Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bổn Phận Của Chúng Ta Đối Với Thú Vật (C. W. Leadbeater)

Trong khi quí vị cố gắng hết sức giúp đỡ các người xung quanh, quí vị đừng quên bổn phận đối với các sắc tướng của sự sống thấp hơn sự sống của nhơn loại. Để chuẩn bị thi hành phận sự nầy, quí vị phải tìm hiểu bản tánh của các em nhỏ chúng ta là cầm thú như quí vị tìm hiểu trẻ con, chúng cũng là em nhỏ nhưng ở mức độ cao hơn. Khi giúp đỡ một trẻ con, quí vị tìm cách ở vào địa vị của nó, đối với cầm thú, quí vị cũng tự đặt mình vào địa vị của chúng. Trong mọi trường hợp và đối với mọi sinh vật, bổn phận của chúng ta là thương yêu và giúp đỡ hầu cùng tiến mau đến thời hoàng kim, trong đó chúng ta sẽ hiểu biết nhau hơn và hợp tác chặt chẻ hơn trong Đại cuộc.

Không có một lý do nào mà các con thú nhà không được luyện tập để giúp người trong các công việc không quá sức chúng. Nhưng sự huấn luyện nầy cũng phải hữu ích cho chúng. Chúng ta luôn luôn phải nhớ rằng sự tiến hóa của cầm thú là một trong những mục đích thiêng liêng. Bởi thế, trong lúc ta cố gắng mở mang trí khôn chúng nó, chúng ta còn phải lưu ý chỉ tập chúng nó những tánh tốt mà thôi.

Nhiều thú vật nguồn gốc là thú rừng được giao phó cho ta như chó, mèo, ngựa v.v… để chúng ta thương yêu và dìu dắt hầu độ chúng ra khỏi trạng thái hung dữ, và đánh thức ở chúng trí khôn, tình thương và lòng tận tụy.

Trong công việc dạy dỗ nầy, chúng ta đừng ngăn chận sự tiến hóa của chúng bằng cách tăng cường những bản năng hung tợn. Ví dụ, khi chúng ta tập con chó đi săn để giết các con thú khác tuy chúng ta giúp chúng nó mở mang trí khôn, nhưng chúng lại trở nên hèn hạ như thế, chúng nó thoái thay vì tiến, và chúng ta giúp cho nó ít mà hại chúng nó nhiều. Việc nầy cũng xảy ra khi chúng ta tập một tánh hung tợn cho một con chó để giữ gìn nhà cửa hay đồn điền.

Ngoài ra, khi đối xử nghiêm khắc và tồi tệ với thú vật, ta có thể phát triển trí khôn của chúng vì chúng cần vận dụng trí khôn để khỏi bị đánh đập. Như vậy, chúng cũng tiến hóa nhưng những tánh xấu lại phát sanh ở chúng như sự sợ hãi và sự giận dữ. Do đó, khi chúng đầu thai làm người thì nhơn loại nầy khởi hành với tánh sợ hãi và oán hận bẩm sinh, một gánh nặng mà nó phải mang lâu trên đường tiến hóa. Vì vậy nhơn loại không được thanh cao, tận tụy, thương yêu và dịu dàng, nghĩa là thiếu những đức tánh mà nhơn loại phải có một cách đương nhiên nếu con người biết làm tròn phận sự mình đối với loài cầm thú. Tìm mua: Bổn Phận Của Chúng Ta Đối Với Thú Vật TiKi Lazada Shopee

Chúng ta cần có những phận sự khác đối với các sắc tướng thấp hơn sắc tướng cầm thú: Tôi muốn nói loài tinh chất đang sinh sống xung quanh chúng ta. Chúng nó tiến hóa nhờ tác động của tư tưởng, cảm xúc, dục vọng và tình cảm của chúng ta. Thật ra, chúng ta không phải cố gắng nhiều là vì nếu chúng ta trung thành với lý tưởng cao thượng thì chúng ta làm tròn phận sự của chúng ta rồi.

Trong mọi cuộc tiến hóa, Thiên ý đã định rằng sinh vật tiến cao phải trợ giúp những loài thấp kém, và giúp cho loài cầm thú được cá thể hóa [1] không phải là phận sự duy nhứt của nhơn loại đối với chúng. Ở Châu Atlantide [2] nhơn loại còn được giao phó một phần lớn công việc đào tạo các loài thú, và vì họ không làm tròn phận sự của mình mà sự việc đã xảy ra hơi khác con đường đã dự trù.

Họ phải chịu trách nhiệm, bởi những lỗi lầm của họ, về tánh hung dữ của loài thú ăn thịt, hằng ngày chỉ biết tàn sát những sinh vật khác. Họ không chịu trách nhiệm về tất cả các loài thú ăn thịt vì nhiều loài đã có trong loài bò sát khổng lồ từ thời lémurien rất xa xăm và con người không liên hệ gì đến thời nầy. Nhưng khi các thú bò sát nầy tiến thành loài có vú, ta có một trách nhiệm quan trọng vì loài nầy hiện nay giữ một vai trò chánh yếu. Đây là một cơ hội để ta tinh luyện các loài thú và diệt trừ những tánh hung bạo ở chúng. Vì loài người không làm tròn bổn phận đối với loài thú cầm nên họ phải chịu một phần trách nhiệm về những việc không hay đã xảy ra trên thế giới từ trước đến nay.

Nếu họ tận tụy với phận sự có lẽ ngày nay không có loài thú có vú ăn thịt.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "C. W. Leadbeater":Đời Sống Sau Khi ChếtBổn Phận Của Chúng Ta Đối Với Thú VậtChân Sư Và Thánh ĐạoCõi Trời Chân PhúcNhãn ThôngNhững Vị Cứu Trợ Vô HìnhCõi Trung GiớiGiảng Lý Ánh Sáng Trên Đường ĐạoThông Thiên Học Khái Lược

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bổn Phận Của Chúng Ta Đối Với Thú Vật PDF của tác giả C. W. Leadbeater nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Lịch sử giáo hội Công giáo
Hầu hết những gì xảy ra trong Kitô Giáo ở thế kỷ thứ nhất thì quen thuộc với chúng ta, nhờ kinh thánh Tân Ước. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, chúng ta biết công cuộc truyền giáo đã nới rộng giáo hội của Ðức Giêsu Kitô từ nguyên thủy ở Giêrusalem, gồm những người Do Thái tòng giáo theo Ðức Kitô, đến những người Dân Ngoại ở nhiều nơi trong Ðế Quốc La Mã và cho đến tận Rôma. Sự bình an tương đối trong thế kỷ này, cũng như hệ thống đường bộ và đường thủy của người La Mã, đã giúp Kitô Giáo có thể phát triển nhanh chóng. Nền văn hóa chung và một ngôn ngữ chung cũng giúp cho sự bành trướng. Tuy nhiên, động lực chính của sự phát triển Kitô Giáo là Chúa Thánh Thần, Ðấng đã làm nên các tông đồ vĩ đại như Thánh Phaolô và các vị tử đạo như Stêphanô, là vị tử đạo đầu tiên. Khi Phúc Âm được loan truyền cho đến tận cùng trái đất bởi những nhà thừa sai Công Giáo vào nửa đầu thế kỷ mười bảy, Âu Châu đã đắm chìm trong các cuộc chiến tôn giáo cay đắng giữa người Công Giáo và Tin Lành và giữa các quốc gia theo Tin Lành. Cuộc chiến sau cùng xảy ra ở nước Ðức. Cuộc chiến Ba Mươi Năm (1618-1648) được chấm dứt bằng Thỏa Ước Westphalia (1648), nó đã đem lại cho người Công Giáo, Luther và Calvin ở Ðức sự bình đẳng trước pháp luật. Trên thực tế, mỗi quốc gia hay mỗi vùng trong nước đều có một Giáo hội Kitô giáo riêng và tín đồ của các giáo phái khác sống tại lãnh thổ đó thường bị bách hại trực tiếp hay gián tiếp. Tuy nhiên, trong mỗi vùng của Giáo Hội phân ly, vẫn có nhiều nơi mà Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô bừng cháy một cách chói lọi. Chắc chắn rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn mong tìm ra cách củng cố đời sống Công Giáo ở Âu Châu, cũng như để lan tràn đức tin Công Giáo trên toàn thế giới. Cho đến nay, Giáo Hội Công Giáo đã vượt qua được những thử thách lớn lao và tồn tại với một sinh lực được đổi mới.
Chuyển họa thành phúc
Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được  lưu hành   rộng rãi  nhất. Nội dung tuy không có gì quá  sâu xa  khó hiểu, nhưng  quả thật  là những điều  nhận thức   vô cùng   thiết thực  và  lợi lạc  trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả  cuộc đời ,  hay nói  theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”. Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được lưu hành rộng rãi nhất. Nội dung tuy không có gì quá sâu xa khó hiểu, nhưng quả thật là những điều nhận thức vô cùng thiết thực và lợi lạc trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả cuộc đời, hay nói theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”. Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của  tiên sinh   Viên Liễu Phàm , do ông viết ra để kể lại  câu chuyện  của chính  cuộc đời  mình cho con cháu,  đồng thời  cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý  nhân quả , khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và  nỗ lực  làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại  cuộc đời  nhiều  sóng gió  của mình cùng cuộc hội ngộ  ly kỳ  với một nhân vật mà ông  tin chắc  là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được  nội tâm  của chính mình để  nhận ra  và  phân biệt  được những điều  thiện ác  thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ  quyết tâm  “tránh ác làm thiện”, và  cuối cùng  đạt kết quả là  chấm dứt  được những chuỗi ngày  tai họa   liên tục  giáng xuống  gia đình  ông, để có thể sống một cách an vui  hạnh phúc   cho đến   tuổi già . Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc. Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được  Đại sư   Ấn Quang  chọn khắc in vào phần  phụ lục  của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng  nghĩa lý  bài văn Âm chất.  Đại sư   Ấn Quang  đã có nhiều hàm ý rất  sâu xa  khi chọn  lưu hành  hai bản văn khuyến thiện này, và  hiệu quả   lợi lạc  của việc này đối với người đọc đã được  chứng minh  một cách  rõ ràng  qua  thời gian . Về bản văn thứ nhất,  tiên sinh   Viên Liễu Phàm  không viết ra như một  nghiên cứu  triết lý, mà như một sự chia sẻ  kinh nghiệm   thực tiễn , bởi chính ông là người đã vận dụng  thành công  những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự  chuyển đổi  được số mạng, thay đổi  cuộc đời  từ những điều  bất hạnh  sang thành an vui  hạnh phúc . Có thể nói, bằng vào những  nỗ lực  cứu người giúp đời không  mệt mỏi   liên tục  nhiều năm, ông đã  thành công  trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không  cầu xin  bất kỳ một  sức mạnh   siêu nhiên  nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong  chúng ta  cũng đều có thể làm được nếu có đủ  quyết tâm , không loại trừ bất cứ ai.  Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của tiên sinh Viên Liễu Phàm, do ông viết ra để kể lại câu chuyện của chính cuộc đời mình cho con cháu, đồng thời cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý nhân quả, khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và nỗ lực làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại cuộc đời nhiều sóng gió của mình cùng cuộc hội ngộ ly kỳ với một nhân vật mà ông tin chắc là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được nội tâm của chính mình để nhận ra và phân biệt được những điều thiện ác thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ quyết tâm “tránh ác làm thiện”, và cuối cùng đạt kết quả là chấm dứt được những chuỗi ngày tai họa liên tục giáng xuống gia đình ông, để có thể sống một cách an vui hạnh phúc cho đến tuổi già. Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc.Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được Đại sư Ấn Quang chọn khắc in vào phần phụ lục của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng nghĩa lý bài văn Âm chất. Đại sư Ấn Quang đã có nhiều hàm ý rất sâu xa khi chọn lưu hành hai bản văn khuyến thiện này, và hiệu quả lợi lạc của việc này đối với người đọc đã được chứng minh một cách rõ ràng qua thời gian.Về bản văn thứ nhất, tiên sinh Viên Liễu Phàm không viết ra như một nghiên cứu triết lý, mà như một sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, bởi chính ông là người đã vận dụng thành công những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự chuyển đổi được số mạng, thay đổi cuộc đời từ những điều bất hạnh sang thành an vui hạnh phúc. Có thể nói, bằng vào những nỗ lực cứu người giúp đời không mệt mỏi liên tục nhiều năm, ông đã thành công trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không cầu xin bất kỳ một sức mạnh siêu nhiên nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong chúng ta cũng đều có thể làm được nếu có đủ quyết tâm, không loại trừ bất cứ ai. 
Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam
Sự dị biệt giữa các nền văn học có nhiều nguyên nhân, trong đó đáng kể nhất sự dị-biệt về ngôn ngữ từ khi loài người xây dựng Tháp Babel trong tội-lỗi (Sáng thế, XI, 7). Nhờ mầu-nhiệm Cứu thế, sự thống nhất ngôn ngữ nguyên thủy bắt đầu phục hồi khi Chúa Thánh- Thần Hiện Xuống (Công vụ Tông-đồ, II, 4-6) nhưng chỉ thể hiện toàn vẹn khi mạt thế trong cảnh toàn thể loài người đồng thanh ngợi-khen Thiên-Chúa (Khải-huyền- thư, VII, 9). Giáo-hội Công-giáo là bi-tích, là dấu-hiệu khả-kiến của sự phục-hồi thống-nhất nguyên thủy đang thành hình. Đó là một sự thống-nhất trong dị-biệt, thống nhất trong Tình Yêu Thiên Chúa, dị-biệt trong thề-cách diễn đạt với đặc điểm của từng dân-tộc, trong « y-phục rực-rỡ muôn màu » như lời Thành-Vịnh nói về Giáo hội (Thánh Vịnh 104).Bộ sách này có kỳ-vọng trình bày những màu sắc Việt-Nam của y-phục rực-rỡ ấy. Tôi muốn dùng hình ảnh này để nói đến văn học Công giáo Việt-Nam, một nền văn học dung hợp dân tộc tinh và công-giáo-tính, một thành phần bất-khả-phân của toàn thể văn học quốc-gia.
Những hiện tượng bí ẩn về nhân loại
Khoa học hiện đại đã tiến những bước dài trong lịch sử loài người, tạo nên muôn vàn tiện ích cho cuộc sống và giải mã hàng nghìn hàng vạn điều bí ẩn. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn tại nhiều câu chuyện tưởng như chỉ có trong cổ tích mà khi được chứng kiến, người ta chỉ biết thốt lên: "Sao có thể như vậy được nhỉ?". Đó là những câu chuyện về các hiện tượng khoa học thú vị hay những sự kiện lịch sử thần bí mà con người biết đến nhưng chưa thể lý giải. Xuất phát từ mong muốn thoả mãn khát vọng tìm hiểu, lý giải các hiện tượng bí ẩn trên thế giới từ xưa đến nay, cuốn sách "Những hiện tượng bí ẩn về nhân loại" được ra đời.