ mộng. Cô cần tìm một ai đó đáng tin cậy - ngoài mẹ và các chị em gái. Chỉ vài tuần trước Lễ Giáng sinh 2004, Jenn được phát hiện đã chết với viên đạn vào đầu cùng một khẩu súng bên cạnh. Vị trí thi thể của cô cho thấy dường như đây là một vụ tự sát. Nhưng cảnh sát điều tra Marcus Haead không hoàn toàn tin như vậy. Gia đình của Jenn cũng không tin cô có thể tự sát. Và cái chết này dường như có liên quan đến một vụ tình nghi tự sát khác trước đó mười bốn năm của Dorothy "Dolly" Hearn, một sinh viên nha khoa xinh đẹp. Từng là ngôi sao của trường trung học, rồi bước vào một trường nha danh tiếng, Dolly đã có khoảng thời gian hẹn hò, yêu đương với Bart. Nhưng sau đó, người ta phát hiện Dolly tự sát một cách bất thường. Mọi manh mối của vụ án dường như đều bị cắt đứt cho đến khi Jenn qua đời... Mọi nghi ngờ của cảnh sát về người chồng Bart càng có thêm cơ sở để khẳng định khi đứa con trai Dalton bé nhỏ của vợ chồng Corbin nói với mọi người rằng: Bố đã giết mẹ... Liệu có đúng đây là một vụ giết người? Thủ phạm là Bart? Cái chết của Dolly có liên quan tới Bart và cái chết của Jenn? *** Độc giả đang cầm trên tay một tác phẩm của Ann Rule - nữ văn sĩ hàng đầu nước Mỹ về thể loại tiểu thuyết hình sự dựa trên những câu chuyện có thật. Cuốn sách này thuật lại một câu chuyện tình cảm có thật đầy quyến rũ - và cũng là một thảm kịch đau lòng về sự ghen tuông, phản bội để rồi sau cùng là án mạng. Hai người phụ nữ đã phát hiện sự thật quá muộn màng. Jenn Corbin là một phụ nữ đáng yêu, mảnh dẻ, mắt nâu với mái tóc vàng. Dường như cô có được tất cả: hai đứa con trai cưng, một ngôi nhà sang trọng ở một khu ngoại ô nhà giàu vùng Atlanta, xe hơi đắt tiền, một chiếc nhà thuyền lộng lẫy trên sóng nước để hội hè, và một người chồng - Bart, một bác sĩ nha khoa thành đạt, cao lớn, đẹp trai và thông minh. Nhưng dần cuộc sống êm đềm của họ bắt đầu rạn nứt. Hai vợ chồng đã phải toan tính nhờ đến các chuyên gia tư vấn về hôn nhân. Bart phiền muộn; Jenn như người vỡ mộng. Cô cần tìm đến một ai đó đáng tin cậy - ngoài mẹ và các chị em gái. Thế rồi, chỉ vài tuần trước Giáng sinh 2004, Jenn được phát hiện đã chết với một viên đạn vào đầu, và một khẩu súng bên cạnh. Vị trí thi thể của cô cho thấy dường như đây là một vụ tự sát. Nhưng cảnh sát điều tra Marcus Head không hoàn toàn tin như vậy. Gia đình của Jenn cũng không tin cô có thể tự sát. Và cái chết này liên quan như thế nào đến một vụ tình nghi tự sát khác trước đó mười bốn năm - của Dorothy “Dolly” Hearn, một sinh viên nha khoa hết sức xinh đẹp? Là ngôi sao của trường trung học, Dolly bước vào trường nha và hẹn hò với sinh viên Bart. Có mối liên hệ nào không, hoặc liệu câu trả lời có nằm trong một mối quan hệ tình cảm bí mật - thậm chí nguy hiểm - ngoài hôn nhân của Jenn Corbin? Trong quá trình thực hiện tác phẩm này, Ann Rule đã phỏng vấn gần như tất cả những ai liên quan đến câu chuyện - gia đình các nạn nhân, các cảnh sát điều tra, công tố viên và các nguồn thông tin tại Georgia và  Atlanta, để lột tả sự thật đằng sau những gì báo chí đăng tải về hai cái chết thương tâm này. Ann Rule là tác giả của hơn hai mươi tựa sách best-seller theo bình chọn của New York Times, và tất cả vẫn đang được tái bản. Là một cựu sĩ quan cảnh sát, bà là người am tường về kỹ thuật hình sự và vẫn đang giảng dạy tại nhiều học viện cảnh sát. “Quá trễ để nói lời từ biệt” đáng được xem là một tác phẩm mỹ mãn trong sự nghiệp của văn tài hình sự Ann Rule. Mời các bạn đón đọc Quá Trễ Để Nói Lời Từ Biệt của tác giả Ann Rule.
Phá Án Ư? Cứ Để Sau Bữa Tối Tập 2 - Higashigawa Tokuya
SÁT NHÂN TRONG NHÀ, VÔ VÀN NGHI PHẠM, SUY LUẬN THUẦN TÚY. Với sự tham dự của hai cảnh sát chuyên nghiệp, gia thế cao sang, học vấn huy hoàng, đầu óc hoành tráng, nhưng chưa phá nổi một vụ án nào... Và một thám tử nghiệp dư làm nghề quản gia, lái xe, vệ sĩ kiêm dọn bàn, chỉ dựa vào các tình tiết nghe kể mà đoán đâu trúng đó... Phá án ư? Cứ để sau bữa tối là một tiểu thuyết viết theo phong cách trinh thám cổ điển, chặt chẽ mà hài hước, bày ra đủ mọi dữ kiện trước mắt người đọc, thách thức họ đi điều tra cùng mình, cười vòa sự rối beng của họ và cuối cùng làm cho óc suy luận của những người ham khám phá được thư giãn nhất. Là tiểu thuyết bán chạy nhất Nhật Bản năm 2011, Phá án ư? Cứ để sau bữa tối còn đặc biệt có duyên với khán giả khi lần lượt được chuyển thể thành phim truyền hình và điện ảnh ăn khách trong hai năm sau đó. *** Chỉ mất sáu phút để đi từ ga Kokubunji tới ga Tachikawa bằng tàu tốc hành đặc biệt Chuo. Một buổi chiều thứ Bảy trung tuần tháng Chín. Ga Tachikawa tấp nập người mua sắm lẫn không mua sắm. Quả không hổ danh là thành phố “nóng” nhất tuyến Chuo. Gần đây, không thành phố nào ở Chuo thay đổi chóng mặt như Tachikawa. Phía trước cửa ga được làm đẹp hơn, những tòa nhà tráng lệ mọc lên san sát, các khối trang trí có hình thù kỳ dị, đường tàu một ray chẳng biết về đâu chạy rù rì trên đầu. Một hình ảnh hoàn toàn đối lập với tuyến Chuo vốn có. Thậm chí có phần còn vượt trội cả thành phố Kichijoji. Đương nhiên là người dân Kichijoji không công nhận điều này. Hosho Reiko miên man nghĩ vậy khi bước trên đường bộ hành trên cao trước cửa Nam ga Tachikawa. Cô mặc bộ vest đen, đeo kính không số màu đen. Trông cô không khác gì một nhân viên công sở giản dị với mái tóc được búi gọn đang lắc lư theo từng nhịp chân. Nhưng thực tế thì Reiko hiện là điều tra viên của Sở Cảnh sát Kunitachi. Cô đến Tachikawa vì công việc chứ không phải để mua sắm. Khác với cửa Bắc đã có nhiều khu mua sắm lớn, cửa Nam ga Tachikawa chưa được cải tạo nhiều, vẫn còn nhiều khu đất chờ tái thiết. Sâu vào bên trong là nơi có nhiều tòa nhà tạp cư được miêu tả bằng ba từ “Cũ – Chật – Thấp”. Reiko đi thang cuốn xuống dưới mặt đất rồi đi bộ thêm một đoạn nữa. Trước mắt cô hiện ra tòa nhà năm tầng khung sắt, xây theo kiểu hình ống. Tòa nhà trông khá tồi tàn, mới nhìn tưởng sắp bị phá bỏ. Tấm biển “Tòa nhà Gondo” treo phía trước cũng nhuốm màu lịch sử. Đến nơi, Reiko kiểm tra ngay đồng hồ. Bây giờ là 2 giờ 15 phút chiều. Mới mười lăm phút trôi qua kể từ khi cô rời khỏi chung cư Wakaba Corp ở Kokubunji. Trên tàu điện không xảy ra chuyện gì khiến cô mất thêm thời gian. Như vậy, mười lăm phút là khoảng thời gian tối thiểu để đi từ Wakaba Corp đến Gondo. Reiko vừa kết luận xong thì… Có tiếng gào rú cô nhớ đã nghe thấy lúc ở Tachikawa. Linh cảm có chuyện chẳng lành, Reiko nhìn sang phía Đông thì thấy một chiếc xe hiệu Anh quốc – chiếc Jaguar màu bạc – đang phóng quá tốc độ cho phép. Dưới ánh nắng chiều, chiếc xe hào nhoáng sáng lấp lánh như gương. Nói chính xác thì đó là thứ ánh sáng chói mắt hơn cả khi nhìn thẳng vào mặt trời bằng mắt thường. Reiko thấy hơi chóng mặt, cô thầm van vỉ. “…” Xin anh đấy! Làm ơn đỗ cách tôi 10m. Trái với ước nguyện của Reiko, chiếc Jaguar thích gây chú ý chỉ đỗ cách Reiko có 50cm kèm theo tiếng phanh chói tai. Reiko tức tối vì bị đem ra làm trò cười trước ánh mắt tò mò của người qua đường. Trong khi đó, đủng đỉnh bước xuống từ ghế lái là một anh chàng mặc vest trắng. Không biết người dân Tachikawa nghĩ sao về anh ta. Hẳn họ nghĩ đây là một cậu ấm con nhà giàu hoặc một tay sai thân cận của trùm mafia chứ chẳng ngờ đó là một cảnh sát. Nhưng đó lại là sự thật. Vâng, anh ta chính là Kazamatsuri – thanh tra ưu tú của Sở Cảnh sát Kunitachi – người giữ chức thanh tra khi mới 32 tuổi. Còn nữa, anh ta cũng là quý tử của người sáng lập hãng Kazamatsuri Motors, hãng xe nổi tiếng với thiết kế đẹp và động cơ hao tốn nhiên liệu, vì lẽ đó nên gọi anh ta là cậu ấm con nhà giàu cũng chẳng sai. Nhưng cách gọi chuẩn nhất có lẽ là, Kazamatsuri – cậu ấm nhà giàu ăn mặc như tay sai mafia hiện đang là cảnh sát . Chàng thanh tra đó vừa bước xuống xe liền vung tay lên xem giờ như thể muốn khoe chiếc đồng hồ Rolex. Anh quay sang Reiko – người đến trước – bày tỏ sự thất vọng, “Tiếc quá. Đường xá chật chội khiến tôi không phát huy được hết tính năng của chiếc Jaguar này. Tôi đã trổ hết tài nghệ lái xe để rút ngắn thời gian rồi đấy.” Thanh tra Kazamatsuri say sưa tự mãn một cách vô thức rồi nhún vai thật mạnh, “Thôi, không lý do lý trấu nữa. Rõ ràng tôi thua rồi, cô Honsho nhỉ. Giữ đúng lời hứa, tối nay tôi sẽ đãi cô món Ý hảo hạng.” “Hả!?” Sau một thoáng bối rối, Reiko đập hai tay vào nhau, “Hay quá! Tôi vẫn mong mỏi được ăn tối cùng thanh tra, dù chỉ một lần!” và ghé sát vào mặt thanh tra nói tiếp, “Anh tưởng tôi sẽ sung sướng thốt lên như vậy hả?” “Nếu cô muốn…” Thanh tra Kazamatsuri hơi né người về phía sau. “Chẳng có vụ cá cược nào nói ai thắng sẽ được đãi món Ý hảo hạng hết! Không bao giờ có chuyện đó!” “Tôi không nghĩ là không…” “Không!” Reiko quả quyết. “Chúng ta chạy thi từ Kokubunji đến Tachikawa không phải là để cá cược. Đó là một phần của công tác điều tra. Thủ tục cần có để kiểm tra bằng chứng ngoại phạm. Phải không thưa thanh tra?” .. Mời các bạn đón đọc Phá Án Ư? Cứ Để Sau Bữa Tối Tập 2 của tác giả Higashigawa Tokuya.
Xin Đừng Buông Tay - Michel Bussi
Kỳ nghỉ dưỡng ở chốn "thiên đường nhiệt đới" trên đảo Reunion của vợ chồng Martial bỗng biến thành ác mộng: người vợ đột nhiên mất tích trong phòng khách sạn, Martial trở thành kẻ tình nghi số một. Cách đó không xa, trên bãi biển Saint - Gilles, thi thể ông già người bản địa được phát hiện và trong tình trạng bị lũ cua rỉa nham nhở - trên ngực ông già cắm một con dao của... Martial. Mọi sự càng rắc rối khi kẻ tình nghi số một bỏ trốn, đem theo cô gái sáu tuổi. Khi lớp mặt nạ Martial vẫn đeo dần được lột bỏ, khi những bóng ma quá khứ trỗi dậy, khi những lời dối trá chồng chất lên nhau tưởng như bất tận, chính khi đó, sự thật mới được phơi bày. Bất ngờ tuyệt đối! "Một tác giả tinh quái dệt nên những tình tiết được đan cài hoàn hảo đến những chữ cuối cùng." (LE FIGARO) *** Saint Gilles les Bains, đảo Réunion Thứ Sáu Ngày 29 tháng Ba năm 2013 15h01 — Em lên phòng một lát. Liane không chờ lời đáp lại, nét mặt vui vẻ, rạng rỡ, cô chỉ mới thông báo như thế với con gái và chồng thì đã rời khỏi bể bơi luôn. Từ sau quầy bar, Gabin đưa mắt nhìn theo cô với vẻ kín đáo chuyên nghiệp. Tuần này, Liane là người phụ nữ đẹp nhất khách sạn Alamanda. Và trông xa thì... Tuy nhiên, cô không phải kiểu nữ du khách mà anh thường để mắt. Nhỏ nhắn, rất thanh mảnh, gần như không có ngực, nhưng ở cô có gì đó không-biết-nói-thế-nào vô cùng đặc biệt. Có lẽ là ở làn da vẫn còn trắng trẻo, với những đốm tàn nhang bắt đầu xuất hiện ở phần thắt lưng, ngay phía trên chiếc quần bơi màu xanh ngọc xen vàng. Cặp mông nhỏ nhắn đi xa dần, khẽ lúc lắc như một thứ quả còn xanh đu đưa trong gió. Đôi chân trần của cô dường như lướt đi trên cỏ, không làm gãy một cọng nào. Gabin vẫn dõi mắt nhìn theo cô cho đến tận sân trong, sau dãy ghế gập phủ vải trắng, nửa người khuất sau cây cọ khẳng khiu. Hình ảnh cuối cùng về cô mà anh nhìn thấy, hình ảnh mà anh sẽ nói với đại úy Purvi, là khi cô kín đáo cởi bỏ phần trên của bộ đồ bơi; hình ảnh gợi cảm mờ ảo của một tấm lưng trần, một bầu ngực trắng ngần, một nửa nhũ hoa, chỉ trong một thoáng khi cô với chiếc khăn rộng màu hoàng hôn quấn quanh người. 15h03 Ở quầy lễ tân, từ phía sau chiếc bàn bằng gỗ gụ, Naivo đáp lại nụ cười ướt át của Liane nhiệt tình hết sức. — Chào quý cô... ... Mời các bạn đón đọc Xin Đừng Buông Tay của tác giả Michel Bussi.