Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bến Xe (Thương Thái Vi)

Chiếc xe nào cũng phải rời bến, con đường nào cũng phải có điểm dừng.Trong cuộc sống hiện thực, khi mỗi con người cất tiếng khóc chào đời, rồi lớn lên, rồi trưởng thành, rồi gặp được người trong định mệnh… Tất cả những giai đoạn đó, đều tuân theo một quy luật đã được định sẵn, quy luật đó mang tên “Vận mệnh”. Khi đọc "Bến Xe" của tác giả Thương Thái Vi, tôi mới thấm thiết cái quy luật mang tên "Vận mệnh" đó lại tàn nhẫn và bất công đến mức khiến tôi cảm thấy sợ hãi, không ai có thể tự lựa chọn vận mệnh cho mình, chúng ta có thể là thiên tài nổi trội cũng có thể là một con người bình thường trong dòng dòng xã hội. Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng nghị lực để thách thức rồi đối đầu với chính vận mệnh đó, và cuộc đời của thầy Chương Ngọc cùng với cô học trò nhỏ của thầy trong "Bến Xe" là một trường hợp điển hình.

Đầu tiên phải gửi lời cám ơn chân thành đến tác giả lẫn dịch giả của quyển "Bến Xe", nếu không có tác giả, nếu không có dịch giả, chắc chắn tôi sẽ không được thưởng thức và trải nghiệm một tác phẩm có tính nhân văn về cuộc sống, đời người cao đến như thế. Khi đọc xong "Bến Xe", tôi chỉ có một suy nghĩ duy nhất, đó chính là hối tiếc, hối tiếc vì sao tôi không biết đến tác phẩm sớm hơn. Đây không phải lần đầu tiên tôi đọc thể văn buồn, nhưng có thể khẳng định đây là lần đầu tiên tôi được đọc một tác phẩm ấn tượng đến như thế, ấn tượng đến mức khiến tôi phải lần đọc từng câu từng chữ vì sợ bỏ sót từ nào đó, khiến tôi hòa cả tâm hồn mỗi khi đọc tác phẩm, khiến mỗi một cử chỉ của hai nhân vật đều khiến tôi bất ngờ với chính phản ứng của mình, có khi cười, có khi khóc… Nhưng tôi chỉ có thể nói một điều: Đây là một tiểu thuyết chấn động nhất mà tôi từng được đọc.

Khi đọc "Bến Xe", tôi hoàn toàn sững sốt vì cách hành văn của tác giả, đó là một giọng văn hoàn toàn khác so với những tiểu thuyết và tôi từng được đọc. Bạn đừng bất ngờ khi thấy hầu hết các đoạn trong tác phẩm đều tập trung miêu tả tâm lý nhân vật, diễn biến cảm xúc nhân vật, lời thoại lại rất ít, nhưng có lẽ đó chính là cái được gọi là “nghệ thuật” không lẫn với bất kỳ tác giả nào của Thương Thái Vi và cũng chính nó đã tạo thành điểm nhấn riềng cho tác phẩm. Khi đọc, tôi hòa cả tâm hồn vào tác phẩm, tôi tưởng tượng dáng vẻ của thầy Chương Ngọc, gương mặt của Liễu Địch, mường tượng hình ảnh bến xe… Thay vì mọi người gọi đó là ám ảnh khi đọc truyện buồn, thì xin cho phép tôi dùng hai chữ “Thăng hoa” để diễn tả cảm xúc đó.

Nếu nói “Bến Xe” là một quyển tiểu thuyết tình cảm, tôi không phủ nhận, nhưng nó lại không hoàn toàn đúng. Sau khi đọc hết tác phẩm, tôi mới rút ra một kết luận, đây là thực chất chính là một cuốn sách tài liệu về cuộc đời của một thiên tài, một người thầy có tên Chương Ngọc qua cái nhìn của người thầy yêu nhất, hiểu thầy nhất. Chính vì nó là một cuốn sách tài liệu nên nó cũng bao hàm rất nhiều giá trị khác của cuộc sống, giá trị nhân cách con người, giá trị tâm hồn con người, giá trị xã hội thực tiễn, giá trị tình yêu đích thực và cả giá trị mang tên cái nhìn thiển cận của loài người.

Nếu so sánh thầy Chương Ngọc - nam chính - linh hồn của truyện với những nhân vật khác trong các quyển tiểu thuyết khác, tôi chỉ có thể hình dung thầy bằng hai chữ “Hoàn hảo”, hoàn hảo về nhân cách, về tâm hồn và là cả con người thầy. Có thể thầy khiếm khuyết rất nhiều, thầy chỉ có đôi tay trắng, bộ óc thiên tài, trái tim nhân từ và tâm hồn mạnh mẽ… Nhưng có mấy ai có thể đối mặt và chấp nhận số phận được như thầy. Thầy chưa một lần trách cứ vận mệnh lấy đi của thầy tất cả, thầy chưa một lần ai oán người mất đi tất cả như thầy lại sống vất vả hơn bất kì kẻ lành lặn nào. Thầy đẹp hơn bất kỳ ai, thầy hoàn mỹ hơn bất kỳ ai và tình yêu của thầy cũng thuần khiết, cao cả và mãnh liệt hơn bất kỳ ai. Tìm mua: Bến Xe TiKi Lazada Shopee

Cuộc sống của thầy có thể tăm tối, nhưng con người của thầy lại chói sáng một cách lạ thường; Học vị của thầy có thể thấp, nhưng kiến thức của thầy lại cao rộng đến mức khiến người khác đố kị. Đôi mắt thầy có thể không nhìn thấy gì, nhưng cửa sổ tâm hồn của thầy lại rực sáng đầy sức sống. Con người thầy có thể lạnh lùng, nhưng trái tim thầy lại ấm áp đến mức có thể sưởi ấm cho cả một không gian rộng lớn. Cuộc sống của thầy có thể nghèo túng, nhưng nhân cách của thầy lại cao cả như bầu trời bao la. Và với người được xem là không có quyền yêu và được yêu như thầy, thì tình yêu từ trái tim lại to lớn như biển rộng không có giới hạn. Có lẽ sự hoàn mỹ của thầy chỉ được phát sáng khi ngôi sao chiếu mệnh của thầy xuất hiện, cô học trò bé bỏng tài hoa Liễu Địch của thầy chính là ngọn đèn soi sáng thế giới mênh mông vô bờ nhưng lại đen tối trong cuộc đời thầy.

“Em…em có thể cho tôi “ngắm” em không?”

“Em chắc chắn không phải là vịt con xấu xí, em là một thiên nga trắng. Ít nhất trong lòng tôi, em mãi mãi là thiên nga trắng đẹp nhất”

“Tôi thật sự hy vọng… lúc này… đôi mắt tôi có thể bừng sáng, cho dù chỉ một phút. Một phút thôi cũng được, tôi nguyện dùng cả sinh mạng của mình để đánh đổi”

Nếu nói về giá trị tình yêu trong tác phẩm, tôi xin khẳng định rằng, không có tình yêu nào thầm lặng nhưng lại mãnh liệt như tình yêu của thầy Chương Ngọc dành cho Liễu Địch. Tình yêu đó gần như là thuần khiết không nhiễm một tạp chất, gần như là trong sáng không vướn một hạt bụi trần… Thầy yêu, thầy yêu cô học trò bé nhỏ của thầy, tình yêu đó chưa từng được biểu lộ, nhưng tình yêu đó lại được thầy triển khai bằng hành động, thầy thông tuệ như thế, thầy sáng suốt như thế… Thầy làm sao có thể để bản thân một người khiếm thị như mình ảnh hưởng đến tương lai của cô. Trong suốt quá trình đọc truyện, hơn bất kỳ ai, hơn bất kỳ một độc giả nào, tôi luôn hy vọng “Bến Xe” hãy ảo hơn một chút, hãy không thực tế hơn một chút, tôi từng hy vọng “Bến Xe” hãy cho tôi một chút cảm giác đó là tiểu thuyết, hãy cho thầy được quyền yêu và được yêu, hãy để cuộc sống mất mát quá nhiều thứ của thầy được bù đắp.

Điều mà tôi ngưỡng mộ nhất ở tác giả Thương Thái Vi là cách xây dựng tình tiết truyện “Bến Xe”, trong suốt quá trình đọc truyện, tôi hồi hợp và thậm chí đã bị sốc với diễn biến của truyện. Tôi ngẩn ngơ vì bất ngờ với lối xây dựng tình huống của cô. Có một điều khiến tôi tâm đắt khi đọc “Bến Xe”, đó chính là truyện quá thực tế, cách tác giả Thương Thái Vi miêu tả hiện thực trong truyện thực tế đến mức tôi cảm thấy trần trụi. Đúng vậy, đó là trần trụi.

Bi kịch chính là những thứ đẹp đẽ bị hủy bỏ, Thầy Chương chính là vẻ đẹp bị số mệnh hủy diệt. Nhưng vẻ đẹp kiểu gì vẫn cứ là đẹp, dù có bị nghiền nát thành mảnh vụn cũng vẫn đẹp.

Xã hội luôn như thế, những cá thể tạo thành một xã hội như chúng ta luôn khắc nghiệt và lạnh lùng đến mức dửng dưng với một con người khiếm khuyết như thầy Chương Ngọc, con người như chúng ta luôn đố kị với tài hoa của người khác, luôn bực tức khi bản thân mình kém hơn người khác vì thế chúng ta cũng bài xích và phủ định những người khuyết tật nhưng lại tài giỏi hơn chúng ta. Tàn nhẫn hơn nữa là dư luận, chúng ta là một trong những người đan chỉ thành tấm vải dư luận, dư luận là gì? Dư luận không hề nuôi sống chúng ta, nhưng tại sao dư luận lại là sức mạnh vô hình có thể quyết định sinh tử của một người. Có lẽ tác giả đã thông qua “Bến Xe” để lên án bóng tối trong mỗi con người, thông qua tác phẩm tác giả muốn chúng ta nhìn nhận về khuyết điểm của dư luận.

"Danh dự là gì? Nói trắng ra, danh dự chính là cách nhìn của người khác về bạn. Bạn có danh dự hay không, không phải vấn đề bản thân bạn có trong sạch hay không, mà là vấn đề người khác có thừa nhận bạn hay không? Vì vậy từ xưa đến nay, rất nhiều người dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch và bảo vệ danh dự của bản thân. Cách làm này tuy tiêu cực nhưng cũng hữu hiệu nhất. Bởi vì trong hiện thực cuộc sống, con người không dễ thông cảm cho người sống, mà dễ thông cảm cho người chết. Con người thường nhớ tới khuyết điểm của người sống. Một khi người đó chết đi, con người sẽ dễ nhớ đến ưu điểm của họ. Vì vậy, dùng cái chết để chứng minh sự trong sạch, tuy phải bỏ cả mạng sống nhưng phần lớn có thể đạt được mục đích. Chỉ là, khi mỗi sinh mệnh sống tìm cách bảo vệ danh dự, càng nghiệm chứng một cách sâu sắc sự tàn khốc của xã hội".

Cho đến lúc này, nữ chính Liễu Địch là nhân vật nữ mà tôi thích nhất. Tôi thích Liễu Địch không phải do cô xinh đẹp, thông minh mà do cô mạnh mẽ và kiên định. Với một cô gái chỉ hơn 18 tuổi, cô còn quá nhỏ để đối mặt với tình yêu, với cuộc sống và với sự tàn nhẫn của dư luận, nhưng cô lại kiên định đến mức khẳng định cô chỉ yêu và yêu một người. Cô là vận mệnh của thầy, thầy là số kiếp của cô. Cô thắp sáng cuộc đời tối tăm của thầy, thầy lại là con thuyền đưa cô đến với tương lai tươi sáng. Nếu không có thầy, Liễu Địch chưa chắc đã thành công, nếu không có cô, chưa chắc cuộc đời của thầy Chương Ngọc sẽ đủ màu sắc.

Tình cảm của tôi đối với thầy, gồm cả sùng bái, ái mộ, khát khao, quyến luyến… Đây là tình cảm đã được tôi luyện qua ba năm, tôi và thầy cùng trải qua phong ba bão táp, là tình cảm nảy sinh từ sự tin tưởng, chia sẻ cùng nhau.

Nhưng Liễu Địch còn quá nhỏ để nhận ra tình yêu của thầy dành cho cô, nhận ra lời tỏ tình của thầy trong những câu hát, sự quan tâm của thầy trong hành động, sự yêu thương của thầy trong lời nói… Và hơn nữa là trái tim bé nhỏ của cô đã yêu thầy khi mà cô không hề phát hiện. Đó là tình thầy trò hay đó là tình yêu? Liễu Địch không thể biết được, cô còn quá nhỏ để nhận thức được tình yêu cô dành cho thầy, nhận ra rằng đó là “yêu” chứ không phải “sùng bái”.

Nhưng khi ngòi thuốc tình yêu trong lòng cô được châm đốt, rồi nhen nhóm, rồi phát sáng và bùng nổ. Cô đã khẳng khái đối mặt với nó, cô muốn nói “cô yêu thầy”, cô muốn nói cô nguyện cùng thầy vượt qua tất cả… Nếu vận mệnh ít trớ trêu hơn, nếu cuộc sống công bằng hơn, nếu đời người có chữ "nếu". Điều tiếc nuối nhất của tôi đó chính là cuối cùng thầy Chương Ngọc vẫn không thể nghe được lời nói yêu của Liễu Địch dành cho thầy, thầy dùng tính mạng của mình để “thành toàn” cho cuộc đời của cô, cho tương lai của cô, cho danh dự của cô, giá như cô về sớm hơn, giá như cô nhận ra sớm hơn…Nhưng tất cả đã quá trễ, trễ một ngày, trễ một mối tình và trễ cả cuộc đời.

Bi kịch thật sự không phải là cái chết, sự chia lìa mà bi kịch thật sự chính là chúng ta không tìm được người đáng để chúng ta trả giá trong cuộc đời của mình.

“Con từng nói, sinh mệnh và linh hồn của con đã hòa nhập vào sinh mệnh và linh hồn của thầy Chương. Bây giờ, con chính là thầy, thầy chính là con, tác phẩm thầy chưa hoàn thành, con sẽ viết thay thầy; mơ ước thầy chưa thực hiện, con sẽ thực hiện giúp thầy; Con đường thầy chưa đi hết, con sẽ tiến bước thay thầy; Huy hoàng thầy chưa kịp tạo ra, con sẽ tạo giúp thầy. Con sẽ vì thầy sống vui vẻ, sống ngoạn mục. Con sẽ cùng thầy bước ra khỏi bóng tối, đi tới ánh sáng!”

“Con sẽ không yêu bất kỳ người đàn ông nào. Sinh mệnh và linh hồn của con đã hòa nhập cùng thầy Chương, sao con có thể dung nạp người khác?”

“Con sẽ không oán trách số phận nữa. Con cám ơn ông trời vì đã cho con một tình yêu lâu bền nhất, cao thượng nhất, thuần khiết nhất, mãnh liệt nhất, sâu sắc nhất trên cuộc cõi đời này. Bao nhiêu người sống ở đời có được một tình yêu như vậy? Con còn điều gì không hài lòng?”

Xuyên suốt quá trình đọc “Bến Xe” tôi đã khóc rất nhiều, tôi cảm động, tôi chấn động và tôi sợ hãi. Tình yêu của thầy Chương Ngọc dành cho Liễu Địch quá cao cả và bao la, tình yêu của thầy quá thiêng liêng và rộng lớn. Tôi thích cách yêu của thầy, thầy yêu lặng lẽ, thầy yêu âm thầm nhưng đó lại là tình yêu mãnh liệt. Tôi từng nhiều lần hỏi bản thân mình, phải chăng vận mệnh của những người đa tài như thầy đều bi ai đến thế, phải chăng vì thầy quá tài hoa nên đường đời của thầy mới đầy chông gai. Có phải chỉ khi thầy là Chương Hải Thiên thì thầy mới chính là thầy đầy sức sống, vậy linh hồn và thể xác thầy về với trời biển bao la phải chăng đó mới chính là điều mà thầy muốn, nếu thế, cái kết của “Bến Xe” không chỉ thành toàn cho Liễu Địch mà còn thành toàn cho cả thầy, cho cả ước mơ khao khát của thầy nữa.

“Liễu Địch, thứ tôi có thể cho em trong cuộc đời này, chỉ có danh dự trong sạch và một tương lai tươi đẹp mà thôi. Thế nhưng, nếu chúng ta có kiếp sau, nếu kiếp sau tôi có đôi mắt sáng, tôi sẽ ở bến xe này… Đợi em”

Thầy Chương nở nụ cười, lần đầu tiên nở nụ cười tươi. Nụ cười đó trong sáng như bầu trời mùa thu không một gợn mây, rạng rỡ như ánh nắng mùa xuân…

Liễu Địch ngây ngốc dõi theo chiếc xe buýt mỗi lúc một xa, cho đến khi gương mặt và nụ cười xán lạn của thầy Chương biến mất trong sắc chiều tà.

Đó là hình ảnh cuối cùng của thầy Chương Ngọc mà Liễu Địch được nhìn thấy, và đó cũng là nụ cười đầu tiên mà thầy dành cho cô. Chiếc xe nào cũng phải rời bến, con đường nào cũng phải có điểm dừng. Hình ảnh chia xa cuối cùng của thầy và cô là hình ảnh thầy rực sáng và đẹp đẽ nhất. Đó là nụ cười bình an, đó là nụ cười thanh thản của sự chia ly vĩnh viễn.

“Tôi ra đời vì sự ra đời,

Tôi chết đi vì sự tử vong,

Tôi chết đi vì sự ra đời”

Thầy đã trở về với trời biển bao la, cảnh đẹp mà thầy thích nhất, cô cùng đã có được danh dự trong sáng và tương lai tươi đẹp như thầy muốn. Nếu vậy, không phải cái kết của “Bến Xe” rất đẹp và hoàn hảo hay sao?

Cuối cùng là chúng ta, những người sống trong xã hội hiện thực, tôi nghĩ, điều chúng ta sợ nhất không phải là gặp phải bi kịch, mà là không tìm được người chúng ta có thể yêu đến mức đánh đổi cả sinh mệnh và yêu chúng ta đến mức đánh đổi cả mạng sống. Bi kịch thật sự không phải là cái chết, sự chia lìa mà bi kịch thật sự chính là chúng ta không tìm được người đáng để chúng ta trả giá trong cuộc đời của mình.

Hãy chúc cho những người yêu và sẵn sàng trả giá, đánh đổi, hy sinh như thầy Chương Ngọc có một cái kết vui vẻ và cũng chúc những ai đánh đổi cả mạng sống vì tình yêu được bình an, thanh nhàn. Cám ơn cô Thái Vi, cám ơn chị Greenrosetq một lần nữa đã mang “Bến Xe” đến với độc giả, gieo mầm giá trị tình yêu và cuộc sống bất hữu vào lòng người đọc.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bến Xe PDF của tác giả Thương Thái Vi nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Chân Trời Cũ (Hồ Dzếnh)
TỰ SỰ CỦA TÁC GIẢ Tập truyện này ra đời, tính năm đã được bốn. Nó ra đời và mang lại ngay cho tác giả một kết quả mầu nhiệm: hầu hết những nhân vật của cuốn sách đã “lên đường” về… chân trời cũ: chú Nhì, người anh Cả, thằng cháu đích tôn, chị đỏ Đương, cô em Dìn, và vài nhân vật phụ: bà mẹ ghẻ, em bé Thi. Mấy người sau này, hiện còn sống, nhưng tuổi già, sức khỏe và hoàn cảnh đã giục họ nghĩ đến cái giờ - để mượn một tiếng chuyên môn của Thiên Chúa giáo - giờ “sinh thì”: bà mẹ già thân yêu, người chị dâu Trung Quốc, ông anh Hai phóng lãng và… tác giả tập sách này. Một người nữa, tuy không cùng họ đương, dòng giống, nhưng quan hệ mật thiết với tác giả về phương diện cảm tình, một linh hồn Việt Nam tế nhị, một nghệ sĩ trang trọng mà đơn sơ, hiện thân của tình yêu đất nước - nhà văn rất thuần túy, rất nhân đạo, Thạch Lam - người bạn đã đáng tiếc từ trần một tháng sau ngày tập đoản thiên này được xuất bản. Và một người nữa, vẫn góp mặt trong thế giới hữu hình, một tình yêu cố hữu đi sóng đôi với ân nghĩa anh em đã hy sinh chút ít tiền của để cho in lần thứ nhất cuốn sách này, dầu biết rằng nó “không chạy như các món quà giải trí khác”. Thêm một người nữa, mà định mệnh đã chọn hộ cho con đường chồng vợ theo luật cõi đòi, người con gái có đôi mắt đẹp như thơ, có quê hương mơ màng và xanh biếc, có tấm lòng thắm dịu, mở rộng như trang sách ái tình… Tìm mua: Chân Trời Cũ TiKi Lazada Shopee Tên hai người trên đây, không viết ra vì nhiều lẽ, và cái lẽ chính đáng nhất vẫn là niềm yên lặng đầy tiếng nói thầm. Và còn những tâm hồn xa xôi và đẹp đẽ, những thương nhớ giải rộng như không gian, những tên có màu xanh hay lòng có nước mắt, sống giữa đô thành hay dưới trời thôn dã, những vương vấn ảo huyền mà chỉ nhà văn mới có toàn quyền đặc hưởng. Ròng rã trong bốn năm, sống cái đời cô đơn và tịch mịch trong đó thoáng dệt đôi lúc những bóng nắng, hình mây, tôi đã nghĩ rất nhiều đến bao nhiêu linh hồn bạn mà hơi thở hòa vào hơi thở tôi, làm vui buồn những tư tưởng phù hoa do người đời mệnh danh là Nghệ thuật. Bốn năm! Hương sắc chưa mờ, từ ngày reo than lần đầu tiên những tiếng lòng ngây dại. Nước non, trong quãng thời gian đó, từng rung cảm những lớp Phế, Hưng, để ngày nay đi về một Mùa Xuân Trọng Đại. Dưới bóng thiều quang của một năm ghi bằng nét vàng vào lịch sử cách mệnh người dân Việt, tôi dám tin tưởng rằng tập sách này tái sinh sẽ nói hộ lòng tôi được nhiều lắm. Bằng tình cảm, bằng tôn giáo, bằng tinh thần vĩnh viễn phương Đông, xứ Á châu quê hương của chúng ta, trong đó nổi lên hàng trên Việt Nam và Trung Quốc, sẽ tiến triển một cách mạnh mẽ hơn hết bao giờ. Và Nghệ thuật sẽ làm vinh hiển đời sống rồi đây sắp trở lại tươi tốt với loài người. Bạn ạ, tôi là kẻ ít tin nhất rằng loài người đẻ ra đã sẵn cái tài trong óc. Cho nên, được mang danh là nhà văn, tôi thấy thẹn thùng biết mấy! Do những tình cờ của hoàn cảnh, xô xát với cõi đời, chúng ta, để gắng nói ra những nỗi lòng u kín, đã nghiêng về cuộc sống bên trong. Nhưng trên cả Tình và Tài, trên những vinh hạnh chói lòa nhiều khi rất không chân thật, một điểm sáng lấp lánh tự ngàn thu, một Triều Thiên mà thế kỷ nào cũng ước ao, thèm khát, đó là Tấm Lòng. Nhà thi sĩ Nguyễn Du đã nói, và câu của thi sĩ có thể dùng để kết thúc bài tự sự nhỏ này: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.” Hà Nội, tháng Bảy năm 1946 HỒ DZẾNH*** GIỚI THIỆU Ông Hồ Dzếnh, tác giả tập sách này, là một người Minh hương. Cái trường hợp ấy đáng kể vì ông là một nhà văn. Những chuyện ông kể cho ta biết toàn là những chuyện về gia đình ông, gia đình của những người Trung Hoa nhẫn nại và chịu khó sang lập nghiệp ở bên này. Một người cha lầm lì, suốt ngày không nói, một người mẹ Việt Nam vào hạng những đàn bà Việt Nam đã làm nên đất nước này, người đàn bà chỉ biết có chịu khó về chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn hay oán hận, mà cái ước mong sung sướng nhất là cứ được hy sinh mãi. Và một vài người con, một vài nàng dâu, - trong số đó có một nàng dâu Trung Hoa - cùng lập thành cái gia đình mà số phận hình như bắt buộc phải buồn rầu. Sau khi người cha qua đời, thì cái thời sung túc, đoàn tụ cũng mất đi. Dấu vết không còn lại gì. Và hình ảnh con ngựa trắng đủ yên cương trên cánh đồng cỏ xanh nổi lên như vang bóng của thuở nào. Điều mà ta nhận thấy ở ông Hồ Dzếnh, cũng là một điều gần giống ở bà mẹ ông, nghĩa là cái sức chịu đựng đau khổ. Tác giả đã đau khổ trong cuộc sống: và chúng ta nhận thấy ông ưa thích quay về dĩ vãng, để lại khiến những đau khổ cũ trở dậy và thêm sắc mắc hơn nữa. Cho nên những chuyện ông kể cho chúng ta nghe đều có một màu sắc riêng, đều nhuộm một tiếc hận thấm thía. Ông chỉ kể những chuyện ấy thôi, nhưng mà đủ có mực thước để khỏi thành ra phô phang, và cũng đủ rung động để độc giả cảm thấy sự thành thực, sự “đã sống” của những chuyện đó. Những nhân vật ông trình bày đều linh động cả. Mỗi người đều có một bản ngã riêng, và chúng ta nhận thấy - tình cờ hay là số mệnh? - người nào cũng mang một tâm hồn đau khổ. Người mẹ, người con cả, người con thứ, cho đến cô Yên, cái cô gái nuôi đặc biệt Việt Nam, vẫn sống trong một gia đình không phải của mình, để mà chịu đựng bao nhiêu vất vả bất công, tuy có được người mẹ nuôi biết thương đến. Cái đời sống tối tăm và lặng lẽ ấy không đi đến đâu cả, và tác giả để chúng ta thấy thoáng qua số phận một dân số nghèo khó ở các tỉnh đông đúc hay nghèo nàn, cuộc sinh hoạt khó khăn trên những đồng ruộng bạc màu. Đấy là cả những điều mà chúng ta sẽ thấy khi lần giở trang quyển sách này. Tác giả đã khéo xếp đặt, cho độc giả thấy cả cái dĩ vãng của một gia đình Việt-Hoa. Chúng ta thấy tác giả đã ít nói đến mình, để làm trội những nhân vật khác lên, tuy rằng lúc nào tác giả cũng là vai chủ động trong các truyện. Mà nói về dĩ vãng là một sự khó khăn, khi những điều ta ngẫm nghĩ chưa có đủ thì giờ lắng xuống và thêm bền chặt. Tuy vậy, ông Hồ Dzếnh đã vượt qua nỗi khó khăn đó một cách đáng vinh hạnh cho tài ông. Tôi không nói rằng tác phẩm này không có khuyết điểm, nhưng tác giả còn trẻ và tài năng của ông còn hứa hẹn cho chúng ta nhiều. THẠCH LAM (trong Tự Lực Văn Đoàn)*** HỒ DZẾNH (1916-1991) tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh, sinh tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. cha ông là người gốc Quảng Đông, còn mẹ là người Việt. Ông là một nhà văn nổi tiếng ở Việt Nam từ thời tiền chiến. *** “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò…” Ngày nhỏ, mỗi lần chán chúng bạn, tôi vẫn hay lại bên mẹ tôi, cầu khẩn người kể lại sự cưới xin giữa người và ba tôi, rồi để tôi đem thuật lại với hàng xóm. Tôi còn nhớ nơi mẹ tôi ngồi kể chuyện là một cái hè bằng đất nện trước nhà. Tự đó, tôi vừa nghe chuyện, vừa nhìn ánh nắng chiều nghiêng xế, và những bóng lá lung linh. Có khi đương giữa câu chuyện, tôi véo má mẹ tôi mà hỏi: - Đố mẹ biết bao giờ đến Tết? Đố mẹ biết con được bao nhiêu tiền phong bao? Mẹ tôi khẽ gỡ tay tôi ra, lặng lẽ nói tiếp, và lặng lẽ ru tôi ngủ mất lúc nào! Tuy nhiên, trong giấc mơ kỳ dị, tôi vẫn hình dung được cả đám cưới, chú rể là ba tôi, cô dâu là mẹ tôi và… tôi là người dự lễ! Dần dần tôi lớn lên. Qua mẩu đời sum họp của hai người sinh ra tôi, tôi nhận thấy một định mệnh khe khắt, một duyên phận tăm tối và buồn rầu. Vì thế, tôi được sự thật cho biết rằng phần nhiều, hay tất cả cũng được, những bà mẹ Việt Nam - tôi nói những bà mẹ đáng là mẹ - đều phải đau khổ ngay từ lúc lọt lòng. Mọi sự do “Trời” định, các tâm hồn đó chỉ biết vâng theo, một cách nhẫn nhục, một cách lặng lẽ, một cách chua xót vô cùng! Bao nhiêu thế kỷ rồi, những tiếng thở dài mất tăm trong đêm tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống bổn phận hằng ngày, tầm thường và nhỏ mọn. Cuộc hôn nhân của mẹ tôi, đến nay, tôi mới thấm thía được hết cái đơn giản, mới biết suy ngẫm trước sự lễ nghi của nó. Và đến ngày nay, tôi mới hiểu mẹ tôi hơn lúc nào hết, người con gái lái đò trên sông Ghép ngày xưa, người mẹ Việt Nam một cách dịu dàng và cao trọng… * * * Cách đây hơn năm mươi năm. Một buổi chiều mùa hè vàng rực. Trên bờ sông Ghép lặng lẽ của tỉnh Thanh Hóa, dân làng Ngọc Giáp bỗng thấy mọc lên bóng một người ngoại quốc, tay xách một gói vải xanh thay va li, và đầu chụp chiếc mũ rơm đã vàng ỏng. Người khách lạ có chiếc trán rất lạ: nó nhỏ nhưng nhô ra một cách bướng bỉnh. Nhất là đôi mắt, sắc như dao, bén như nước, nhìn vật gì thì như hút lấy vật ấy. Hai cái đặc điểm đó nhất định không được tạo bằng thủy thổ Việt Nam, mà là bằng tinh hoa của một dân tộc khác. Một vẻ gì xương xương, rắn rắn độn khắp mình người khách, biến cái thân thể thoạt trông thì gầy kia ra sự chịu đựng khó nhọc, ở đấy, một nghị lực bền vững tiềm tàng. Khách mặc một bộ quần áo bằng lĩnh Quảng Đông, nguyên màu đen, nhưng sau khi trải nhiều phong trần, đã đổi sang màu xám kệch. Y phục ấy gợi được trong lòng người gặp, bao nhiêu là cảm giác thanh thú, hương vị xa xôi. Từ đằng xa, những gợn lụa phơ phất như những gợn gió trùng dương, và khi lại gần thì gió trùng dương lại chỉ toàn xông lên một mùi cá mặn! Linh hồn Trung Quốc phát lộ ra trong từng bước đi, điệu đứng, trong sự trầm mặc, trông tìm, trong cả cách đưa năm đầu ngón tay có móng dài vẩn ghét lên gãi sồn sột chiếc đầu gần như húi trọc tếch. Đêm về trong những bước nhẹ, hắt hiu bốc hơi lên mặt sông. Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn của Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây ưu hoài như một chinh phụ nhớ chồng. Và như một gã giang hồ chạnh lòng khóc nước. Tuy nhiên, đôi mắt trong và sáng kia không hề vẩn bởi màu sắc thê lương, vẫn quắc lên nhìn những đợt sóng nhuyễn nhàng bò quanh mấy con thuyền ngái ngủ. Cử chỉ lạnh lẽo đó thật là trái hẳn với cảnh sông nước buồn rầu, cái cảnh tầm thường nhưng đã làm chuyển dời bao nhiêu cuộc đời ngang dọc. Khách ngồi xuống vệ cỏ, không để ngắm cảnh chiều tang tóc, mà để tháo cái gói vải từ bao lâu vẫn đeo ở tay, lấy trong đó ra một gói cơm nắm. Rồi không dao, không đũa, khách bẻ ngoắt nửa nắm cơm, đưa lên miệng, trong khi mấy ngón tay lần gỡ từng miếng cá khô. Đôi lúc khách ngừng nhai, chép miệng cho thấm xuống đáy lòng cái hương vị đậm đà của bữa cơm lưu lạc. Chỉ sau mười phút, không còn một miếng cơm, một khúc cá nào sót lại trên mảnh lá chuối héo. Tất cả lương thực đã ngọt ngào trôi qua cổ họng, đảo lộn trong cái dạ dày vô bệnh, để biến thành những dòng máu hùng cường luân lưu nuôi mạch sống, và nuôi lớn mãi cái chí nguyện giang hồ.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chân Trời Cũ PDF của tác giả Hồ Dzếnh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chân Trời Cũ (Hồ Dzếnh)
TỰ SỰ CỦA TÁC GIẢ Tập truyện này ra đời, tính năm đã được bốn. Nó ra đời và mang lại ngay cho tác giả một kết quả mầu nhiệm: hầu hết những nhân vật của cuốn sách đã “lên đường” về… chân trời cũ: chú Nhì, người anh Cả, thằng cháu đích tôn, chị đỏ Đương, cô em Dìn, và vài nhân vật phụ: bà mẹ ghẻ, em bé Thi. Mấy người sau này, hiện còn sống, nhưng tuổi già, sức khỏe và hoàn cảnh đã giục họ nghĩ đến cái giờ - để mượn một tiếng chuyên môn của Thiên Chúa giáo - giờ “sinh thì”: bà mẹ già thân yêu, người chị dâu Trung Quốc, ông anh Hai phóng lãng và… tác giả tập sách này. Một người nữa, tuy không cùng họ đương, dòng giống, nhưng quan hệ mật thiết với tác giả về phương diện cảm tình, một linh hồn Việt Nam tế nhị, một nghệ sĩ trang trọng mà đơn sơ, hiện thân của tình yêu đất nước - nhà văn rất thuần túy, rất nhân đạo, Thạch Lam - người bạn đã đáng tiếc từ trần một tháng sau ngày tập đoản thiên này được xuất bản. Và một người nữa, vẫn góp mặt trong thế giới hữu hình, một tình yêu cố hữu đi sóng đôi với ân nghĩa anh em đã hy sinh chút ít tiền của để cho in lần thứ nhất cuốn sách này, dầu biết rằng nó “không chạy như các món quà giải trí khác”. Thêm một người nữa, mà định mệnh đã chọn hộ cho con đường chồng vợ theo luật cõi đòi, người con gái có đôi mắt đẹp như thơ, có quê hương mơ màng và xanh biếc, có tấm lòng thắm dịu, mở rộng như trang sách ái tình… Tìm mua: Chân Trời Cũ TiKi Lazada Shopee Tên hai người trên đây, không viết ra vì nhiều lẽ, và cái lẽ chính đáng nhất vẫn là niềm yên lặng đầy tiếng nói thầm. Và còn những tâm hồn xa xôi và đẹp đẽ, những thương nhớ giải rộng như không gian, những tên có màu xanh hay lòng có nước mắt, sống giữa đô thành hay dưới trời thôn dã, những vương vấn ảo huyền mà chỉ nhà văn mới có toàn quyền đặc hưởng. Ròng rã trong bốn năm, sống cái đời cô đơn và tịch mịch trong đó thoáng dệt đôi lúc những bóng nắng, hình mây, tôi đã nghĩ rất nhiều đến bao nhiêu linh hồn bạn mà hơi thở hòa vào hơi thở tôi, làm vui buồn những tư tưởng phù hoa do người đời mệnh danh là Nghệ thuật. Bốn năm! Hương sắc chưa mờ, từ ngày reo than lần đầu tiên những tiếng lòng ngây dại. Nước non, trong quãng thời gian đó, từng rung cảm những lớp Phế, Hưng, để ngày nay đi về một Mùa Xuân Trọng Đại. Dưới bóng thiều quang của một năm ghi bằng nét vàng vào lịch sử cách mệnh người dân Việt, tôi dám tin tưởng rằng tập sách này tái sinh sẽ nói hộ lòng tôi được nhiều lắm. Bằng tình cảm, bằng tôn giáo, bằng tinh thần vĩnh viễn phương Đông, xứ Á châu quê hương của chúng ta, trong đó nổi lên hàng trên Việt Nam và Trung Quốc, sẽ tiến triển một cách mạnh mẽ hơn hết bao giờ. Và Nghệ thuật sẽ làm vinh hiển đời sống rồi đây sắp trở lại tươi tốt với loài người. Bạn ạ, tôi là kẻ ít tin nhất rằng loài người đẻ ra đã sẵn cái tài trong óc. Cho nên, được mang danh là nhà văn, tôi thấy thẹn thùng biết mấy! Do những tình cờ của hoàn cảnh, xô xát với cõi đời, chúng ta, để gắng nói ra những nỗi lòng u kín, đã nghiêng về cuộc sống bên trong. Nhưng trên cả Tình và Tài, trên những vinh hạnh chói lòa nhiều khi rất không chân thật, một điểm sáng lấp lánh tự ngàn thu, một Triều Thiên mà thế kỷ nào cũng ước ao, thèm khát, đó là Tấm Lòng. Nhà thi sĩ Nguyễn Du đã nói, và câu của thi sĩ có thể dùng để kết thúc bài tự sự nhỏ này: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.” Hà Nội, tháng Bảy năm 1946 HỒ DZẾNH*** GIỚI THIỆU Ông Hồ Dzếnh, tác giả tập sách này, là một người Minh hương. Cái trường hợp ấy đáng kể vì ông là một nhà văn. Những chuyện ông kể cho ta biết toàn là những chuyện về gia đình ông, gia đình của những người Trung Hoa nhẫn nại và chịu khó sang lập nghiệp ở bên này. Một người cha lầm lì, suốt ngày không nói, một người mẹ Việt Nam vào hạng những đàn bà Việt Nam đã làm nên đất nước này, người đàn bà chỉ biết có chịu khó về chồng con, không bao giờ một lời phàn nàn hay oán hận, mà cái ước mong sung sướng nhất là cứ được hy sinh mãi. Và một vài người con, một vài nàng dâu, - trong số đó có một nàng dâu Trung Hoa - cùng lập thành cái gia đình mà số phận hình như bắt buộc phải buồn rầu. Sau khi người cha qua đời, thì cái thời sung túc, đoàn tụ cũng mất đi. Dấu vết không còn lại gì. Và hình ảnh con ngựa trắng đủ yên cương trên cánh đồng cỏ xanh nổi lên như vang bóng của thuở nào. Điều mà ta nhận thấy ở ông Hồ Dzếnh, cũng là một điều gần giống ở bà mẹ ông, nghĩa là cái sức chịu đựng đau khổ. Tác giả đã đau khổ trong cuộc sống: và chúng ta nhận thấy ông ưa thích quay về dĩ vãng, để lại khiến những đau khổ cũ trở dậy và thêm sắc mắc hơn nữa. Cho nên những chuyện ông kể cho chúng ta nghe đều có một màu sắc riêng, đều nhuộm một tiếc hận thấm thía. Ông chỉ kể những chuyện ấy thôi, nhưng mà đủ có mực thước để khỏi thành ra phô phang, và cũng đủ rung động để độc giả cảm thấy sự thành thực, sự “đã sống” của những chuyện đó. Những nhân vật ông trình bày đều linh động cả. Mỗi người đều có một bản ngã riêng, và chúng ta nhận thấy - tình cờ hay là số mệnh? - người nào cũng mang một tâm hồn đau khổ. Người mẹ, người con cả, người con thứ, cho đến cô Yên, cái cô gái nuôi đặc biệt Việt Nam, vẫn sống trong một gia đình không phải của mình, để mà chịu đựng bao nhiêu vất vả bất công, tuy có được người mẹ nuôi biết thương đến. Cái đời sống tối tăm và lặng lẽ ấy không đi đến đâu cả, và tác giả để chúng ta thấy thoáng qua số phận một dân số nghèo khó ở các tỉnh đông đúc hay nghèo nàn, cuộc sinh hoạt khó khăn trên những đồng ruộng bạc màu. Đấy là cả những điều mà chúng ta sẽ thấy khi lần giở trang quyển sách này. Tác giả đã khéo xếp đặt, cho độc giả thấy cả cái dĩ vãng của một gia đình Việt-Hoa. Chúng ta thấy tác giả đã ít nói đến mình, để làm trội những nhân vật khác lên, tuy rằng lúc nào tác giả cũng là vai chủ động trong các truyện. Mà nói về dĩ vãng là một sự khó khăn, khi những điều ta ngẫm nghĩ chưa có đủ thì giờ lắng xuống và thêm bền chặt. Tuy vậy, ông Hồ Dzếnh đã vượt qua nỗi khó khăn đó một cách đáng vinh hạnh cho tài ông. Tôi không nói rằng tác phẩm này không có khuyết điểm, nhưng tác giả còn trẻ và tài năng của ông còn hứa hẹn cho chúng ta nhiều. THẠCH LAM (trong Tự Lực Văn Đoàn)*** HỒ DZẾNH (1916-1991) tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh, sinh tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. cha ông là người gốc Quảng Đông, còn mẹ là người Việt. Ông là một nhà văn nổi tiếng ở Việt Nam từ thời tiền chiến. *** “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai, Giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò…” Ngày nhỏ, mỗi lần chán chúng bạn, tôi vẫn hay lại bên mẹ tôi, cầu khẩn người kể lại sự cưới xin giữa người và ba tôi, rồi để tôi đem thuật lại với hàng xóm. Tôi còn nhớ nơi mẹ tôi ngồi kể chuyện là một cái hè bằng đất nện trước nhà. Tự đó, tôi vừa nghe chuyện, vừa nhìn ánh nắng chiều nghiêng xế, và những bóng lá lung linh. Có khi đương giữa câu chuyện, tôi véo má mẹ tôi mà hỏi: - Đố mẹ biết bao giờ đến Tết? Đố mẹ biết con được bao nhiêu tiền phong bao? Mẹ tôi khẽ gỡ tay tôi ra, lặng lẽ nói tiếp, và lặng lẽ ru tôi ngủ mất lúc nào! Tuy nhiên, trong giấc mơ kỳ dị, tôi vẫn hình dung được cả đám cưới, chú rể là ba tôi, cô dâu là mẹ tôi và… tôi là người dự lễ! Dần dần tôi lớn lên. Qua mẩu đời sum họp của hai người sinh ra tôi, tôi nhận thấy một định mệnh khe khắt, một duyên phận tăm tối và buồn rầu. Vì thế, tôi được sự thật cho biết rằng phần nhiều, hay tất cả cũng được, những bà mẹ Việt Nam - tôi nói những bà mẹ đáng là mẹ - đều phải đau khổ ngay từ lúc lọt lòng. Mọi sự do “Trời” định, các tâm hồn đó chỉ biết vâng theo, một cách nhẫn nhục, một cách lặng lẽ, một cách chua xót vô cùng! Bao nhiêu thế kỷ rồi, những tiếng thở dài mất tăm trong đêm tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống bổn phận hằng ngày, tầm thường và nhỏ mọn. Cuộc hôn nhân của mẹ tôi, đến nay, tôi mới thấm thía được hết cái đơn giản, mới biết suy ngẫm trước sự lễ nghi của nó. Và đến ngày nay, tôi mới hiểu mẹ tôi hơn lúc nào hết, người con gái lái đò trên sông Ghép ngày xưa, người mẹ Việt Nam một cách dịu dàng và cao trọng… * * * Cách đây hơn năm mươi năm. Một buổi chiều mùa hè vàng rực. Trên bờ sông Ghép lặng lẽ của tỉnh Thanh Hóa, dân làng Ngọc Giáp bỗng thấy mọc lên bóng một người ngoại quốc, tay xách một gói vải xanh thay va li, và đầu chụp chiếc mũ rơm đã vàng ỏng. Người khách lạ có chiếc trán rất lạ: nó nhỏ nhưng nhô ra một cách bướng bỉnh. Nhất là đôi mắt, sắc như dao, bén như nước, nhìn vật gì thì như hút lấy vật ấy. Hai cái đặc điểm đó nhất định không được tạo bằng thủy thổ Việt Nam, mà là bằng tinh hoa của một dân tộc khác. Một vẻ gì xương xương, rắn rắn độn khắp mình người khách, biến cái thân thể thoạt trông thì gầy kia ra sự chịu đựng khó nhọc, ở đấy, một nghị lực bền vững tiềm tàng. Khách mặc một bộ quần áo bằng lĩnh Quảng Đông, nguyên màu đen, nhưng sau khi trải nhiều phong trần, đã đổi sang màu xám kệch. Y phục ấy gợi được trong lòng người gặp, bao nhiêu là cảm giác thanh thú, hương vị xa xôi. Từ đằng xa, những gợn lụa phơ phất như những gợn gió trùng dương, và khi lại gần thì gió trùng dương lại chỉ toàn xông lên một mùi cá mặn! Linh hồn Trung Quốc phát lộ ra trong từng bước đi, điệu đứng, trong sự trầm mặc, trông tìm, trong cả cách đưa năm đầu ngón tay có móng dài vẩn ghét lên gãi sồn sột chiếc đầu gần như húi trọc tếch. Đêm về trong những bước nhẹ, hắt hiu bốc hơi lên mặt sông. Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn của Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây ưu hoài như một chinh phụ nhớ chồng. Và như một gã giang hồ chạnh lòng khóc nước. Tuy nhiên, đôi mắt trong và sáng kia không hề vẩn bởi màu sắc thê lương, vẫn quắc lên nhìn những đợt sóng nhuyễn nhàng bò quanh mấy con thuyền ngái ngủ. Cử chỉ lạnh lẽo đó thật là trái hẳn với cảnh sông nước buồn rầu, cái cảnh tầm thường nhưng đã làm chuyển dời bao nhiêu cuộc đời ngang dọc. Khách ngồi xuống vệ cỏ, không để ngắm cảnh chiều tang tóc, mà để tháo cái gói vải từ bao lâu vẫn đeo ở tay, lấy trong đó ra một gói cơm nắm. Rồi không dao, không đũa, khách bẻ ngoắt nửa nắm cơm, đưa lên miệng, trong khi mấy ngón tay lần gỡ từng miếng cá khô. Đôi lúc khách ngừng nhai, chép miệng cho thấm xuống đáy lòng cái hương vị đậm đà của bữa cơm lưu lạc. Chỉ sau mười phút, không còn một miếng cơm, một khúc cá nào sót lại trên mảnh lá chuối héo. Tất cả lương thực đã ngọt ngào trôi qua cổ họng, đảo lộn trong cái dạ dày vô bệnh, để biến thành những dòng máu hùng cường luân lưu nuôi mạch sống, và nuôi lớn mãi cái chí nguyện giang hồ.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chân Trời Cũ PDF của tác giả Hồ Dzếnh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cha Con Nghĩa Nặng (Hồ Biểu Chánh)
Hồ Biểu Chánh Hồ Biểu Chánh (1884-1958), tên thiệt là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên; là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Ông sanh năm 1884 (trong giấy khai sanh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc ấp Thành Nhất, xã Bình Xuân, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tìm mua: Cha Con Nghĩa Nặng TiKi Lazada Shopee Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chánh phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chánh phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 73 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhứt, phường 11 quận Gò Vấp. Khi viết văn, ông lấy tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh, trở thành một bút danh bất hủ, được nhiều người biết đến và quý mến hơn tên thiệt Hồ Văn Trung của ông. Ông sáng tác văn học rất nhiều và để lợi hơn 100 tác phẩm gồm tiểu thuyết và các thể loại khác, như: nghiên cứu, phê bình văn học, sáng tác tuồng hát cùng các bổn dịch văn học cổ điển Trung Quốc như Tình sử, Kim cổ kỳ quan... đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông thuộc về thời kỳ đầu của văn học chữ quốc ngữ, cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, điểm đặc biệt là rất Nam Kỳ, từ giọng văn đến miêu tả con người. Ông có phóng tác một số tiểu thuyết Pháp. Hồ Biểu Chánh sở trường về viết văn xuôi tự sự. Đề tài phần lớn là cuộc sống Nam Kỳ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách diễn đạt của ông nôm na, bình dị. Ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai. Ông để lại một khối lượng sáng tác không nhỏ: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê bình. Ngoài ra, còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hồ Biểu Chánh":Chúa Tàu Kim QuyTại TôiĐỗ Nương Nương Báo OánHai Thà Cưới VợHai Khối TìnhKẻ Làm Người ChịuChị Đào, Chị LýNợ ĐờiHạnh Phúc Lối NàoAi Làm ĐượcÝ Và TìnhCười GượngVợ Già Chồng TrẻTỉnh MộngĐóa Hoa TànLời Thề Trước MiễuLòng Dạ Ðàn BàMẹ Ghẻ Con GhẻVì Nghĩa Vì TìnhCon Nhà GiàuCon Nhà NghèoTơ Hồng Vương VấnSống Thác Với TìnhĐoạn TìnhĂn Theo Thuở, Ở Theo ThờiTiền Bạc Bạc TiềnÔng CửTừ HônThiệt Giả Giả ThiệtNgười Thất ChíÁi Tình MiếuCay Đắng Mùi ĐờiCha Con Nghĩa NặngNam Cực Tinh HuyNặng Gánh Cang ThườngChút Phận Linh ĐinhBức Thư Hối HậnCư KỉnhLạc Đường - Hồ Biểu ChánhNgọn Cỏ Gió ĐùaNợ Tình - Hồ Biểu ChánhTân Phong Nữ SĩThầy Chung Trúng SốThầy Thông NgônĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cha Con Nghĩa Nặng PDF của tác giả Hồ Biểu Chánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Cha Con Nghĩa Nặng (Hồ Biểu Chánh)
Hồ Biểu Chánh Hồ Biểu Chánh (1884-1958), tên thiệt là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên; là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt Nam ở đầu thế kỷ 20. Ông sanh năm 1884 (trong giấy khai sanh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc ấp Thành Nhất, xã Bình Xuân, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tìm mua: Cha Con Nghĩa Nặng TiKi Lazada Shopee Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chánh phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chánh phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 73 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhứt, phường 11 quận Gò Vấp. Khi viết văn, ông lấy tên tự ghép với họ là Hồ Biểu Chánh, trở thành một bút danh bất hủ, được nhiều người biết đến và quý mến hơn tên thiệt Hồ Văn Trung của ông. Ông sáng tác văn học rất nhiều và để lợi hơn 100 tác phẩm gồm tiểu thuyết và các thể loại khác, như: nghiên cứu, phê bình văn học, sáng tác tuồng hát cùng các bổn dịch văn học cổ điển Trung Quốc như Tình sử, Kim cổ kỳ quan... đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tiểu thuyết của ông thuộc về thời kỳ đầu của văn học chữ quốc ngữ, cốt truyện đơn giản, triết lý chủ đạo là thiện thắng ác, ở hiền gặp lành, điểm đặc biệt là rất Nam Kỳ, từ giọng văn đến miêu tả con người. Ông có phóng tác một số tiểu thuyết Pháp. Hồ Biểu Chánh sở trường về viết văn xuôi tự sự. Đề tài phần lớn là cuộc sống Nam Kỳ từ nông thôn đến thành thị những năm đầu thế kỷ 20 với những xáo trộn xã hội do cuộc đấu tranh giữa mới và cũ. Cách diễn đạt của ông nôm na, bình dị. Ông đã có những đóng góp to lớn vào sự hình thành thể loại tiểu thuyết trên chặng đường phôi thai. Ông để lại một khối lượng sáng tác không nhỏ: 64 tiểu thuyết, 12 tập truyện ngắn và truyện kể, 12 vở hài kịch và ca kịch, 5 tập thơ và truyện thơ, 8 tập ký, 28 tập khảo cứu-phê bình. Ngoài ra, còn có các bài diễn thuyết và 2 tác phẩm dịch.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hồ Biểu Chánh":Chúa Tàu Kim QuyTại TôiĐỗ Nương Nương Báo OánHai Thà Cưới VợHai Khối TìnhKẻ Làm Người ChịuChị Đào, Chị LýNợ ĐờiHạnh Phúc Lối NàoAi Làm ĐượcÝ Và TìnhCười GượngVợ Già Chồng TrẻTỉnh MộngĐóa Hoa TànLời Thề Trước MiễuLòng Dạ Ðàn BàMẹ Ghẻ Con GhẻVì Nghĩa Vì TìnhCon Nhà GiàuCon Nhà NghèoTơ Hồng Vương VấnSống Thác Với TìnhĐoạn TìnhĂn Theo Thuở, Ở Theo ThờiTiền Bạc Bạc TiềnÔng CửTừ HônThiệt Giả Giả ThiệtNgười Thất ChíÁi Tình MiếuCay Đắng Mùi ĐờiCha Con Nghĩa NặngNam Cực Tinh HuyNặng Gánh Cang ThườngChút Phận Linh ĐinhBức Thư Hối HậnCư KỉnhLạc Đường - Hồ Biểu ChánhNgọn Cỏ Gió ĐùaNợ Tình - Hồ Biểu ChánhTân Phong Nữ SĩThầy Chung Trúng SốThầy Thông NgônĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cha Con Nghĩa Nặng PDF của tác giả Hồ Biểu Chánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.