Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Du Ngoạn Vòng Quanh Châu Á Trên Lưng Ngựa

Du Ngoạn Vòng Quanh Châu Á Trên Lưng Ngựa ghi lại hành trình chuyến du ngoạn của công tước Konstantin Aleksandrivich Vyazemski đến Việt Nam năm 1892. Qua đó giúp độc giả thấu hiểu hơn về lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc cũng như vẻ đẹp hoang sơ và kỳ thú của phong cảnh nước ta.   VTB Nhà tài trợ chính Cuốn sách này được ấn hành nhờ sự hỗ trợ của Tổ chức Liên bang về Hoạt động của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập, của đồng bào sống ở nước ngoài và về hợp tác nhân đạo quốc tế (Hợp tác Nga) Dịch từ nguyên bản tiếng Nga Князь К. А. Вяземский Путешествие вокруг Азии верхом. Вьетнамские дневники. 1892 год Москва: Институт востоковедния РАН, 2011 ISBN 978-5-904469-32-0 © Lokid Premium Ltd, bản tiếng Việt, 2014 © Nhà xuất bản Thế Giới, bản tiếng Việt, 2014 *** Lời những người dịch Chúng tôi đã học chuyên ngành Tiếng Nga và Văn học tại nước Nga từ thế kỷ trước. Thời sinh viên, chúng tôi có biết đến Konstantin Aleksandrovich Vyazemski như một nhà khoa học, nhà văn hóa chứ không phải nhà văn và cũng chưa được đọc tác phẩm nào của ông, tuy nhiên, tên tuổi của ông vẫn được chúng tôi ghi nhớ. Vào năm 2013, chúng tôi được tặng cuốn sách tiếng Nga của Công tước Konstantin Aleksandrovich Vyazemski, có tựa đề “Du ngoạn vòng quanh châu Á trên lưng ngựa. Nhật ký Việt Nam năm 1892”. Chúng tôi đọc thấy vô cùng thú vị. Được sự gợi ý và động viên của Phó giáo sư - Tiến sĩ Anatoly Alekseeich Sokolov (người sưu tầm, biên soạn và giới thiệu cuốn sách này) và nhà thơ - dịch giả Thúy Toàn, chúng tôi đã dịch cuốn sách này. Đây là một công việc đầy hào hứng vì cả hai chúng tôi đều rất thích nội dung cuốn sách, muốn nhiều bạn đọc Việt Nam cùng thưởng thức món quà tinh thần này để biết thêm về đất nước xinh đẹp của chúng ta trong quá khứ và cũng để mà suy ngẫm về hiện tại. Công tước Konstantin Aleksandrovich Vyazemski là một nhà quý tộc Nga, ông có khát vọng đi du ngoạn khắp nơi trên thế giới để tận mắt chiêm ngưỡng phong cảnh thiên nhiên và tìm hiểu lịch sử, văn hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc. Konstantin Aleksandrovich Vyazemski là một người uyên bác trong nhiều lĩnh vực, nhưng không phải là chính khách nên cách nhìn nhận của ông rất khách quan, vì vậy “Nhật ký Việt Nam năm 1892” là một tài liệu lịch sử - văn hóa có giá trị lớn đối với Việt Nam. Những gì ông viết ở đây là do ông quan sát, nhìn thấy và suy nghĩ như vậy. Ở đây có những nhận xét thẳng thắn, tinh tế và sâu sắc. Ông thích thú vẻ đẹp thiên nhiên Việt Nam khi ấy bởi sự hoang sơ và kỳ thú, làng mạc sơ sài mà vẫn có những nét đặc trưng, và ta cũng có thể thấy được cảm tình của ông đối với con người Việt Nam. Văn ông toát lên sự nhẹ nhàng, hồn hậu của một tâm hồn đầy nhân văn và sự thâm thúy, sâu sắc của một người nhiều trải nghiệm, kiến thức phong phú. Khiếu hài hước của ông góp phần không nhỏ khiến người đọc thích thú. Khi dịch, chúng tôi cố gắng chuyển tải điều này, mặc dù tiếng Nga và tiếng Việt có sự khác biệt khá lớn. Vì cuốn sách do một du khách nước ngoài viết về Việt Nam từ hàng trăm năm trước nên một số từ ngữ, mô tả, nhất là những từ ngữ liên quan đến địa danh, cây cối, hoa trái... rất khó tra cứu chính xác. Dù chúng tôi đã rất cố gắng, nhưng có lẽ vẫn không tránh khỏi những sai sót khi chuyển ngữ. Chúng tôi rất mong bạn đọc gần xa góp ý để những lần xuất bản tiếp theo được tốt hơn. TS. Hồ Bất Khuất và TS. Nguyễn Thị Như Nguyện Hà Nội, 21 tháng Sáu năm 2014 *** Lời nói đầu Những thông tin đầu tiên về Việt Nam tại nước Nga bắt đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ XIX, đây là những bài viết trên báo chí định kỳ (cả ở thủ đô và cấp tỉnh), và như thường thấy, chúng là các bản dịch từ báo chí nước ngoài, trước hết là từ báo chí Pháp. Sau đó ra đời những cuốn sách kể về vị trí địa lý Việt Nam, sự phong phú, đa dạng của thiên nhiên, phong tục tập quán và văn hóa dân tộc. Trong những thập niên cuối của thế kỷ XIX, ngày càng có nhiều người châu Âu đi du lịch các nước khác nhau ở phương Đông. Sở dĩ có được điều này một phần không nhỏ là nhờ vào việc xây dựng đường sắt và mở những tuyến đường thủy, giúp dân cư của lục địa mới và cũ vươn tới những nơi mà trước đây được xem là không tới được. Chắc chắn, những yếu tố chính góp phần vào sự “bùng nổ Phương Đông” bắt nguồn từ lợi ích địa chính trị và sự gia tăng mâu thuẫn giữa các quốc gia đang tích cực khai thác sức hấp dẫn lớn trong kế hoạch phát triển kinh tế ở các thuộc địa phương Đông. Đông Dương bắt đầu thu hút sự chú ý của Nga vào những năm 80-90 của thế kỷ XIX (khi Pháp đã thực sự củng cố vững chắc vị thế trong khu vực), và điều này liên quan đến nhận thức về triển vọng của mối quan hệ Nga - Trung, về tầm quan trọng vị trí chiến lược - quân sự của Việt Nam và các nước láng giềng trong cuộc đấu tranh đang diễn ra, nhằm phân chia lại thế giới.[1] Vì vậy, các con tàu của quân đội Nga thực hiện khá thường xuyên những chuyến đi trên Thái Bình Dương, đến các cảng biển Việt Nam như Hải Phòng, Sài Gòn, Vịnh Cam Ranh. Kết quả của những chuyến đi đó là những ấn phẩm trong các tạp chí chuyên ngành (“Tạp chí về biển”, “Tạp chí quân sự”, “Khoa học tự nhiên và địa lý”, v.v.), cũng như trên các tờ báo và tạp chí phổ biến (“Ý tưởng Nga”, “Người thương binh Nga”, v.v.). Trong số các tác giả có các nhà văn nổi tiếng (К. M. Stanyukovich, V. V. Krestovski), các nhà khoa học (A. M. Bolshakov, E. Erickson), các Nhà ngoại giao (G. de Vollan), các nhà quân sự chuyên nghiệp và thậm chí cả người kế vị ngai vàng, nhà vua tương lai của nước Nga Nikolai II. Đây là những tác phẩm văn học và chính luận có giá trị của những người Nga đầu tiên đến Việt Nam. Họ mang lại cho chúng ta không chỉ thông tin liên quan đến lĩnh vực nghề nghiệp của mình, mà cả những ấn tượng trực tiếp về một đất nước xa xôi, lạ lẫm đối với chúng ta.[2] *** Trong số những người đầu tiên khám phá Đông Dương, nhiều người bị cái kỳ thú, mới lạ thu hút, còn số khác thì do cố gắng làm giàu khi đã mất hi vọng làm được điều đó ngay tại quê nhà. Nhưng cũng có những người muốn thử thách chính mình trong điều kiện thời tiết và địa hình khốc liệt, và rất khó nói trong ý định của họ thì sự lãng mạn hay tính mạo hiểm - cái gì nhiều hơn. Trong số những “người chinh phục” Đông Dương ấy, có người đồng hương của chúng ta - Công tước Konstantin Alexandrovich Vyazemski (1852-1904), người có số phận rất thú vị, đồng thời rất đáng học hỏi. Tính cách của ông đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học nước nhà, nhưng đáng tiếc là cho đến nay vẫn chưa xuất hiện một công trình riêng biệt, nghiêm túc mà, không còn nghi ngờ gì nữa, nhà du ngoạn Nga này xứng đáng được hưởng.[3] Konstantin Aleksandrovich Vyazemski sinh ra trong một dòng họ được phong tước hiệu Công tước từ lâu đời, thuộc nhánh liên quan đến tỉnh Tula và tỉnh Vladimir. Ông sinh ra ở Moskva vào năm 1852, trong một gia đình quý tộc tương đối giàu có, được giáo dục tốt và có lòng tự trọng cao. Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp trường thiếu sinh quân, Vyazemski không theo đuổi sự nghiệp quân sự. Ông bị cuốn hút bởi những vấn đề đạo đức - triết học; ông quan tâm đến cách sống, phong tục, tôn giáo của các quốc gia và các dân tộc. Bởi thế, ngay từ khi còn trẻ, ông đã thích đi du lịch, hơn nữa, theo một cách khá đặc biệt - trên lưng ngựa. Ông đặt ra nhiệm vụ “nghiên cứu trái đất ở nhiều nơi khác nhau với tất cả các đặc tính”, và “nhận biết cuộc sống thực thụ của các dân tộc không bị tha hóa bởi nền văn minh phù sa”.[4] Công tước Vyazemski giải thích niềm đam mê du lịch trên lưng ngựa như sau: “...Nếu bạn muốn vào sâu lục địa một đất nước, nơi có thể nhìn thấy một cái gì đó độc đáo và đặc biệt, thì làm gì có phương thức di chuyển nào khác, bởi ngoài đường núi thì không còn con đường nào cả”.[5] Trong vòng mười lăm năm, ông đã có mặt tại các hang cùng ngõ hẻm của nước Nga, Tây Âu, châu Phi và châu Á, vượt qua nhiều ngàn cây số. Công tước ghi nhật ký thường xuyên, chỉ mới có một phần rất ít được in ở Pháp (báo “Le Figaro”), và ở báo chí nước nhà (tạp chí “Bình luận Nga”). Ngoài ra, ông trở nên nổi tiếng khắp châu Âu với những phát biểu công khai trong Hội địa lý ở Paris. Trong những năm 1881-1882, ông đi khắp Marốc và là người Nga đầu tiên đến thăm đất nước này. Trong chuyến đi gần mười tháng, kéo dài từ tháng Chín năm 1883 đến tháng Sáu năm 1884, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski đã du ngoạn đến vùng Tiểu Á, Syria, Palestin, sa mạc Sinai, Ai Cập, Sudan, Lưỡng Hà, Kurdistan, Armenia và vùng Kavkaz. Sau chuyến đi thực sự thành công của ông đến châu Phi, Công tước Vyazemski quyết định thực hiện một dự án mới, còn lớn hơn nhiều; ông đã viết như sau: “Cuộc hành trình này (lớn hơn tất cả những cuộc mà tôi đã thực hiện), tôi đặt ra mục tiêu đến tất cả các nơi của châu Á và làm một vòng tròn trọn vẹn quanh lục địa này rồi trở về, nếu Chúa cho phép”.[6] Rõ ràng, không tin vào khả năng thành công của kế hoạch hoành tráng như vậy, Hội địa lý Nga đã từ chối giúp đỡ vật chất và bảo trợ cho công tước, do đó, tất cả chi phí, ông phải tự lo liệu. Trong chuyến đi vòng quanh châu Á, bắt đầu từ tháng Bảy năm 1891 và hoàn thành vào tháng Mười một năm 1893, ông vượt qua hơn 40 ngàn cây số, đi xuyên qua Sibir đến hồ Baikal, sau đó xuyên qua Mông Cổ, trên lưng ngựa, tới Bắc Kinh. Hơn nữa, ngoài Trung Quốc ra, ông đã đến Việt Nam (hồi đó là Đông Dương, thuộc địa của Pháp), Miến Điện, Lào, Xiêm, Campuchia, Ấn Độ, Tây Tạng. Ở Campuchia, ông di chuyển bằng chiếc xe trâu kéo; ở Ấn Độ, trên lưng voi; còn ở Himalaya, bằng bò rừng Tây Tạng. Công tước bị bọn cuồng tín bản địa gây thương tích, hai lần bị cướp, bị tấn công, bị đạn bắn trúng vai, bị lưỡi lê đâm vào chân, bị bọn cướp nhốt hai tuần và trở về quê hương với bệnh dịch sốt.[7] Trong suốt các tháng dài của cuộc hành trình, Vyazemski ghi nhật ký, được đặt tên là “Du ngoạn vòng quanh châu Á trên lưng ngựa”, bao gồm gần bốn chục cuốn vở chi chít chữ viết tay rất nhỏ. Trong những năm 1894-1895, một số đoạn trích từ nhật ký của ông đã được công bố trên tạp chí “Bình luận Nga”, kể về Sibir và Trung Quốc - giai đoạn đầu của cuộc hành trình. Tất cả những phần còn lại chưa hề được in.[8] Trong ghi chép của mình, Vyazemski mô tả chi tiết ấn tượng trên đường đi về các đất nước và các dân tộc mà ông nhìn thấy, luân thường, đạo lý, phong tục, tôn giáo của họ. Tuy nhiên, thiên nhiên rực rỡ và kỳ thú của những đất nước xa lạ, những di tích lịch sử, các cuộc gặp gỡ với những người khác nhau vẫn không giải thoát ông khỏi sự bất bình nội tâm: “Nếu hoạt động của tôi chỉ hạn chế bằng cuộc du ngoạn này, thì tôi sẽ phải buồn bã công nhận rằng, tôi đã sống cuộc đời của kẻ vô dụng”.[9] Lời thú nhận này, trong một chừng mực nhất định, đã phản ánh sự khủng hoảng tinh thần mà công tước phải trải qua trong cuối những năm 1880 - đầu những năm 1890. Đó chính là khi ông bắt đầu cảm thấy sự cần thiết phải “hoàn thiện đạo đức”, gắn liền với sự tìm tòi tôn giáo và mỹ học của ông. Trong giai đoạn này của cuộc đời, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski chịu ảnh hưởng của quan điểm triết học của Lev Nikolaevich Tolstoi và hoạt động truyền bá của giám mục Macary. Với Tolstoi, công tước kết nối bằng sự quen biết thân thiện và trao đổi thư từ bạn bè, ông đã hai lần tới Yasnaya Polyana. Cuộc gặp đầu tiên với nhà văn diễn ra vào ngày 11 tháng Bảy năm 1890, cuộc gặp thứ hai sau đó một năm, vào ngày 27 tháng Sáu năm 1891.[10] Chủ đề chính của việc trao đổi thư từ giữa Vyazemski và Tolstoi là thảo luận về các vấn đề tôn giáo và đạo đức[11]; thư từ bị gián đoạn do Tolstoi bị lâm bệnh, phải đến Crưm để điều trị. Trong chuyến đi dài đầu tiên của mình, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski làm quen với giám mục Macary, trụ trì tu viện Thánh Panteleimon trên núi Aphon.[12] Và chẳng bao lâu sau đó, Macary trở thành người cha tinh thần của công tước. Thư từ và giao tiếp với giám mục Macary đã ảnh hưởng đến thế giới quan của Konstantin Aleksandrovich Vyazemski và sau đó ấn định số phận cá nhân của ông. Năm 1895, ông xuống tóc và nhận tên thánh là Kiprian tại tu viện Thánh Panteleimon, và vào năm 1900, trở thành tu sĩ Ksenofont.[13] Lev Nikolaevich Tolstoi tán thành việc công tước rời bỏ đời sống trần tục và gửi cho ông một lá thư; về việc này Vyazemski có viết cho em gái mình vào ngày 8 tháng Tư năm 1901.[14] Từ năm 1895 đến khi qua đời, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski sống trong tu viện Thánh Panteleimon. Thư từ trao đổi của Vyazemski với N. M. Sologub[15] cho biết ông là thủ thư của tu viện. Làm việc trong một kho lưu trữ các bản thảo vô giá, chỉ có thể là người có học vấn cao. Trong những năm này, Vyazemski xử lý kết quả chuyến thám hiểm của mình và đăng bài trên các tạp chí khoa học Pháp. Chiến dịch tuyệt giao với Lev Nikolaevich Tolstoi và nhà thờ tác động nghiêm trọng đến Konstantin Aleksandrovich Vyazemski. Vào đầu những năm 1900, ông lâm bệnh và tạ thế ngày 4 tháng Bảy năm 1904, sau một cơn đau tim. * * * Thành quả chính của những chuyến du ngoạn dài ngày của Công tước Vyazemski là hai tập nhật ký: “Hành trình đến Marốc” (1881-1882, lưu trữ của Hội địa lý Nga, Peterburg) và “Du ngoạn vòng quanh châu Á trên lưng ngựa” (1891-1893, Phòng bản thảo của Thư viện Quốc gia Nga, Moskva). Ngoài ra, các tập nhật ký khác và các công trình khoa học của ông, thư từ trao đổi với Lev Nikolaevich Tolstoi - được lưu giữ ở các kho lưu trữ khác nhau của Nga - rõ ràng cũng rất thú vị. Mục đích của ấn phẩm này là kể về chuyến đi của Công tước Vyazemski đến Việt Nam, tại thời điểm đó bao gồm Bắc Bộ, An Nam và Nam Kỳ, tương ứng với miền Bắc, miền Trung và miền Nam đất nước, và là một phần của cái gọi là Đông Dương thuộc Pháp. Như đã nói ở trên, phần này của cuộc hành trình vòng quanh châu Á của ông được phản ánh trong văn đàn rất ít và rời rạc. Trước cuộc hành trình dài, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski đã gửi một bức thư cho P. V. Bykov - nhà văn, nhà thư tịch học và nhà xuất bản người Moskva: “Tôi thực hiện cuộc hành trình chưa từng có từ trước đến nay, mà tôi nghĩ, sẽ khiến giới trí thức quan tâm. Tôi dự định đi vòng quanh toàn bộ châu Á trên lưng ngựa. Cuộc hành trình sẽ kéo dài từ một đến hai năm. Tôi sẽ đi vào đầu tháng Bảy. Thông tin khoa học tôi thu được trong cuộc hành trình sẽ được gửi tới Hội địa lý. Tôi xin gửi cho ngài những mô tả chuyến đi từ những nơi tôi đi qua. Tôi sẽ mang theo máy ảnh, vì vậy tôi có thể gửi cho ngài hình ảnh <...> các loài thú vị và nói chung, những cảnh sinh hoạt dân gian của những đất nước mà tôi đi qua”.[16] Ngày 6 tháng Bảy năm 1891, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski cùng với đầu bếp, phiên dịch và người hầu[17] đi tàu hỏa đến Nizhni Novgorod, từ đây đi tàu thủy theo dòng Volga và dòng Kama đến Perm. Sau đó đi bằng xe bưu điện qua Tomsk, Irkutsk, và cuối cùng đã đến Kyakhta. Tại đây, ông được bố trí mấy người Côdắc hộ tống, một trong số đó có kinh nghiệm hành trình thám hiểm đường dài là Nikolai Mikhailovich Przhevalski.[18]Tiếp theo, đường đi của ông xuyên qua sa mạc Gobi. Bỏ qua miền trung Trung Quốc, vào sáng ngày 14 tháng Ba năm 1892, Công tước Vyazemski và những người đồng hành đến thị trấn biên giới Lạng Sơn.[19] Cuộc hành trình dọc Việt Nam, có đi đến Campuchia và Xiêm, kết thúc tại Sài Gòn, vào tháng Bảy năm đó. Ở khắp mọi nơi người ta đón tiếp vị khách du lịch người Nga rất trọng thị, đôi khi rất vồ vập. Có lẽ, lý do của thái độ này có liên quan đến sự việc đã xảy ra trước đó: 1891, chuyến thăm Sài Gòn của Thái tử Nikolai năm 1891 và quan hệ hữu nghị Pháp Nga. Ngoài ra, tên của Công tước Vyazemski cũng đã khá nổi tiếng ở châu Âu. Nhưng căn cứ vào những gì được ghi trong nhật ký, điều này nếu không gây khó chịu thì ở mức độ nào đó cũng cản trở việc du lịch tự do, ông không muốn được đối xử như một chính khách. Dẫu vậy, “yếu tố đồng minh” đã giúp ông rất nhiều ở Việt Nam. Lưu ý một sự việc thú vị: Ngay trước khi bắt đầu cuộc hành trình đến Việt Nam, Công tước Vyazemski biết được rằng, trong đội quân Lê dương của quân đội Pháp có cả những người Nga bỏ trốn khỏi đất nước.[20] Vyazemski ghi nhật ký hàng ngày. Những ghi chép liên quan đến nhiều thứ khác nhau: tập quán dân tộc, lối sống hàng ngày của người Việt Nam (ông gọi họ là người An Nam) và người Pháp, trang phục, hệ thực vật, động vật, cơ cấu tổ chức hành chính, v.v. Sau khi kiểm tra kỹ lưỡng, ông cho rằng khoảng cách giữa Thanh Hóa và Vinh là khoảng 150 versta[i1], không phải 185 như ghi trong bản đồ của Bộ Tổng tham mưu Pháp. Các ghi chú của Vyazemski có điều đặc biệt thế này: do có nhiều kinh nghiệm trong du ngoạn, ông luôn luôn so sánh các hiện tượng, sự kiện, đồ vật ở các nước khác nhau. Đúng là cũng có những nhận định gây tranh cãi, chẳng hạn như về pháo bông - đây là một “sáng chế của địa phương (sáng chế của người An Nam), chúng được sử dụng ở tất cả các trường hợp trang trọng, đặc biệt là trong các sự kiện có tính nghi lễ. Từ đây pháo bông được đưa đến Trung Quốc, và người châu Âu lại vay mượn từ người Trung Quốc”.[21] Những cuộc gặp gỡ với đại diện của các tầng lớp quý tộc địa phương, dù là với thống đốc người Việt Nam (quan đốc) hay là với chính Hoàng đế An Nam, cũng đều rất thú vị. Ông tập trung vào vẻ bề ngoài của người đối thoại: quần áo, thái độ trong lúc trò chuyện, v.v. Khá lạ kỳ là người Việt Nam, thậm chí cả những người giữ chức vụ cao cấp, hầu như không biết gì về nước Nga. Chẳng hạn, trong một cuộc trò chuyện, quan đốc thấy Công tước Vyazemski và công sứ người Pháp (quan chức) nói chuyện với nhau thoải mái; ông rất ngạc nhiên về sự phổ biến rộng rãi tiếng Pháp ở Nga. Về nước Nga, viên quan Việt Nam này biết rất mù mờ và chỉ nghe nói đây là đất nước lạnh nhất trong tất cả các quốc gia. Khi biết Nga không phụ thuộc vào Trung Quốc, Pháp và cả Anh, vị quan chức người Việt này “thấy điều này thật lạ lùng và hỏi: tại sao người ta lại không chiếm lấy nó?”[22] Công sứ người Pháp giải thích cho ông ta rằng, “vào thời điểm này không có khả năng để làm việc đó, rằng nước Nga rộng lớn và mạnh mẽ, rất khó đánh nhau với nước Nga”.[23] Có một bằng chứng cụ thể về tính cách của Công tước Vyazemski, về ý thích mạo hiểm, muốn thử thách của ông. Khi ông quyết định đi xuyên qua những khu rừng nguyên sinh để vào sâu nội địa, viên công sứ người Pháp đã can ngăn, khuyên từ bỏ cách đi này và dọa bằng những mối nguy hiểm. Vyazemski trả lời: “...chính những điều nguy hiểm cuốn hút tôi, tôi không xem mạng sống của mình là cái gì cả”[24] Cần phải thừa nhận rằng, những ghi chép liên quan đến việc đi xuyên rừng này có những cảm xúc đặc biệt trong cách miêu tả (vẻ đẹp của hệ thực vật xích đạo dường như không thể mô tả bằng lời), chúng chứa đựng vô số những chi tiết thú vị. Những dòng chữ tuyệt vời được ông dành cho voi, cho chim, cho bướm và các “cư dân” khác của rừng nhiệt đới. Ông viết về những cuộc gặp gỡ trong các làng Công giáo với các vị linh mục nói tiếng Latinh vô cùng cảm động, chân tình. Một trong những cảnh đáng nhớ nhất trên đường được thể hiện trong nhật ký là việc đến Cố đô Huế. Thực chất, đây là một bài bút ký riêng về thành phố phương Đông được miêu tả từ các khía cạnh khác nhau: hành chính, văn hóa, chính trị, lịch sử. Hơn nữa, Vyazemski thường xuyên so sánh với những gì tương tự ông từng thấy ở Trung Quốc. Vùng ngoại ô Huế đặc biệt làm ông thích thú; ở đây, giữa những cánh rừng mỹ miều là lăng tẩm của các vị Hoàng đế An Nam. Ông mô tả chi tiết các cụm công trình kiến trúc, chỉ ra rằng “các ngôi mộ... trong đống đổ nát và được bảo quản tồi, sân phủ đầy rác”.[25] Ở đây, Vyazemski gặp vua An Nam (thời Pháp thuộc được gọi là Trung Kỳ) Thành Thái, người đã mời vị khách du lịch Nga đến cung điện của mình. Đây là một đoạn trích từ nhật ký của ông: “Hoàng đế An Nam là một cậu bé 15 tuổi... sống gần như là tù nhân trong cung điện của mình. Danh tính của ông không được xác định rõ, ông được gọi là vua, là hoàng đế; trong các văn bản chính thức ông được gọi là quốc vương vĩ đại của phương Nam, là người trị vì chính, là người được Trời lựa chọn.[26] Ông tiếp nhận ngai vàng thay người anh trai “bị lưu đày đến An-giê-ri vì bất tuân lệnh”.[27] Vyazemski mô tả mọi chi tiết trong cung điện Thành Thái, những người thân của nhà vua, các loại nhạc cung đình, các vở tuồng được diễn (“người hóa trang thành những con thú, nhảy, lăn trên cỏ”). Để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, Hoàng đế Thành Thái tặng quà cho vị khách du lịch Nga, trong đó có hai huân chương (dân sự và quân sự) Với các quyết định kèm theo, một hộp với mười huy chương hạng thấp hơn, hai cái quạt lông công lớn có cán bằng ngà voi và một chiếc lọng sang trọng. Sau này, khi còn chưa khỏi hẳn bệnh, trong một bức thư gửi cho N. M. Sologub, công tước miêu tả giai đoạn này trong cuộc hành trình của mình: “Có Trời biết, tôi có trở lại nước Nga được hay không, có được nhìn thấy tất cả các bạn hay không, sức khỏe của tôi đang lung lay, sức lực suy yếu, tôi vẫn chưa khỏi hẳn bệnh thương hàn, nó suýt mang tôi xuống mồ, và bây giờ tôi đang ở thủ đô An Nam để nghỉ ngơi, nhưng vài ngày tới tôi sẽ vượt qua những ngọn núi chưa có dấu chân người để đến Vương quốc Xiêm; chính quyền Pháp cấp cho tôi một đoàn hộ tống, còn chính phủ An Nam đã tìm cho tôi những người dẫn đường từ các bộ lạc hoang dã sống ở giữa An Nam và Xiêm. Phải đi qua khu rừng nguyên sinh nhiệt đới đến sông Mekong, nơi vẫn chưa có bất kỳ dấu chân người châu Âu nào. Chỉ cần bệnh thương hàn tha cho tôi, còn lại tôi không sợ gì cả. Tất cả chúng tôi sẽ được vũ trang đầy đủ, còn nếu có bị lạc trong rừng, có la bàn, chúng tôi sẽ thoát ra ở chỗ nào đó. Hoàng đế An Nam tặng tôi huân chương vì đã đi ngựa tới đất nước của ông, vượt qua đất nước vốn không thể đi qua được là Trung Quốc (họ cho là như vậy). Tất cả mọi người ở đây đều ngạc nhiên về chuyến đi của tôi và rất khó khăn để tin rằng, tôi có thể đến đây từ Sibir, gần như không nghỉ ngơi ở đâu cả”.[28] Điểm dân cư tiếp theo Vyazemski đến là cảng biển Turan (Đà Nẵng hiện nay) - “nơi đầu tiên quân Pháp tiến vào Đông Dương”, ông đã chú ý đến tầm quan trọng kinh tế của cảng này, nơi xuất khẩu hàng hóa sang các nước khác (quế, gỗ mun, thảo quả, v.v.), ghi nhận số lượng lớn người châu Âu và quá trình Âu hóa đủ mạnh trong thành phố (“thậm chí vợ các quan chức An Nam còn tán gẫu bằng tiếng Pháp và mặc váy liền áo kiểu châu Âu”). Tiếp theo là thành phố Tây Ninh, vùng ngoại ô có ngọn núi làm công tước đặc biệt quan tâm: từ đỉnh núi đá có thể ngắm nhìn “toàn cảnh tuyệt đẹp của đất nước”.[29] Tại ngôi đền ở đó, Vyazemski đã tham dự các nghi lễ tôn giáo, vốn được ông tái hiện cụ thể trong nhật ký và gọi là “lễ hiến sinh hoặc cúng thần linh”.[30] Vào tháng Sáu, Vyazemski đến Sài Gòn - “điểm cuối cùng trong chuyến du lịch vòng quanh châu Á”. Trên thực tế, toàn bộ cuốn vở 29 của nhật ký được dành để mô tả chi tiết Sài Gòn và khu phố Tàu là Chợ Lớn. Để tôn vinh công tước Nga, chính quyền Pháp sở tại đã tổ chức buổi tiệc chiêu đãi và chúc mừng chuyến thám hiểm xuyên châu Á kết thúc thành công, đặc biệt, các nhà quân sự và nhà báo bày tỏ sự thán phục hơn ai hết. Có lẽ từ những thông tin được cung cấp trong phần này của cuốn nhật ký, đối với bạn đọc, và đặc biệt là đối với các nhà nghiên cứu tự nhiên, những thông tin về thảo cầm viên - “nổi tiếng khắp phương Đông và là niềm vui lớn lao cho công chúng” - sẽ vô cùng lý thú và bổ ích. Vyazemski đã miêu tả các loài thực vật khác nhau (cây dương xỉ, cây thông xích đạo và nhiều loài cây khác), nhiều loài thú, loài chim trong những cánh rừng của vùng này (hổ, vẹt xanh, chim bồ câu màu xanh, rắn chuối, v.v.). Trong ngày cuối cùng của ông trên đất Việt Nam, ông đã đến thăm Chợ Lớn, khu phố mà ông mô tả rất chính xác và súc tích: “Ở đây có sự pha trộn đầy đủ giữa các yếu tố châu Âu và châu Á; mọi người ở đây say mê buôn bán, và cũng thấy có xưởng sản xuất, nhà máy; dưới sông tấp nập tàu thuyền chở đầy gạo, có nhiều máy xay xát gạo”.[31] Ông bị chấn động khi thấy ở đây thuốc phiện được sản xuất công khai như một ngành công nghiệp: “Ngoài sự vô đạo đức hoàn toàn, tôi còn kinh ngạc về sự thiển cận của các quan chức chính phủ. Họ thừa biết thuốc phiện làm suy yếu con người, làm cho họ trở nên lười biếng, mê muội, không thể làm việc, trước khi giết chết họ. Các quan chức cũng hiểu rõ rằng, các thuộc địa chỉ phát triển được nhờ sức lao động của dân bản địa, và họ nhận thức được rằng, lao động đang thiếu, và đất Nam Kỳ chưa cần vì thế thì cũng đã chưa phát huy hết tiềm năng. Thế mà họ lại còn phổ biến thuốc phiện”.[32] Sau Sài Gòn, ông tiếp tục hành trình của mình ở Campuchia, Xiêm, Miến Điện; ông ở Calcutta và Ấn Độ trong ba tháng, từ tháng Hai đến tháng Năm 1893. Sau đó, ông vượt dãy Himalaya, Tây Tạng, Pamir, Bukhara, Ba Tư, vùng Kavkaz và trở về nhà vào cuối năm 1893. Năm 1895, Konstantin Aleksandrovich Vyazemski đến sống tại tu viện Thánh Panteleimon ở núi Aphon, nơi ông sống trọn những năm cuối cuộc đời. Tên tuổi của Công tước Konstantin Aleksandrovich Vyazemski bị lãng quên một cách bất công mặc dù chuyến du lịch vòng quanh châu Á do ông tổ chức và thực hiện là có một không hai, có lẽ chẳng ai sánh được với ông trong lịch sử địa lý. Đó là “... một đóng góp quan trọng vào lịch sử của khoa học bởi ông đã sử dụng phương pháp so sánh, đặc tả chính xác đặc điểm của dân cư, điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử của thời đại mình”.[33] Nhật ký của ông thú vị bởi tính khoa học và văn chương. Ở trong đó chứa đựng rất nhiều sự so sánh những đặc điểm tự nhiên, văn hóa của nhiều nước châu Á, phong tục, tập quán, đạo đức của các dân tộc khác nhau, mối quan hệ qua lại giữa người dân bản địa và thực dân. Nhiều chuyên gia, đặc biệt là các nhà địa lý nhà thực vật học, động vật học, sử học, dân tộc học, và những người yêu thích du lịch sẽ tìm thấy trong ghi chép trên đường của Công tước Vyazemski nhiều điều bổ ích cho mình. *** Văn bản nhật ký (chín cuốn vở “Việt Nam”) được giữ nguyên vẹn tối đa như khi chúng được Konstantin Aleksandrovich Vyazemski viết ra, kể cả các địa danh, tên, thuật ngữ, v.v. Trong phần chú giải chúng tôi có đưa ra những giải thích cần thiết. Do nhật ký được viết hơn một trăm năm trước, nên trong một số trường hợp, chúng tôi không thể tìm được lời giải thích đầy đủ. Tiến sĩ Anatoly Sokolov, Viện nghiên cứu Phương Đông, Viện hàn lâm khoa học Nga   Mời các bạn đón đọc Du Ngoạn Vòng Quanh Châu Á Trên Lưng Ngựa của tác giả K. A. Vyazemski & Hồ Bất Khuất (dịch) & Nguyễn Thị Như Nguyện (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Mật Của Những Cuộc Đời
Cuộc đời của anh cảnh sát điều tra, cuộc đời của một người quá thành đạt để rồi vừa là tội nhân vừa là nạn nhân... trong cái vòng quay chóng mặt của tình và tiền tài danh vọng... Hai người lại là bạn thân của nhau từ nhỏ. Tình thân và tự trọng khiến hai người càng hiểu nhau, hiểu đời hơn để tự xử lý cho phải lẽ trong đêm trước khi tội nhân bị xử bắn... ***   LTS: Có lẽ hiếm có trường hợp nào mà một kẻ chỉ làm nghề bán thịt lợn lại lên làm Tổng giám đốc một doanh nghiệp Nhà nước. Đây thực sự là câu chuyện kỳ lạ và tiếc thay, lại là có thực. Truyện dài “Bí mật của những cuộc đời” của nhà văn Nguyễn Như Phong viết về một nhân vật như vậy. Tác phẩm đã được Giải B của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam trong cuộc thi tiểu thuyết, truyện ký “Vì bình yên cuộc sống”. Báo Năng lượng Mới xin giới thiệu cùng bạn đọc tác phẩm này. Năng lượng Mới số 338 Nguyễn Như Phong Trại giam của Công an tỉnh Nam Sơn nằm trên một quả đồi thấp cách trung tâm thành phố khoảng sáu cây số có tên là đồi Dẻ vì thế mà cũng được mọi người gọi bằng cái tên Trại đồi Dẻ. Người ta kể rằng, ngày xửa ngày xưa, khi mà những vạt rừng còn chạy dài từ chân núi Hoàng Sơn đến tận gần thị xã thì khu vực này mọc rất nhiều cây dẻ và trên quả đồi có nhiều cây dẻ cổ thụ to cỡ một người ôm. Có hai địa danh được coi là nơi chứa nhiều bí ẩn và huyền bí ở tỉnh là đồi Dẻ và đầm Tà. "Ma già đồi Dẻ, ma trẻ đầm Tà", các bà các mẹ cứ lấy câu đó để dọa trẻ con, cái chính là ngăn không cho chúng ra đó chơi. Đầm Tà là một khu đầm rộng có đến hơn năm trăm hécta bạt ngàn lau sậy, là nơi trú ngụ của các loại chim bắt cá như cò, le le, cốc. Có ba đứa trẻ cả gan lấy thuyền thúng bơi ra giữa đầm và chẳng may bị vòi rồng hút ráo cả lên trời và từ đó, vào những đêm trăng xuông, thi thoảng người ta lại nghe thấy giữa thinh không tiếng trẻ con nói léo nhéo. Còn ở đồi Dẻ, nghe nói vào cái dịp đói năm 1945, có một lần người ta thấy có đến một chục người già ôm nhau nằm chết đói trên đồi Dẻ. Hóa ra đó là một số người của làng Bến quyết ra đi để chết cho gia đình đỡ một miệng ăn và thế là họ chọn đồi Dẻ... Dân quanh vùng quyên góp lập cho họ một miếu thờ và từ ngày đó, đồi Dẻ bỗng trở nên linh thiêng.   Nhưng đến năm 1965 thì Ty Công an tỉnh Nam Sơn chọn nơi này để xây dựng trại giam. Nghe nói là chính ông Phó ty Công an tỉnh bổ nhát búa đầu tiên đập miếu thì chỉ ba ngày sau, ông phát bệnh đau đầu rồi hóa người quẫn trí. Nhưng rồi trại giam vẫn cứ được xây và quy mô ngày càng mở rộng hơn. Năm 1990, trại được đầu tư lớn, xây lại gần như toàn bộ. Trại có bốn khu giam. Khu A là dành cho bệnh xá của phạm nhân, nhà trẻ, nhà giam những người bị tâm thần hoặc bị bệnh truyền nhiễm. Khu B gồm hai dãy, có mười phòng giam là khu phạm nhân nữ. Khu C là khu lớn nhất, gồm sáu dãy nhà giam và có  ba mươi phòng giam, mỗi phòng diện tích khoảng hơn bảy chục mét. Khu này giam đủ loại tội phạm và với nhiều mức án khác nhau. Còn khu D là khu dành riêng cho những loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm và phạm nhân bị kết án tử hình đang chờ thi hành án. Khu D có mười buồng giam tử tù và mỗi buồng chỉ giam một người. Buồng giam tử tù rộng khoảng 6m2, trong đó có một bệ xi măng dài 2,2m rộng 1,1m là nơi cho tử tù nằm, góc trong cùng là hố xí và một vòi nước. Nhưng sau này, với lý do phải đảm bảo tuyệt đối an toàn cho tử tù được sống khỏe mạnh cho đến lúc ra trường bắn chịu sự trừng phạt của pháp luật, người ta quyết định bỏ vòi nước và thay vào đó là một xô nhựa loại 30 lít. Mùa hè thì cứ hai ngày tử tù được tắm một lần còn mùa đông, khi nào họ cần tắm thì báo và quản giáo cho phạm nhân tự giác mang nước vào cho tử tù tắm. Gần đây, khi mà trại giam xây được khu lò hơi để nấu ăn thì nước nóng đâm ra dư thừa và thế là khi nào trời rét quá, tử tù được "ưu tiên" tắm nước nóng. Lúc đầu thì ai cũng nghĩ đó là chuyện đơn giản. Nhưng rồi có lần một đoàn khách nước ngoài thuộc một tổ chức nhân đạo nào đó đi đến trại và họ vô cùng ngạc nhiên khi thấy tử tù được tắm nước nóng và thế là khi trở về, họ ca ngợi chính sách nhân đạo của trại hết lời. Hồi xây dựng, khi thiết kế có mười buồng giam tử tù, ông Chủ tịch tỉnh đã phê phán công an là dự báo tình hình tội phạm bằng con mắt bi quan. Cái lý của ông là xã hội ngày càng phát triển, càng văn minh, dân càng giàu thì tội phạm phải càng ít đi, vì thế chỉ cần xây bốn buồng tử tù là được. Ai ngờ đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX, tội phạm cứ tăng vùn vụt và các buồng giam đều quá tải. Riêng tử tù, có lúc lên đến hơn hai chục, mà chủ yếu là buôn bán ma túy, vì thế nhiều khi  phải lấy các buồng giam khác để giam tử tù. Mỗi lần như vậy thì quản giáo đến khổ bởi họ phải thực hiện thêm bao nhiêu phần việc ngoài nhiệm vụ. *** Từ lâu, Đại tá Công an, nhà văn Nguyễn Như Phong đã được biết đến không chỉ là một cây bút tên tuổi với những phóng sự điều tra, mà còn là tác giả của nhiều tiểu thuyết và kịch bản phim nổi tiếng như “Chạy án” I và II, “Bí mật tam giác vàng”, “Cổ cồn trắng”, “Quỷ ám”, “Bí mật những cuộc đời”… từng tạo nên lượng độc giả và khán giả rất lớn. Anh cũng là một trong những nhà văn Công an có nhiều giải thưởng văn học và báo chí. “Tác phẩm đầu tay” lần này có cuộc trò chuyện cùng anh: + Tác phẩm đầu tay thường ghi một dấu ấn với người cầm bút, về cả cảm xúc lẫn hoàn cảnh ra đời. Với anh, ấn tượng về tác phẩm đầu tay đọng lại là gì? Nhà văn Nguyễn Như Phong (NV NNP): Thời gian đóng quân ở Lào, tôi đã viết truyện ngắn “Đại đội trưởng của tôi” và được đăng trên Báo Văn nghệ năm 1978. Đó là câu chuyện tôi hư cấu, nhưng thấp thoáng hình ảnh người đại đội trưởng của tôi khi đó. Vài tháng sau, tôi mới được cầm số báo có truyện ngắn đầu tay chuyển từ Việt Nam sang. Ngày ấy, Báo Văn nghệ là tòa lâu đài văn học của nước nhà nên được đăng truyện ngắn ở đây là điều danh giá với người sáng tác, đặc biệt là người mới cầm bút như tôi. Thế là anh em trong đơn vị đã gọi tôi là “nhà văn”. Tôi mới tập viết, gửi truyện ngắn về, nhưng bố tôi (nhà văn Hoài An) khi đó làm biên tập ở Báo Văn nghệ không đọc một truyện nào.  Ông đưa cho nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú và bảo: “Cô đọc, nếu thấy nó viết được thì khuyên nó tiếp tục, còn không thì thôi”. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Của Những Cuộc Đời của tác giả Nguyễn Như Phong.
Về Nhà
“Về nhà” là cuốn sách quan trọng nhất, “là lý do để viết bộ sách này”. Không còn loay hoay với những câu hỏi như trong đời, đâu là việc chính, đâu là việc phụ, hay sống để làm gì, cuốn sách kể lại những nhân duyên đầu tiên – kỳ quặc, lạ lùng, đáng sợ hay vui vẻ - đã đưa chị trở lại căn nhà đích thực của mình – ngôi nhà bên trong thân và tâm, “nơi tất cả các ham muốn ghi nhận, ghi nhớ, ghi chép, suy luận, tư duy, kết nối, so sánh đều dừng bặt”. Cũng giống như hai cuốn trước, "Về nhà" được viết từ những ghi chép tỉ mỉ của tác giả về mọi việc xảy đến trong cuộc sống, và được chị tự biên tập cắt đi chỉ còn một nửa. *** Bộ sách gồm có Bất Hạnh Là Một Tài Sản: Một mình ở châu Âu Xuyên Mỹ Về Nhà *** Ngày quan trọng nhất Bắt đầu lại từ đâu? Đây là câu hỏi thường trực của mùa hè 2010 sau khi tôi từ Chicago chuyển tới California. Ly hôn là một cánh cửa mà ngay sau ly hôn, như người loanh quanh trên ngưỡng cửa, bạn không chắc bạn vừa bước ra hay vừa bước vào. Bạn thậm chí không chắc bạn bước ra khỏi cái gì và bước vào cái gì. Nhưng ngã ở đâu, bạn phải đứng lên ở đó. Một tuần sau khi tới San Jose, trong tình trạng tỉnh táo mà mê muội đặc thù của thời hậu ly hôn, tôi thuê nhà, nhận phòng làm việc, gặp đồng nghiệp mới, đăng ký ô tô, đổi bằng lái, mở tài khoản ngân hàng, làm tất cả giấy tờ để ổn định cuộc sống, rồi tất bật về Hà Nội giảng một khóa học ngắn về công tác xã hội với trẻ em và gia đình. Lớp học có gần trăm học viên, phần lớn là giảng viên các trường đại học hoặc cán bộ các bộ, sở, tổ chức phi chính phủ - đa phần hiểu biết hơn tôi về chính sách đối với trẻ em tại Việt Nam. Buổi đầu tiên lên lớp, tôi nhận thấy trong 98 học viên của lớp có một thành viên đặc biệt: một nhà sư mà các học viên gọi là “thầy Đạo.” Học viên trong lớp nói rằng thầy trụ trì một ngôi chùa ở ngoại thành Hà Nội. “Chùa ở trong làng cổ, đẹp lắm cô ạ. Hôm nào cô vào chơi.” Một buổi chiều, sau khi tan lớp, học viên rủ tôi đến thăm chùa. Từ trường, chúng tôi đi xe máy ra ngoại thành rồi men theo bờ sông qua một cây cầu xuống con đường đất nhỏ. Xe chạy trên đường đất hẹp dọc sông rất lâu, băng qua các làng cổ để tới một cổng sắt nhỏ dẫn vào ngôi chùa sát bờ sông. Bước qua cổng là khoảng sân rộng lát gạch đỏ có rất nhiều cây nhãn rợp bóng. Đập vào mắt tôi là hàng chục bức tượng Phật lớn bằng xi măng, mỗi tượng cao hơn hai mét, sắp hai hàng song song, chạy từ cổng về phía sau chùa. Khuôn mặt, trang phục, cách ngồi, và dáng tay của các tượng Phật này không hề giống các tượng tôi từng nhìn thấy. Phật ngồi trên tòa sen, đội mũ năm cánh, tóc dài dưới vành mũ, mắt dài nhìn hướng xuống dưới, bàn tay phải thì nắm lấy ngón trỏ của bàn tay trái ở phía trước ngực. Hàng tượng chạy ra sau chùa, ở đó là cánh đồng lớn xanh mướt và những bụi tre. Mặt trời lúc này bắt đầu xuống, hắt ánh nắng rạng rỡ lên hàng tượng Phật. Từ bé, tôi đã luôn cảm mến cảnh chùa nhưng gia đình tôi không theo tôn giáo nào nên một năm tôi chủ yếu đi chùa vào dịp Tết chứ chưa từng tham gia lễ bái, không biết các phong tục, nghi lễ, cũng chưa từng đọc kinh. Với tôi, đạo Phật chỉ lờ mờ trong các khái niệm phổ thông như Phật Bà Quán Âm, A Di Đà Phật, Tây phương cực lạc, Phật tổ Như Lai, nhân quả, hòa thượng, Niết Bàn mà tôi chủ yếu học từ... Tây du ký. Tôi đinh ninh rằng Phật (mà ở Việt Nam còn gọi là Bụt) cũng giống Chúa hay Allah - tức một đấng quyền năng mà người ta kêu cứu khi cùng đường. Tôi thậm chí đinh ninh “A Di Đà Phật” không phải tên một vị Phật mà là câu chào thông thường của người tu hành vì trong phim Tây du ký, rõ ràng Đường Tăng gặp ai cũng chắp tay cúi đầu “A mi thò phò!.” Lần đến chùa này là lần đầu tôi đến một ngôi chùa làng và cũng là lần đầu tôi nói chuyện trực tiếp với một nhà sư. Học viên lớp tôi đều gọi thầy Đạo là “thầy”, “sư phụ”, “cụ” hoặc “cụ chùa”, xưng con; thầy Đạo thì gọi mọi người là cô, chú, và xưng “thầy” hoặc “tôi”. Tôi không biết phải xưng thế nào nên cứ theo phép lịch sự và... dân chủ. “Thầy Đạo cho tôi hỏi, các tượng Phật kia là thế nào ạ?” “À, là Phật Tỳ Lô Giá Na cô giáo ạ.” Lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Phật này. Tôi thấy nó vừa thú vị vừa quê quê với lối phiên âm tiếng Việt. “Thế sao tay của Phật lại thế kia ạ?” “À, đó là ấn trí quyền.” - thầy cười. Lại một từ nữa tôi không hiểu. Học viên trong lớp đã lấy ghế tập trung quanh tầng trệt của một nhà sàn gỗ hai tầng nằm giữa sân chùa. Nhiều học viên từng làm cán bộ đoàn lâu năm, thường xuyên phải hoạt động phong trào nên truyện cười, thơ văn, hát hò rất giỏi. Họ kể truyện cười, đọc thơ, vè, ứng khẩu tiếu lâm khiến tôi cười nghiêng ngả. Rồi chúng tôi nói chuyện gia đình, cuộc sống. Từ đầu khóa học đến giờ, tôi chỉ nói chuyện công việc với các học viên nhưng hôm nay, tôi cảm thấy có thể nói chuyện cuộc sống riêng của tôi với họ theo kiểu “người lớn với nhau.” “Chắc các bạn ở đây không biết chứ tôi...” - tôi mở đầu, định nói với họ rằng tôi đã từng kết hôn và bây giờ đã ly hôn. “Ôi cô ơi, mọi người biết hết rồi” - các học viên cười, cắt lời tôi - “Lý lịch của cô thế nào, chúng nó lên mạng điều tra hết rồi cô ạ.” “Thật à? Thế mà tôi cứ tưởng...” - tôi cố vớt vát chữa ngượng. “Cô cứ thoải mái đi, chúng em biết hết rồi.” Chúng tôi bắt đầu nói về tình yêu và hôn nhân. Các học viên hỏi tôi cảm thấy thế nào sau ly hôn. Tôi nói cũng tùy hôm; có hôm thì tôi thấy mình tự do, cuộc đời rộng mở trước mặt; có hôm thì tôi thấy cuộc đời tôi chỉ còn là một chuỗi ngày cầm cự với sự tuyệt vọng không đáy để chờ chết trong cô đơn. “Nhưng mà thực sự tôi không hề trách móc hay oán hận chồng cũ” - tôi nói. “Nếu thế thì có thể là cô chưa bao giờ yêu chồng cô” - một học viên nói - “Yêu thì nhất định phải đi kèm một ít ghen tuông, oán hận chứ ạ.” Tôi nói tôi không thấy thế. Thực sự không cảm thấy thế. Ly hôn chẳng liên quan gì đến tình yêu hay hận thù cả. Câu nói này của tôi lập tức làm nổ ra một cuộc tranh luận giữa các học viên về yêu - ghen - và hận. Nếu yêu mà không ghen thì có phải là yêu không? Yêu mà khi chia tay không hận đối phương một tí nào thì có phải là yêu không? Vô lý. Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng. Thế rồi, được, cứ cho là yêu có thể không ghen, thế chồng hay vợ nó đi ngoại tình thì sao? Có ghen không? Nếu nó say nắng, có tình cảm thật với đứa nào thì sao? Rồi nó ngu, nó không biết giữ gìn, nó có con với đứa khác, thì lúc đấy chia tay có hận không? Không bên nào chịu bên nào. Bên nào cũng có lý và có bằng chứng từ bản thân, từ “con bạn em”, từ “chị cùng cơ quan em”, từ “dì tớ”... Một học viên quay sang thầy Đạo: “Nhức đầu cụ nhỉ, như cụ sướng nhất, khỏi lắm chuyện phức tạp.” Thầy Đạo cười. “Có gì phức tạp đâu. Ở đời, người ta gặp nhau không ngoài chuyện ân oán; có ân thì báo ân, có oán thì báo oán. Vợ chồng cha mẹ anh em là duyên nợ, có duyên thì tụ, hết duyên thì tán. Cô giáo đã trả hết nợ hết duyên thì chia tay không thấy vướng mắc là bình thường mà.” Ha! Tôi chưa bao giờ nghĩ tôi với Sơn lấy nhau vì duyên số. Ừ thì người ta vẫn nói “Vợ chồng là duyên số” nhưng tôi luôn nghĩ đó là một câu dĩ hòa vi quý khi người ta không dùng điều gì khoa học hơn để giải thích được. Và thường chỉ áp dụng cho những người lười nghĩ, mê tín dị đoan, chứ không phải cho người như tôi. Duyên số thì, xin lỗi chứ, bố ai mà chứng minh được. Tôi như thế, Sơn như thế, gặp nhau như thế, tính cách như thế, vậy là chúng tôi lấy nhau. Đơn giản vậy thôi. Vậy mà sống với nhau thì không đơn giản chút nào. À nhưng không đơn giản cũng là vì tôi như thế... Sơn như thế... và chúng tôi là như thế, như thế... về mặt tính cách, xuất thân, hoàn cảnh, hành vi. Nghĩa là dĩ nhiên có thể giải thích được bằng các mô hình tâm-sinh-lý xã hội chứ không phải một thứ duyên số định sẵn nào tồn tại trước cả khi chúng tôi biết nhau. Nhưng mà biết đâu có duyên số thật nhỉ? Lẽ nào những đau khổ tôi phải trải qua là do tôi đã nợ gì Sơn và bây giờ phải trả? Tôi đã làm gì sai? Trong đời này, tôi có thể không hổ thẹn mà nói rằng tuy tôi không hoàn hảo gì nhưng quả thực là tôi ít làm điều ác, cũng ít nghĩ điều ác hay nói điều ác - điều ấy thì tôi tự biết. Với Sơn cũng như với những người quanh mình, tôi có thể đếm chưa hết một bàn tay những lần mà tôi nổi giận. Thế thì có kiếp trước chăng? Tôi đã nợ gì Sơn từ kiếp trước chăng? Từ bé đến giờ, không ít lần những người gặp tôi lần đầu (như ở sân bay) cứ tự động “phán” rằng tôi có “quý nhân phù trợ”, có “năng lực tâm linh đặc biệt”, có “nhiều phước báu”, có “tiên cốt” với “đạo cốt”, còn tôi thì luôn nghĩ các “thánh phán” này muốn phỉnh tôi lấy tiền hoặc bị tẩu hỏa nhập ma do đọc quá nhiều sách huyền thuật. Nếu quả có kiếp trước tức là sống và chết và tất cả những gì chúng ta làm giữa hai mốc đó đều phải được xem xét lại. Cũng tức là có cái lớn hơn thế giới vật chất mà ta thấy bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, này chăng? Cũng tức là chùa chiền, Phật, Chúa thánh thần không phải chuyện mê tín dị đoan, thậm chí không phải một liệu pháp an tâm, một thứ tín ngưỡng hay tập tục văn hóa mà ẩn chứa một sự thật tôi chưa từng biết đến? Có thể nào những hủ tục, tín điều, lễ nhạc ma mị mà người ta phủ lên đạo Phật đã làm người ta hiểu nhầm một hệ thống giải thích thế giới rốt ráo và triệt để? Ít nhất thì, ngay cả khi không hiểu gì về đạo Phật, tôi vẫn thấy khái niệm nhân quả có lý hơn việc cho rằng có một đấng Chúa Trời nặn ta ra từ đất sét và định đoạt cuộc đời ta. Rút cục là thế nào đây? “Trông cô giáo cứ ngơ ngơ ngác ngác buồn cười quá” - thầy Đạo cười - “Thôi ăn cơm đi các cô các chú.” Chúng tôi ăn cơm chay. Đây cũng là lần đầu tiên tôi ăn cơm chay chùa. Tôi không ăn hết được cả đĩa lớn mà học viên lấy nên bỏ lại gần nửa. “Cô chưa ăn cơm chay bao giờ phải không cô?” - một học viên thì thầm với tôi sau khi bữa cơm được dọn đi. “Chưa.” “Ăn cơm chay ở chùa không được bỏ thừa đâu cô ạ” - học viên cười - “một hạt cơm chùa là 72 công đức đấy.” “Thế à? Chết, tôi không biết.” Quá nhiều thứ ở Việt Nam, thuộc về văn hóa bình dân của người Việt Nam mà tôi không hề biết. Lần đầu tiên tôi cảm nhận rõ mình là người Việt, sinh ra và lớn lên ở Việt Nam mà chẳng hiểu gì về lịch sử, văn hóa, tâm lý đích thực của dân tộc mình, về hành vi của những người gọi là “đồng bào mình”. Tức là hiểu họ như họ đang-là chứ không phải như tôi nghĩ hoặc muốn họ là. Tôi thực sự đã lớn lên, đã tuần tự đi học đến hết đại học, rồi ở Mỹ suốt mười năm qua; chủ yếu chỉ có hiểu biết giáo khoa, bó hẹp trong thế giới gồm toàn trí thức đô thị, trong khi đến hơn bảy mươi phần trăm người Việt Nam vẫn ở nông thôn và vận hành một cách có ý thức hoặc vô thức trên các nền tảng văn hóa nông thôn này. Sau bữa ăn, chúng tôi uống trà rồi đi dạo tản mát quanh chùa. Mặt trời đã xuống, gió thổi nhẹ, không gian vẳng tiếng chim và tiếng gà lên chuồng. Rồi trời bắt đầu tối. Thầy Đạo bảo một chú tiểu mở cửa “Tổ Đường” cho chúng tôi vào ngắm “xá lợi”. Lại một từ nữa lần đầu tiên tôi được nghe. “Xá lợi là gì ạ?” “À, khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì kim thân của Ngài được các đệ tử hỏa thiêu; sau khi thiêu thì còn lại các hạt xá lợi này. Mỗi bộ phận trên nhục thân của Phật sẽ để lại các loại xá lợi khác nhau; có xá lợi răng, xá lợi tóc, xá lợi xương... mỗi thứ một màu. Rồi còn có xá lợi của các Bồ Tát, thánh tăng, các tổ. Nếu mình tu tập tinh tiến, giữ gìn giới luật nghiêm cẩn, thì xá lợi sẽ tự sinh sôi...” “Cái gì ạ?” “Cô giáo không tin phải không?” - thầy Đạo cười - “người nào thờ xá lợi, kể cả tu sĩ hay cư sĩ tại gia, mà nghiêm trì giới luật, tinh tiến tu hành thì xá lợi từ một viên sẽ nhân hai, nhân bốn, nở đầy ra. Còn nếu không tu hành thì xá lợi sẽ tiêu dần, tiêu dần, rồi biến mất... vi diệu không?” Vâng, “vi diệu” ạ - tôi nghĩ. Nhưng nhất định phải có một cách giải thích khoa học nào đó. Có thể các nhà sư quen ăn một số thực phẩm nhiều canxi hay chất gì đó nên hóa chất đọng lại trong cơ thể thành “xá lợi” giống như sỏi thận. Hoặc Đức Phật là người ở Ấn Độ, xứ đó nóng, thực phẩm dễ hỏng, mà ngày xưa không có tủ lạnh nên người ta quen bảo quản thực phẩm bằng cách tẩm ướp trong các loại gia vị nóng, cay thì có thể lâu dần các vi chất đọng lại và nóng chảy trong quá trình hỏa thiêu. Khi các viên “xá lợi” này gặp xúc tác trong môi trường bình thường thì giãn nở hoặc co lại. Chứ một thứ vô tri vô giác làm sao có thể tự sinh sôi nảy nở? “Chà, không có khoa học thì người ta dễ mê tín thật” - tôi thầm nghĩ - “Thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn tin rằng sấm chớp mây mưa là do thần sấm thần sét tạo ra; giàu nghèo, sướng khổ do ai đó ban ơn cho mình. Vậy nên Việt Nam cứ nghèo mãi.” Chúng tôi ở lại uống trà, nói chuyện với thầy Đạo đến khuya mới về. Buổi tối, chùa lộng gió, ếch nhái, côn trùng râm ran. Khung cảnh làng quê thanh bình này đã hàng chục năm rồi tôi không thấy. Từ chùa về, tôi ghi trong nhật ký của mình: “Đây có thể là một trong những ngày quan trọng nhất của đời tôi”. Một cách lờ mờ, tôi nghĩ rằng tôi hoàn toàn mất gốc, tôi không hiểu gì về văn hóa Việt Nam, nhất là cái gốc văn hóa nông thôn, văn hóa tâm linh ăn sâu vào người Việt. Tôi lại cũng nghĩ giờ tôi đã hoàn thành việc học hành của đời mình, nếu tôi muốn trở lại Việt Nam làm công tác xã hội, thì không có cách nào khác là tôi phải hiểu rõ cái làm nên tâm lý, hành vi các cá thể cũng như tâm lý tập thể của người Việt Nam. Nhưng hóa ra tâm thức của chúng ta thường biết những điều mà lý trí có thể phải mất một thời gian dài mới theo kịp. Không lâu sau buổi đến chùa này, tôi trở lại San Jose và mọi việc trôi dần trong những lo toan hằng ngày, cho đến khi một việc xảy ra với tôi: tôi gặp ma. Mời các bạn đón đọc Về Nhà của tác giả Phan Việt.
Trịnh Công Sơn Và Cây Đàn Lya Của Hoàng Tử Bé
Là cuốn sách viềt về Trịnh Công Sơn, do một người bạn từ thời thiếu niên của nhạc sĩ họ Trịnh viết. Thông qua tập sách, người đọc sẽ được biết về Trịnh Công Sơn tuổi ấu thơ, những tư tưởng ảnh hưởng đến quan niệm triết học của nhạc sĩ họ Trịnh, tuổi thanh niên với nghề gõ đầu trẻ ở Bảo Lộc và những năm tháng trốn lính lao đao hết Huế đến Sài Gòn, những nghi ngại đến từ hai phía và con người Trịnh Công Sơn trong những năm tháng hòa bình. Cuốn sách được viết dưới nhiều thể loại văn học như truyện ngắn, tản văn, hồi ức, chuyện kể… hình thành nên một tác phẩm về một con người – con người Trịnh Công Sơn. *** Cuốn sách được chia thành ba chương, như một cuốn phim quay chậm từng khoảnh khắc trong cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ ấu thơ cho đến những lối rẽ trong đời, từ những bài tình ca đến những ca khúc phản chiến. Trong chương đầu Dấu chân địa đàng, những ngày tháng còn thơ ấu, những ảnh hưởng đến Trịnh Công Sơn được miêu tả chân thực và sinh động. Âm nhạc của ông được nuôi dưỡng từ những nỗi buồn, từ những xúc cảm về một miền xa xăm, từ tình yêu của mẹ và từ tư tưởng Phật Giáo. “...thế giới Trịnh Công Sơn là một vòng khép kín, giống như một lâu đài bằng đá ngày xưa, tĩnh mịch trong rừng, trong đó bằng sự nhạy cảm của một nghệ sĩ, Sơn thu nhận mọi thông tin về kiếp người và Sơn lơ đãng ngồi ký tên vào từng viên đá. Gần như quán xuyến tất cả, âm nhạc của Trịnh Công Sơn diễn ra trong cung la thứ, chuyển tải hết cả biến cố của một đời người.” Chương 2 Tuổi đá buồn đưa người đọc đến những ngày hoạt động âm nhạc sôi nổi của Trịnh Công Sơn, từ những ngày còn đi học đến khi có những sáng tác đầu tiên cho thiếu nhi, và những thay đổi thời đại khiến âm nhạc của ông trở thành tiếng vang giữa bối cảnh hiện sinh của chiến tranh. Rồi ông tìm thấy Khánh Ly, rồi ông chọn viết tình ca, trở về với chất thơ, chất Huế. “Trịnh Công Sơn bắt đầu viết nhạc phản chiến cùng lúc anh phải tiếp cận với cuộc chiến qua thời gian sống ở B’lao. Từ đó trở đi, tư tưởng phản chiến trở thành một ám ảnh thường trực của tâm hồn anh, một nỗi đau đớn trĩu nặng, héo mòn mà không do một căn bệnh nào hết. Từ đấy, anh trở thành nhạc sĩ phản chiến lừng danh và duy nhất của Việt Nam.” Trong những ngày viết nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn bị sự truy lùng gay gắt của quân đội và chính quyền Sài Gòn. Những bản nhạc ông viết cho ca sĩ Khánh Ly hát dần bị tịch thu và việc in ấn cũng trở nên khó khăn. Thế nhưng, âm nhạc của ông vẫn đến được với công chúng, vẫn gây chấn động và lóe lên thứ ánh sáng mạnh mẽ cho con người trong những ngày chiến tranh loạn lạc. “Thời kì dạy học ở B’lao, Trịnh Công Sơn đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm mang tên Phúc âm buồn, Chiều một mình qua phố, Gia tài của mẹ, Người hát bài quê hương, Người già em bé, Người con gái Việt Nam da vàng. Có thể nói, những ngày sống ở B’lao đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời sáng tác của Trịnh Công Sơn, đẩy anh chìm sâu vào tận đáy máu lửa của lịch sử, để trở thành nhạc sĩ phản chiến gắn liền với số phận của dân tộc.” Bên cạnh nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn dành thời gian còn lại cho tình ca. “Ở đâu có sự chân thành và tính giản dị thì ở đó có âm nhạc đích thực. Phải thừa nhận rằng, nhạc điệu của Trịnh Công Sơn không có những biến tấu phức tạp, nhưng cực kỳ chân thành và giản dị, dễ đến với mọi người. Những bài hát như Diễm xưa, Hạ trắng, Biển nhớ, Huyền thoại mẹ v.v… đã chứng tỏ phong cách riêng củaTrịnh Công Sơn.” Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường dành nhiều lời khen cho ca từ đậm chất thơ của Trịnh Công Sơn. “Chính ca từ của Trịnh Công Sơn mới khiến người ta lạ lùng, và dành cho Trịnh Công Sơn một vị trí đặc biệt trong nền âm nhạc Việt Nam, một vị trí dành cho nhà thơ, giữa những nhà thơ hàng đầu của Việt Nam thời tiền chiến, cả bây giờ cũng thế.” Chương 3 Để gió cuốn đi là những hoài niệm, ưu tư của ông về âm nhạc, về những mối tình. “Chúng ta hài lòng khi thấy Trịnh Công Sơn đã giành được trong tay định mệnh, cái mà người nghệ sĩ nào cũng thèm muốn: Sự bất tử. Trịnh Công Sơn không có nhà cửa nguy nga, của cải vật chất và không có vợ con riêng. Nhưng Trịnh Công Sơn có một cái tên để lưu truyền cho hậu thế. Và tất cả đó để làm gì? Cũng theo lời bài hát của Sơn, Để gió cuốn đi. “Khát vọng lưu danh là một ý niệm rỗng không về vật chất, và Trịnh Công Sơn đã sống đúng với ý niệm ấy.” Cùng với Trịnh Công Sơn và cây đàn lyre của hoàng tử bé, dịp này NXB Trẻ còn tái bản nhiều tác phẩm khác do chính cố nhạc sĩ viết như: Tôi là ai, là ai; Thư tình gửi một người. Mời các bạn đón đọc Trịnh Công Sơn Và Cây Đàn Lya Của Hoàng Tử Bé của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Cá Tắm Nắng
Đọc bút ký Cá Tắm Nắng, gặp tấm chân tình ấm áp của một tấm lòng tha thiết mến yêu thiên nhiên. Một làn hương thoảng đưa, một hồi chuông ngân vọng, đôi tiếng chim thánh thót, bóng đêm tĩnh lặng trên đất chết,... tràn đầy tình cảm thân thương. Hòn Đỏ là một cảnh đẹp tâm linh. Xóm Nước Nóng là một làng quê khốn khó. Chùa Linh Sơn như một dáng cổ tự huyền bí xa xưa. Cảnh trí Nha Trang sắc nét tràn đầy tình yêu quê hương. Đi bách bộ theo bãi biển, ngắm biển trời, đón gió lộng trên cầu Trần Phú, chiêm ngưỡng Tháp bà Thiên Y A Na trong buổi bình minh, lúc ban trưa chói chang nång hồng hay thấp thoáng dưới ánh chiều tà. Nhìn từ trên cầu Trần Phú, cửa sông Cái lặng lờ mặt nước hay chập chờn con sóng khi trieu dâng, hòa cùng cảnh thuyền tấp nập về trên cửa sông. Ngồi trên cát trång, ngåm vịnh Nha Trang, ước ao gặp cá tắm nắng, nhìn bướm biển giỡn sóng. Lòng đang lâng lâng bỗng nghe vẳng đến tiếng chuông chùa ngân nga buổi rạng đông. Tiếng chuông ngân thánh thót trên vùng biển rộng lặng yên. Sóng chỉ rung rinh nhẹ như xao động, để tiếp nối nâng đưa tiếng chuông lan xa. Bầu trời trong xanh cao rộng như phảng phất mùi hương trầm từ núi Bà thoảng đến. Tự nhiên lòng thanh tịnh, hồn an nhiên. Hương và sắc của trời đất Khánh Hòa Nha Trang nồng thắm thân thương biết là dường nào! Khởi đầu tác phẩm là một cảnh cá tắm nắng vừa ngộ nghĩnh vừa ký thú. Kết thúc là cảnh chim hót trên một hòn đảo mà thuở trước chỉ toàn đá và nắng còn bây giờ tràn ngập bóng cây xanh, thanh thản một ngôi chùa yên tĩnh đầy tiếng chim ca. Chúng tôi đã từng được chung hưởng những giây phút đăc biệt kỳ thú trước cảnh tượng thiên nhiên trong tập bút ký này. Nha Trang ngày rằm tháng tư năm Nhâm Thìn. (2012) TRẦN THỊ PHONG HƯƠNG *** QUÁCH GIAO Bút hiệu: QUÁCH TÙNG PHONG Sinh năm 1934 Con nhà thơ Quách Tấn Theo học tại các trường Đại hoc Y Dược, Luật khoa và Văn khoa tại Sài Gòn. Năm 1955 khi còn là học sinh trường trung học tư thục Kim Yến ở Nha Trang, Quách Giao đã tham gia đăng thơ trên tờ Gió Mới với biệt hiệu là Vương Kiều Thu. Các bài thơ đăng trên báo Gió Mới số 2, 4, 6 là Hai Em Bé Mồ Côi (Tình Chị) Ông Lão Quét Lá Khuya, Hai Chiều Xa Cách. Tại Huế, Q. Giao có thơ đăng trên Tạp Chí Lành Mạnh. Ở Sài Gòn cộng tác với báo Bách Khoa, Văn Học đến năm 1975. Năm 1988 Quách Giao cùng với phụ thân là nhà thơ Quách Tấn viết và xuất bản tập lịch sử Nhà Tây Sơn. Các sách viết chung với thân phụ ông còn có: Võ Nhân Bình Định (nxb Trẻ năm 2001) và một số lớn các tác phẩm khác. Hiện cư ngụ tại Nha Trang, Việt Nam Mời các bạn đón đọc Cá Tắm Nắng của tác giả Quách Giao.