Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Qua 81 Nạn Mới Cưới Được Vợ

Mười năm trước thiếu nữ Miêu Cương Hoa Thanh Nguyệt mới 12 tuổi đã thổ lộ tình cảm với Diệp Nhượng lúc ấy 16 nhưng kết quả bị cự tuyệt. Dưới cơn giận dữ cô đã viết trong nhật ký của mình: “Được lắm Diệp Nhượng, nhớ kỹ hôm nay anh cự tuyệt tôi nhá! Bằng không tôi trù anh lên núi đao xuống biển lửa, biến thành rùa đen, thành chó con, thành con lợn đầu to!” Mười năm sau Diệp Nhượng công thành danh toại vào nhầm một tiệm cà phê thần bí và vừa gặp đã trúng tiếng sét ái tình với chủ tiệm Hoa Thanh Nguyệt. Ở chung lâu ngày Diệp Nhượng quyết định cầu hôn Hoa Thanh Nguyệt. Mẹ ơi, thôi xong Diệp Nhượng biến thành rùa đen! Diệp Nhượng lại biến thành chó! Diệp Nhượng nói dối Hoa Thanh Nguyệt thế là bị lửa đốt! Diệp Nhượng không nhận ra nữ đồng nghiệp có ý với mình thế là bị vác lên núi đao! *** Miêu Cương là một nơi thần kỳ. Thời tiết oi bức, vĩnh viễn khiến áo sơ mi người ta ướt đẫm mồ hôi. Diệp Nhượng vươn hai ngón tay ghét bỏ mà cầm ống tay áo rồi cúi đầu ngửi ngửi —— quả nhiên áo sơ mi của anh đã dính cái mùi độc đáo phiêu đãng trong không khí của Miêu Cương. Đây là cái mùi khó mà hình dung, nếu nhất định phải nói thì chính là vị ngọt ngấy quyện với mùi hơi nước không lưu thông được. Vị lãnh đạo đầu trọc bụng to đi phía trước móc khăn tay ra lau mồ hôi trên trán và chỉ vào một tòa nhà màu trắng ba tầng cách đó không xa nói: “Đồng chí Diệp, đây là viện nghiên cứu của chúng tôi. Hưởng ứng lời kêu gọi của đất nước nên chúng tôi mới dời địa điểm từ thủ đô tới đây. Tuy Miêu Cương hẻo lánh nhưng nội thành vẫn tạm được…… Hơn nữa nếu ở chỗ này làm việc thì phí tổn nghiên cứu phát minh sẽ thấp hơn đồng thời kinh phí nghiên cứu sẽ cao hơn. Có điều vẫn khó mà giữ được nhân tài……” Diệp Nhượng ừ một tiếng và nhàn nhạt gật đầu. Tảo Địa Phật thấy thế thì biết anh không để lời mình vào lòng thế là thở dài: “Khí hậu, văn hóa, ẩm thực nơi này…… khác biệt quá lớn nên rất nhiều thanh niên có tài đến đây xem một cái là đi luôn, aizzzz…… Cũng không có cách nào, tuy biết đoàn đội chúng ta làm công việc có tiền đồ nhất nhưng người trẻ tuổi cũng muốn suy nghĩ tới hiện thực, những việc như kết hôn, sinh con, giáo dục hay chữa bệnh gì đó…… Tôi cũng hiểu lựa chọn của bọn họ.” Vị lãnh đạo này diện mạo nhìn thì đơn giản, giống một anh nông dân làm kinh doanh nhưng trên thực tế lại là hạng trâu bò trong giới nghiên cứu phát minh công nghệ chủ chốt. Nhưng ông ấy làm người khá tùy tiện, không để ý tới bề ngoài. Lúc còn trẻ ông ấy cũng thon thả lắm, thậm chí còn mang theo tiên phong đạo cốt nên mới được vô số nhân viên trong viện nghiên cứu xưng là: Tảo Địa Tăng (Sư quét rác – lấy theo tên một vị sư võ công cao thâm bậc nhất trong tiểu thuyết Kim Dung, là người tài nhưng thân phận bí ẩn, ít lộ diện). Nhưng hiện tại ông ấy đúng là béo, cũng vì tâm tình lúc nào cũng như Phật nên danh xưng từ Tảo Địa Tăng đã thăng lên thành Tảo Địa Phật. Tảo Địa Phật: “Đồng chí Diệp đã ăn cơm khi ở trên máy bay rồi à?” Diệp Nhượng: “Tôi đã ăn rồi.” Vốn Diệp Nhượng đang tính tới trung tâm nghiên cứu xem xét một vòng là đi ngay nhưng Tảo Địa Phật lại nói những lời vừa rồi chẳng khác gì vẽ cái vòng ở chân anh khiến một người da mặt mỏng như anh cũng ngượng ngùng không thể quay bước đi ngay. Tảo Địa Phật: “Như vậy đi, chúng ta tìm một quán cà phê ngồi xuống tâm sự trước xem nghiên cứu đang tiến triển tới đâu cũng như đãi ngộ dành cho cậu thế nào……” Tảo Địa Phật vòng qua góc đường và kéo cửa một quán cà phê nói: “Xin mời.” Tiệm cà phê gọi là Thâm Hạng, được trang hoàng rất có cá tính, vừa cổ xưa lại kỳ lạ, vừa nguyên thủy lại mang theo chút quỷ dị thần bí. Vừa vào cửa đã thấy một hành lang trưng bày thật dài và u ám hiện ra trước mắt. Tảo Địa Phật giới thiệu rằng cửa tiệm này có một nửa là khu triển lãm và một nửa là tiệm cà phê. “Rất có hơi thở nghệ thuật.” Tảo Địa Phật nói, “Tranh treo hai bên hành lang đều là tác phẩm của chủ cửa hàng. Cô ấy còn trẻ nhưng đã nổi danh, đúng là có thiên phú…… Chính là cái loại trời cao tự tay bồi dưỡng ấy.” Tranh treo hai bên hành lang cực kỳ đối lập, một bên là màu sắc mãnh liệt như lửa đỏ, còn một bên lạnh nhạt, dịu dàng như ánh trăng. Hàng mày vẫn nhíu chặt của Diệp Nhượng rốt cuộc cũng giãn ra. Đôi mắt đen nhánh của anh nhìn chằm chằm mấy bức tranh hai bên, bước chân cũng chậm lại. Trong lúc bất giác anh đã đi tới cuối hành lang nơi có hoa cỏ rũ xuống làm thành một tấm mành thiên nhiên. Diệp Nhượng như đang ở trong mộng mới vừa tỉnh, anh ngẩng đầu xuyên qua khe mành thì thấy bên trong im ắng, không có một vị khách nào. Ngọn đèn tỏa ánh sáng ấm áp tụ lại trên quầy gỗ. Trên quầy bày một cây đàn cello, ở giữa là ghế cao, có một cô gái đang ngồi trên đó. Cô mặc một cái váy dài màu trắng, mái tóc dài đen nhánh kéo sau người, bản thân cô thì ngồi đưa lưng về phía này. Cô đang vẽ tranh, trên vải là những hình thù màu sắc tươi đẹp. Tảo Địa Phật kêu khổ: “Thôi xong, tôi quên mất hôm nay là thứ bảy, tiệm không buôn bán. Đồng chí Diệp, hay chúng ta đổi chỗ khác đi……” Diệp Nhượng lại như không nghe thấy mà đi thẳng qua, đẩy mành ra. Ánh sáng trên toàn bộ thế giới đều như tụ trên người cô. Diệp Nhượng không khống chế được hai chân mình, cứ thế mê muội đi qua, đôi mắt nóng cháy như lửa nhìn chằm chằm người đang vẽ phía trước cũng những ngón tay dính màu vẽ của cô. Mấy cái vòng bạc và chuỗi hạt treo trên cổ tay trắng nõn của cô lao xao va chạm khi cô vẽ. Diệp Nhượng như si như say nhìn bóng dáng xinh đẹp của cô. Cô không dùng cọ vẽ. Dù không nhìn thấy mặt người trước mặt nhưng Diệp Nhượng biết ánh mắt cô khi nhìn vào mảnh vải chồng chất màu sắc sáng ngời kia hẳn là si mê và chăm chú. Anh hơi nghiêng đầu lẳng lặng nhìn cô vẽ tranh. Màu sắc đẹp đẽ chồng lên nhau giống như đang vẽ cảnh trong mơ. Dần dần những màu đậm nhạt cùng đường nét mơ hồ đó cũng hiện ra hình thái rõ ràng, từ mộng bay ra thành hình. Đó là một con phượng hoàng từ dung nham của thượng cổ bay ra. Diệp Nhượng như có thể nghe thấy có ai đó đang nhẹ giọng hát ca ngâm tụng bên tai mình, là một bài ca dao viễn cổ anh không biết. Tảo Địa Phật đành phải nhỏ giọng giới thiệu với anh: “Đây là bà chủ tiệm, Hoa Thanh Nguyệt, là nghệ thuật gia nổi danh của Miêu Cương. Người địa phương đều gọi cô ấy là nghệ thuật gia vu cổ, nói tranh cô ấy vẽ hạ cổ người khác bằng màu sắc khiến người ta không thể không đắm chìm. Chủ đề tranh của cô ấy đa phần là về sống chết và việc hiến tế thần thượng cổ. Trước kia cậu du học nước ngoài có từng dạo bảo tàng không? Cô ấy vẽ một bộ tranh gọi là Thiên cổ họa, trong đó vẽ thần điểu Chu Tước của Miêu Cương và được bảo tàng nước ngoài mua lại. Nhiều quốc gia đều có trưng bày bức tranh ấy, rất nổi tiếng!” Diệp Nhượng chẳng nghe được một câu nào vào tai. Hiện tại anh và Tảo Địa Phật không ở cùng một không gian. Chủ tiệm chậm rãi thu tay lại, tranh đã vẽ xong. Giống như cảm nhận được ánh mắt nóng cháy phía sau lưng thế là cô gái trẻ quay đầu lại nhìn Diệp Nhượng. Trong nháy mắt ấy Diệp Nhượng đúng là ngu luôn. Thông qua hội họa và màu sắc hạ cổ cho người ta ư? Là thiếu nữ này sao? Không…… Dù tranh cô vẽ quả thực đẹp tới độ người ta phải chìm đắm trong đó nhưng thứ thực sự hạ cổ anh lại là một cái ngoái đầu kinh diễm này. Trên thế giới này nhất định có tồn tại những thứ huyền học mà khoa học không thể giải thích được. Ví dụ như vừa gặp đã yêu. Một phút trước Diệp Nhượng còn đang nghĩ phải làm sao để cự tuyệt lời mời gia nhập viện nghiên cứu ở Miêu Cương của Tảo Địa Phật. Ấy vậy mà một phút sau anh đã lập tức xé vé máy bay quay về, chỉ vì một cái ngoái đầu của cô chủ tiệm cà phê. Anh thề sẽ cắm rễ ở Miêu Cương này để hưởng ứng lời kêu gọi chấn hưng khoa học kỹ thuật của quốc gia. “Xin chào, tên tôi là Diệp Nhượng.” Vừa hoàn hồn Diệp Nhượng đã cài xong cúc ở tay áo sơ mi và duỗi tay ra nói, “Tranh cô vẽ rất đẹp, cô lại càng đẹp hơn.” “Diệp Nhượng?” Chủ tiệm hơi trợn mắt, ngón tay nhuộm màu của cô hơi run run, đầu ngẩng lên đánh giá anh. Người đàn ông trẻ tuổi khéo léo đứng trước mặt cô mặc một cái áo sơ mi không một nếp nhăn, toàn thân tỏa ra hơi thở tinh anh. Tóc anh màu đen, đôi mắt màu đen mang theo chút u buồn nhưng ánh mắt lại hơi nhíu, trước sau vững vàng bình tĩnh lộ rõ tự tin…… Nhìn kỹ vẫn có thể nhìn ra bộ dạng thiếu niên lúc trước, quả nhiên là Diệp Nhượng. Diệp Nhượng. Thật lâu sau cô mới như tỉnh mộng và nhẹ nắm tay anh nói: “Xin chào, tôi là Hoa Thanh Nguyệt.” Diệp Nhượng lại cong môi sâu hơn, ý cười nhuộm cả đuôi lông mày khi anh nhìn cô gái Miêu Cương trước mặt. Nói là xinh đẹp thì cũng không quá chuẩn xác. Đẹp hay xinh đẹp là những từ quá mức đơn điệu, không thể nào khái quát được sự rực rỡ của cô. Nếu dùng mỹ lệ thì quá tục, dùng yêu dị thì quá không tôn trọng…… Mỹ nhân Miêu Cương! Như đóa hoa trắng độc nhất vô nhị nở rộ trong sơn cốc, dưới ánh trăng. Đóa hoa này vừa có thể cứu người vừa có thể hạ cổ. “Hoa Thanh Nguyệt.” Diệp Nhượng lặp lại tên cô. Hoa Thanh Nguyệt nghe thấy thế thì đôi mắt hơi sáng lên giống như đang chờ đợi cái gì đó. Diệp Nhượng nói: “Là cái tên hay.” Ánh mắt Hoa Thanh Nguyệt cứng lại, tay buông xuống, miệng mím chặt. Diệp Nhượng cũng không nhận thấy sự thay đổi trên khuôn mặt cô còn Hoa Thanh Nguyệt thì lễ phép cười và chào hỏi Tảo Địa Phật: “Chú Phó.” “Thật là xin lỗi, viện nghiên cứu mới vừa thành lập nên chú vội đến quên cả thời gian, thứ bảy còn tới quấy rầy……” Tảo Địa Phật vội xin lỗi. Hoa Thanh Nguyệt cười nói: “Không sao.” Tên tuổi cô ở nơi này không nhỏ, người địa phương đều nhận ra cô, cũng biết cô mở quán cà phê này chỉ để nghe những câu chuyện xưa lấy linh cảm. (Truyện này của trang runghophach.com) Thứ bảy là ngày cô sáng tác và luyện tập nên không làm buôn bán. Vì thế cho dù có người quên mà tới vào ngày thứ bảy thì khi nhìn thấy cô sáng tác bọn họ sẽ lặng lẽ lùi ra ngoài. Biết rõ quấy rầy cô nên Tảo Địa Phật vội vàng giới thiệu Diệp Nhượng: “Thanh Nguyệt, vị tiên sinh này là nhân tài mà lãnh đạo ở thủ đô đặc biệt mời từ nước ngoài về. Nếu có duyên thì về sau cậu ấy chính là người đứng đầu nhóm nghiên cứu của bọn chú đó.” “Khó có nhân tài chịu tới nơi này.” Hoa Thanh Nguyệt gật đầu. Tảo Địa Phật: “Vậy được rồi, chúng tôi không dám quấy rầy nữa.” Diệp Nhượng nhướng mày, thiếu chút nữa đã than thở ra tiếng. Sao đi sớm thế? May mà Hoa Thanh Nguyệt đã nói: “Không sao, cháu cũng vẽ xong rồi, mọi người ngồi đi, cháu sẽ đi nấu cà phê.” Tảo Địa Phật cười vui hơn hớn: “Ai u, chú thấy mát mặt quá! Cảm ơn Tiểu Nguyệt!” “Không sao, mời chào nhân tài mới quan trọng.” Hoa Thanh Nguyệt hé miệng cười, đôi mắt sáng ngời híp thành trăng non. Tảo Địa Phật vui vẻ ngồi xuống và bắt đầu nói chuyện phiếm với Diệp Nhượng. Diệp Nhượng không cảm thấy hứng thú với lời ông ấy nói vì thế không được vài câu anh đã đổi đề tài tới Hoa Thanh Nguyệt. Anh hỏi: “Lúc tới đây tôi nghe nói Miêu Cương bên này có không ít khu vực vẫn giữ lại truyền thống của Vu tộc từ quá khứ. Bọn họ giỏi vẽ bùa, niệm chú, hiến tế gì đó. Tôi thấy tranh cô vẽ phần lớn thể hiện văn hóa liên quan tới vu hịch, chẳng biết là vì thích hay muốn mượn cái này tuyên truyền cho văn hóa bản địa?” Hoa Thanh Nguyệt không trả lời mà dựa bên quầy mỉm cười nhìn Diệp Nhượng hỏi: “Đây là lần đầu tiên Diệp tiên sinh tới chỗ này sao?” “Miêu Cương ấy hả?” Diệp Nhượng nói, “Đây là lần thứ hai, cha mẹ tôi là người làm khảo cổ vì thế khi còn nhỏ tôi từng theo họ tới đây một lần.” Hoa Thanh Nguyệt rũ mắt nhẹ nhàng xoa ngón tay dính màu và hỏi: “Vậy ấn tượng của anh với Miêu Cương thế nào?” “Lần đó thì tôi chỉ nhớ rõ nơi này rất nóng.” Diệp Nhượng nói, “So với truyền thuyết thì Miêu Cương tôi nhìn thấy khi đó chỉ là một nơi bình thường, vừa ướt vừa nóng, cũng không có lực hấp dẫn thần bí nào cả.” Hoa Thanh Nguyệt tiếp tục hỏi: “Lần đầu tiên đến Miêu Cương anh không có ký ức khắc sâu nào à?” Diệp Nhượng hồn nhiên chẳng nhận ra chỗ kỳ quái trong câu hỏi của cô. Anh chỉ ngẩng đầu nhìn cô, mặt mày đầy ý cười đáp: “Không có. Chắc là vì lần đầu tới Miêu Cương tôi không gặp được người nào xinh đẹp đáng yêu như cô đây. Thật ra tôi không có ấn tượng quá nhiều với lần đầu tiên tới nơi này.” Tươi cười của Hoa Thanh Nguyệt biến thành cô đơn. —- Diệp Nhượng ở lại, ký hợp đồng ba năm. Khi gọi điện thoại cho cha mẹ mình anh nói tới đãi ngộ, quả thực rất tốt. Anh nói điều kiện nghiên cứu khoa học bên này tuy mới chỉ ở bước đầu nhưng mọi người đều nghiêm túc làm việc, phương diện kinh phí cũng không có khó khăn. “Cho nên con đã quyết định ở lại.” Anh nói. “Nhất định là con có lý do khác, nơi đó dù có đãi ngộ cỡ kia cũng không đủ để con ở lại.” Cha mẹ nói thẳng, “Phong thổ nơi ấy hẳn không phải lý do giữ con lại…… vậy là người sao?” Diệp Nhượng nghĩ tới Hoa Thanh Nguyệt thì cười gật đầu: “Vâng, là vì người, con vẫn đang theo đuổi.” Diệp Nhượng là người theo phái hành động, vừa định ra mục tiêu anh đã lên kế hoạch sau đó bắt đầu hành động. Huống chi anh còn dùng nhiệt tình tích cóp hơn hai mươi năm để theo đuổi Hoa Thanh Nguyệt thế nên sự tình tiến triển rất thuận lợi. Ít nhất Diệp Nhượng cho rằng ánh mắt Hoa Thanh Nguyệt nhìn về phía anh quả thực có yêu thích. Cứ như thế sau nửa năm Diệp Nhượng lập tức nghĩ tới việc cầu hôn. Hôm nay anh tính toán chính thức tỏ tình, là loại hướng tới kết hôn ấy. Hoa đã đặt, đã xin nghỉ, nhẫn đính hôn anh cũng đã chuẩn bị xong, địa điểm tỏ tình đã ổn, vạn sự đã hoàn hảo chỉ chờ Hoa Thanh Nguyệt gật đầu. Buổi sáng nhẫn tới. Diệp Nhượng mở hộp kiểm tra và lẩm bẩm: “Chỉ còn thiếu mỗi hoa.” Lúc này trong lòng anh bỗng nhiên có một tiếng nói vang lên: “Ngươi thật lòng hả? Muốn một đời một kiếp ấy hả?” Diệp Nhượng theo bản năng nghĩ: “Đương nhiên, nếu không thật lòng thì tôi vội vã bận rộn cái gì chứ? Nếu không cầu một đời một kiếp thì vì sao tôi phải mang thật lòng ra theo đuổi cô ấy?” Nhất kiến chung tình, nhất vãng tình thâm, tất cả những thứ ấy thực sự xảy ra trên người anh. Anh tin tưởng khoa học, cũng tin tình yêu. Lạch cạch —— Hộp nhẫn rơi trên mặt đất. Chuông cửa vang lên. “Diệp tiên sinh có nhà không? Hoa anh đặt tới rồi.” Ngoài cửa lưới có anh chàng đưa hoa vói vào phòng thét to. Tầm mắt Diệp Nhượng mơ hồ vì thế anh lắc lắc đầu đi về phía cửa. …… Từ từ? Diệp Nhượng sửng sốt ngừng ở cửa rồi ngẩng đầu. Then cửa cao quá —— là anh hoa mắt à? “Hả? Không ở nhà sao?” Anh chàng đưa hoa vặn mở tay nắm cửa và tò mò tiến vào. Miêu Cương chính là có cái điểm này không tốt, người địa phương thuần phác ngay thẳng, không hề có cảm giác giới hạn là gì. Vốn Diệp Nhượng đang muốn ngăn cản anh chàng đi vào nhưng thấy anh chàng đưa hoa đột nhiên trở nên khổng lồ thế là anh cũng choáng váng hết cả đầu. Anh chàng đưa hoa cúi đầu, ánh mắt đối diện với ánh mắt của Diệp Nhượng, ngay sau đó anh ta lộ vẻ kinh ngạc và hớn hở ngồi xuống nói: “A! Chó con!! Đáng yêu thế!” Diệp Nhượng nhìn thấy bàn tay cực đại của anh chàng đưa hoa chậm rãi vươn tới chỗ mình sau đó trời đất quay cuồng. Đôi tay kia cứ thế bế anh lên, còn mạnh mẽ xoa đầu anh nữa chứ. “Ai u, là con chó con Diệp tiên sinh nuôi à?” Anh chàng đưa hoa khen lấy khen để, “Lần trước tới không thấy mày, lông màu xám nữa chứ, đẹp thế…… Mày còn hơi bị giống Diệp tiên sinh đấy nhé!” Diệp Nhượng: “……” Khoan đã! Cái! Mẹ! Gì! Thế! Này?!! Mời các bạn mượn đọc sách Qua 81 Nạn Mới Cưới Được Vợ của tác giả Phượng Cửu An.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương - Haruki Murakami
Aka trong Akamatsu nghĩa là Đỏ O trong Oumi nghĩa là Xanh lơ Shira trong Shirane nghĩa là Trắng Kuro trong Kurono nghĩa là Đen Và Tazaki Tsukuru Không màu Họ -  năm người bạn đã từng chơi rất thân với nhau. Họ - một ngày nọ, đã loại trừ một sắc thái màu mang tên Tazaki. Vì Không màu quá mơ hồ, nhợt nhạt hay quá khác biệt? Không có lời giải đáp nào cho câu hỏi trên. Đây là tác phẩm mới nhất của Murakami sau bộ tiểu thuyết “dài hơi” 1Q84. Cuốn sách được khởi nguyên từ một truyện ngắn như lời Mura tâm sự: "Ban đầu tôi định viết một truyện ngắn nhưng tôi càng viết, nó tự nhiên càng dài ra. Chuyện này không thường xảy ra với tôi lắm, có lẽ là lần đầu tiên kể từ khi viết Rừng Na Uy.” Tazaki cũng gặp phải cú sốc tinh thần đầu đời (một kiểu san chấn tâm lý) như nhiều nhân vật chính khác trong các tác phẩm trước đó của Murakami. Một vết thương lòng đớn đau ở tuổi hai mươi. Tazaki bị đẩy ra ngoài nhóm bạn với lời nhắn gửi cuối cùng “đừng gọi nữa”. Cô đơn trong kí ức, hoài niệm. Cô đơn nơi thực tại mơ hồ. Cô đơn trong nỗi đau, hoài nghi. Anh mặc định mình là một kẻ trống rỗng, không bạn bè. Ngay ngày hôm đấy, anh chết. Tuổi trẻ, tình yêu, khát vọng - tất cả chỉ còn là một màu trong suốt vô hình. Và mười sáu năm sau, ý niệm về cái chết như phương thức giải thoát duy nhất vẫn còn đeo đuổi trong tâm trí anh. Nếu như không có sự xuất hiện của cô gái Sara, có thể Tazaki đã mang theo những tuyệt vọng, ám ảnh triền miên vào giấc ngủ không bao giờ thức tỉnh. Anh quyết định quay về những năm tháng lãng quên để tìm ra sự thật và giải mã những phần đứt đoạn của giấc mơ. Xuyên suốt tác phẩm, chuyến hành hương ngập tràn trong âm nhạc - thanh âm êm dịu của đoạn khúc Le mal du pays (Hoài hương) mà cô gái tên Trắng thường chơi. Cái chết bí ẩn của Trắng. Những đớn đau giày vò của Xanh, Đen và Đỏ. Sự thật đã giải thoát Không Màu khỏi hồi ức vỡ vụn! Trong thời đại của công nghê, Google và Facebook, con người đã dần quen với việc kết nối với nhau bằng mạng lưới thông tin đa chiều. Và chúng ta dường như ngủ mơ trong thế giới ảo mà quên rằng: lòng người - nơi tận cùng thế giới mới là nơi khó nắm bắt nhất. Nó hiện hữu đấy nhưng cũng rất đỗi mong manh vô hình. Và Murakami đã khẳng định một cách chua xót rằng, “Nếu muốn, bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể dễ dàng lấy được những thông tin như thế. Dẫu vậy, chúng ta thật sự gần như chẳng biết gì về mọi người”. Suốt mười sáu năm, Tasuki trốn chạy nỗi đau bằng cách tự gây tổn thương bản thân. Nhưng điều đó không giúp anh thoát khỏi ám ảnh. Đối diện với nỗi đau và những vết cứa sắc lẹm của nó mới chính là cách giúp con người tồn tại và xích lại gần nhau. “Lòng người và lòng người không bao giờ gắn kết với nhau chỉ bởi sự hài hòa. Mà trái lại, gắn kết với nhau sâu sắc bởi tổn thương và tổn thương. Nối liền với nhau bởi niềm đau và niềm đau, bởi mong manh và mong manh. Không có sự tĩnh lặng nào mà không chứa đựng những tiếng kêu bi thống, không có sự dung thứ nào mà không đổ máu trên mặt đất, không có sự chấp nhận nào mà không phải vượt qua những mất mát đau thương. Đó là thứ nằm trong căn đế của sự hài hòa đích thực". Đọc cuốn sách, có thể bạn sẽ nhớ lại những câu trong Kafka bên bờ biển. Chuyến hành hương của Tazaki vô tình gợi nhắc đến cuộc hành trình của Kafka để thoát khỏi lời nguyền định mệnh: Anh ngồi bên rìa thế giới Em trên miệng núi lửa đã tắt Đứng khuất trong bóng cánh cửa Là những lời không còn chữ Phía bên kia những lời không còn chữ. Đó mới là thực tại vẹn nguyên, là lòng người sâu thẳm. Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương không quá siêu thực, mơ hồ và huyền bí như những kiệt tác trước đó của Murakami. Thế nhưng, nó vẫn có sức hút mãnh liệt đối với độc giả. Với 13000 bản trong lần đầu ra mắt, tiểu thuyết này đã phá vỡ kỉ lục lượng xuất bản đầu tiên của bất kì cuốn sách nào tính đến thời điểm hiện tại. Xin phép được tạm dừng mọi luận bàn tại đây. Tất cả vẫn là một bí mật. Tất cả không thể là khởi đầu. Cho đến khi bạn gặp Tazaki. Và hành hương cùng anh ấy… *** Nhận định “Sự kết hợp đầy cảm hứng giữa Murakami ‘cũ’ và Murakami ‘mới’.”- Amazon “Câu chuyện của Tsukuru sẽ còn âm vọng cùng bất kỳ ai cảm thấy mình đang trôi dạt giữa kỷ nguyên Google và Facebook này.” - San Francisco Chronicle "Đây là một cuốn sách rất thực tế, như Rừng Na Uy vậy. Nó, với tôi, có vẻ nặng nề, thậm chí là u buồn hơn so với những tác phẩm khác, nhưng quan trọng nhất, là nó có triển vọng" - Philip Gabriel, dịch giả tiếng Anh của cuốn sách *** Haruki Murakami là tác giả Nhật Bản nổi tiếng vào bậc nhất cả trong lẫn ngoài nước Nhật. Tác phẩm của ông đã được dịch ra khoảng 30 thứ tiếng trên thế giới. Ở những nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc các lãnh thổ Đài Loan Hồng kông hầu như toàn bộ tác phẩm Haruki đã được dịch, xuất bản; các tác phẩm mới vừa ra mắt độc giả Nhật Bản thì vài tháng sau đã có ngay bản dịch tiếng Trung Quốc, Hàn quốc. Ở Nga và Mỹ cũng có nhiều độc giả nhiệt liệt hâm mộ tác phẩm Haruki, qua các bản dịch nghiêm túc và thành công. Những nhà phê bình và độc giả ái mộ còn nói đến chuyện Haruki sẽ có thể đoạt giải Nobel văn học, hay có hình in trên giấy bạc Nhật Bản. Murakami Haruki là tác giả Nhật Bản có khuynh hướng phản kháng đối với truyền thống. Tác phẩm Haruki đặc sắc cả trong thể loại truyện dài lẫn truyện ngắn. Chính ông cho biết không đặc biệt chú trọng hay ưa chuộng thể loại nào hơn. Nhiều truyện ngắn của ông đã trở thành hạt giống được. khai phát thành truyện dài thành công. và nhiều truyện dài của ông đã chia nhánh phát triển thành những truyện ngắn đặc sắc. Mời các bạn đón đọc Tazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành Hương của tác giả Haruki Murakami.
Ôi Đàn Ông! - Bì Bì
Ôi Đàn ông là tiểu thuyết mang đầy tính tự sự và cũng không kém phần hài hước của tác giả Bì Bì. Nhân vật chính của chuyện là Hồ Đông. Anh có một tính cách không nổi bất và có phần nhàm chàn. Từ một phó chủ tịch phụ trách văn hóa, văn nghệ anh được nhận chức Viện trưởng một Viện nghiên cứu văn hóa. Từ khi nhận chức vụ mới, những công việc và hệ lụy từ công việc và gia đình bắt đầu đổ dồn vào anh, đưa anh đến cảm giác bức bí, khó chịu và bất an nhưng anh vẫn phải cố gắng hằng ngày để thể hiện được vai trò và sếp ở cơ quan văn hóa mà thiếu văn hóa và làm chồng trong một gia đình từ lâu đã chẳng còn êm đềm… *** Tôi, bốn mươi hai tuổi. Nghe nói đàn ông tuổi này rất nhiều. Hy vọng tôi không giống họ. Đó không phải là sự theo đuổi gì về cá tính. Sự thật e rằng thế này: tôi không biết lái xe, cũng không đi nổi xe buýt, nuôi hai mươi lăm con cá nhiệt đới vui tính nên dần dần bị nhiễm đặc điểm của cá. Bởi vậy mọi người đánh giá về tôi thường là “không hiểu nổi”, “không rõ lắm”… Xét về hình thức, tôi là một người hòa nhã. Đàn ông như vậy, ai có thể gặp được nhiều cơ chứ? Nhất là cần phải nhấn mạnh rằng, tôi còn có một chức quan nho nhỏ, cũng nắm một chút quyền lực. Một hôm, vợ tôi phát hiện ra rằng, những người đàn ông có chút quyền lực như tôi, đã không còn hòa nhã, đã không còn khoan dung. Trước tiên, hãy để tôi giới thiệu về mình và những thứ xung quanh tôi. Như vậy đối với bạn sẽ tốt hơn. Trước khi bước vào câu chuyện, bạn có thể hiểu được đại khái về mọi thứ xung quanh. Cũng như khi tìm hiểu về một thành phố, trước tiên phải tìm hiểu về vùng ngoại ô của nó. Như vậy đối với tôi cũng tốt. Thậm chí trước mặt bạn, nom tôi vẫn đáng tin, như người muốn nói điều thật lòng, không có ý định dùng câu chuyện của người khác để gạt bạn. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết này vẫn tồn tại một khả năng là, dù sao đi nữa, bạn vẫn cảm thấy bị gạt. Vậy bạn hãy coi những lời tâm huyết của tôi như mớ rác rưởi, giống như vợ tôi đã làm. ... Mời các bạn đón đọc Ôi Đàn Ông! của tác giả Bì Bì.
Hang Động
Lấy cảm hứng từ huyền thoại hang động trong đối thoại triết học của triết gia thời cổ đại Platon, José Saramago đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Hang động, để phê phán xã hội tiêu thụ nói riêng và chủ nghĩa tự do mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại, thông qua hình ảnh hủng khiếp của Trung tâm thương mại khổng lồ đang từng ngày từng giờ bành trướng về đất đai, về quyền uy, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần, “một thành phố trong một thành phố, nhưng lại to hơn chính cái thành phố kia”. Cuốn tiểu thuyết phản ánh bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp - thủ công nghiệp sang xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ nhanh chóng trên đất nước Bồ Đào Nha, qua đó chỉ rõ mỗi con người trong quá trình này đang bị đặt vào thế tiến thoái lưỡng nan: khi mà lối sống thực dụng, thói quen tiêu thụ, triết lý thị trường của xã hội tư bản ngày càng phát triển, sinh ra những mối quan hệ mới, những thế giới quan mới, buộc người ta phải quen với một trạng thái nô lệ kiểu mới, “ai không điều chỉnh được sẽ không dùng được”, và cũng như trong tác phẩm của Platon, một số người thoát ra khỏi hang động này, kịp thời nhận ra có thể có một cách sống khác. Câu chuyện xoay quanh số phận của một gia đình ba đời làm nghề gốm ở một vùng quê nghèo và đã bị Trung tâm đẩy vào bước đường cùng. Là nhân viên của Trung tâm, Marcal thì làm việc quần quật, đến nỗi vợ của anh, Maarta “chỉ được tận hưởng sự có mặt của chồng ở nhà và ở trên giường vẻn vẹn có sáu đêm và ba ngày mỗi tháng”. Trước bước phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật, công nghiệp, cha con ông Cipriano Algor là những người thợ gốm cuối cùng cũng đành bỏ nghề, một nghề xưa nay vẫn có thể sản xuất ra của cải nay chỉ còn là kỷ niệm, nhà xưởng biến thành nghĩa trang, sản phẩm thành di sản khảo cổ cho hàng ngàn năm sau. Họ chuyển vào sống ở Trung tâm, vốn là ước mơ của bao người, trong gần ba tuần, mà chẳng khác gì bị tù, để rồi người cha phải thốt lên: “tại sao mình lại có thể để bị giam kín trong suốt ba tuần mà không nhìn thấy mặt trời và những ngôi sao…”. Cuộc sống tự do đã thôi thúc họ từ bỏ tất cả, đi tìm một cuộc sống mới không chỉ cho họ mà cho cả con cái của họ nữa. Câu chuyện có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và cũng hết sức cảm động về tình cảm vợ chồng, cha con, về tình yêu giữa hai người goá bụa nảy nở trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực. Một cốt truyện giản dị, sâu sắc được kể liền mạch như trong một cuộc độc thoại nội tâm dài. Phong cách viết tiểu thuyết của José Saramago hết sức độc đào. Ông thường viết những câu văn rất dài, dùng dấu chấm, dấu phẩy mới nhìn tưởng là sai ngữ pháp, nhưng xem kỹ lại thấy hợp lý, mọi đối thoại đều liền mạch nối dài như mãi không dứt. Xen vào mạch truyện, ông thường đưa ra những nhận xét về mọi bình diện của cuộc sống, tuy đôi khi có những ý kiến rất khó hiểu những độc giả luôn tiếp nhận một cách thích thú. *** José de Sousa Saramago (16/11/1922 - 18/6/2010) là nhà văn, nhà thơ Bồ Đào Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1998. José Saramago sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở một làng nhỏ cách thủ đô Lisboa 100 km. Bố là lính pháo binh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, quyết định bỏ công việc đồng áng lên sống ở Lisboa. Những năm tiểu học, cậu là một học sinh giỏi: hoàn thành lớp ba và lớp bốn chỉ trong một năm. Khi lớn lên, vì không có khả năng tài chính Saramago phải vào học một trường kĩ thuật để trở thành thợ cơ khí. Học xong hai năm, Saramago làm việc cho một tiệm sửa chữa xe hơi, vào buổi tối, ông thường tới một thư viện công cộng ở Lisboa để đọc sách tự học thêm. Năm 1944, José Saramago cưới vợ, chuyển sang làm việc ở cơ quan phúc lợi xã hội. Năm 1947, ông viết xong cuốn tiểu thuyết đầu tiên Viúva (Góa phụ) nhưng do yêu cầu nhà xuất bản đã đổi thành Terra do Pecado (Mảnh đất tội lỗi). Sau đó Saramago còn bắt tay viết thêm mấy tiểu thuyết, nhưng rồi ông hiểu ra rằng mình chưa có gì để nói với thế giới nên đã lặng lẽ biến khỏi văn đàn suốt 19 năm không ai để ý. Vì các lý do chính trị, năm 1949 Saramago bị thất nghiệp nhưng nhờ lòng hảo tâm của một thầy giáo cũ ở trường kĩ thuật, ông tìm được việc làm ở công ty hợp kim. Sau đó ông chuyển sang làm việc với nhà xuất bản Estudios Cor. Đến năm 1966, ông xuất bản Os Poemas Possíveis (Chùm thơ có thể) đánh dấu sự trở lại của ông với văn chương. Năm 1969 ông vào Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha. Năm 1970, ông xuất bản tập thơ Provavelmente Alegria (Có thể đây là niềm vui). Sau khi li dị năm 1970, ông có mối quan hệ với nhà văn Isabel Da Nóbrega. Năm 1971, ông rời nhà xuất bản, làm việc trong hai năm cho tờ báo buổi tối Diario de Lisboa. Năm 1975, Saramago xuất bản tập thơ O Ano de 1993 (Năm 1993) và tiểu thuyết Manual de Pintura e Caligrafia (Tài liệu về hội họa và thư pháp, 1978); tiếp đó ông liên tiếp cho ra đời các tập truyện và tiểu thuyết như Objecto Quase (Mục tiêu Quase, 1978), Đêm tối (1979), Que farei com este livro? (Tôi có thể làm gì với quyển sách này?, 1980)... Năm 1988, ông kết hôn với nhà báo Pilar Del Rio. Năm 1993, ông bắt đầu viết hồi ký gồm năm tập. Năm 1995, ông được trao giải Camoes. Năm 1998 ông được trao giải Nobel Văn học, cho đến nay là người Bồ Đào Nha duy nhất được nhận giải thưởng này. Năm 2000 Saramago hoàn thành tiểu thuyết A Caverna (Hang động), là cuốn cuối cùng trong bộ ba tiểu thuyết - 2 cuốn đã xuất bản là Ensaio sobre a Cegueira (Mù lòa, 1995) và Todos os nomes (Tất cả các tên gọi, 1997). Sáng tác của Saramago đa dạng và đầy mâu thuẫn. Tiểu thuyết Phúc âm theo Jesus Christ (1991) bị nhà thờ Cơ đốc giáo buộc tội "coi thường sự thật lịch sử và xuyên tạc các nhân vật chính trong Tân ước" nhưng lại được tái bản hơn hai chục lần trong nước và được dịch ra 25 thứ tiếng nước ngoài. Một trí thức tự học, gắn bó với văn chương từ trẻ nhưng phải đến sáu chục tuổi mới được thừa nhận, Saramago thường cay đắng nói: "Lên sao Hỏa còn dễ hơn là gọi được cửa trái tim của những kẻ cùng thời". Tuy vậy, giải Nobel có vẻ đã phủ nhận suy nghĩ bi quan này. Một số tác phẩm của được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Mọi Cái Tên Mù Lòa Hang Động ... *** Đồ đạc của bố ở đây, Marta nói, không nhiều lắm, chứa đủ trong chiếc vali nhỏ nhất, hình như bố đã linh cảm thấy mình chỉ ở đây có ba tuần thôi phải không, Đến một lúc nào đó trong cuộc đời người ta chỉ còn vác trên vai cái thân mình nữa thôi, Cipriano Algor nói, Câu nói hay đấy, Vâng, thưa bố, nhưng con chỉ muốn bố nói xem sẽ sống bằng gì nào, Nhìn ngắm những bông hoa loa kèn, chúng đẹp giản dị, chẳng thêu dệt rắc rối. Cũng là một câu nói đẹp, chính vì thế thứ hoa đó mãi mãi cũng chỉ là hoa loa kèn, Con là một kẻ hoài nghi điên cuồng, một kẻ vô sỉ khó chịu, Bố ơi, con xin bố, con đang nói chuyện một cách nghiêm túc, Bố xin lỗi con, Con hiểu chuyện vừa rồi là một cú sốc lớn đối với bố, cả đối với con nữa, dù con không xuống dưới đó, con hiểu rằng những người đàn ông và đàn bà kia không chỉ đơn giản là những người đã chết, còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều, Thôi con đừng nói nữa, bởi vì họ không chỉ đơn giản là những người đã chết mà còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều nên bố không muốn tiếp tục sinh sống ở đây nữa, Thế còn chúng con, còn con thì sao, Marta hỏi, Các con hãy tự quyết định lấy cuộc đời mình, bố đã quyết định đời của bố rồi, bố sẽ không sống nốt những ngày còn lại của mình trong cảnh bị trói chặt vào ghế đá và nhìn vào bức tường. Thế bố sẽ sống ra sao, Bố có tiền mà người ta thanh toán cho những hình người bằng gốm, đủ sống một hoặc hai tháng, sau đó ta sẽ tính tiếp, Con không nói đến chuyện tiền nong, bằng cách này hay cách khác thì bố cũng không thiếu tiền cho những nhu cầu về ăn, mặc, điều con muốn nói là bố sẽ phải sống một mình, Bố đã có con Achado, rồi hai con thỉnh thoảng lại về thăm bố nữa, Bố ơi, Gì cơ, Thế còn Isaura, Isaura thì có liên quan gì đến chuyện này, Bố đã nói với con là tình hình giữa hai người đã có thay đổi, nhưng lại chẳng giải thích rõ nó thay đổi như thế nào và tại sao bằng, Và đúng vậy đấy, Nếu như vậy, Như vậy thì sao nào, Hai người có thể sống chung với nhau, ý con muốn nói như vậy. Cipriano Algor không trả lời. Ông xách vali lên, Bố đi đây, ông nói. Cô con gái ôm chặt lấy bố, Chúng con sẽ về thăm bố trong ngày nghỉ đầu tiên của Marçal, trong tiếng từ giờ đến lúc đó bố phải luôn thông báo tin tức cho con nhé, khi về đến nơi, bố nhớ gọi điện ngay cho con nói xem căn nhà ra sao, và cả tình hình con Achado nữa, đừng quên con Achado đấy, bố nhé. Với một chân ở ngoài cửa, Cipriano Algor còn nói, Con hãy ôm hôn Marçal thay cho bố nhé, Thì bố đã ôm hôn anh ấy và đã chia tay anh ấy rồi mà, Ừ, nhưng bố cứ nhờ con thêm một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Hang Động của tác giả José Saramago.
Chuông Gọi Hồn Ai - Ernest Hemingway
Ernest Hemingway (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo người Mỹ. Ông từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, sau đó ông được biết đến qua "Thế hệ đã mất", nhận được giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và giải Nobel văn học năm 1954. Hemingway để lại ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc qua nguyên lý tảng băng trôi, văn phong của ông được mô tả bởi sự kiệm lời nhưng có nhiều tầng ý nghĩa, phải suy nghĩ thật sâu mới có thể hiểu hết được những gì tác giả gửi gắm. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay được coi là những tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ. Từ nhỏ Hemingway đã không thích học đàn mà thích đấu võ quyền Anh, bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn. Ngay từ khi còn học ở trường trung học, ông đã bắt đầu viết văn và tham gia vào các hoạt động báo chí của trường. Năm 1917, ông rời trường trung học và thay vì đi học đại học ông tời thành phố Kansas làm phóng viên cho tờ báo Star. Nhưng nghề phóng viên không hấp dẫn ông được lâu, do ưa thích mạo hiểm Hemingway đã tình nguyện đăng ký vào Hội đồng thập tự Hoa Kỳ và qua miền bắc nước Ý là tài xế xe cứu thương. Năm 1918, khi chưa tròn 19 tuổi ông bị thương nặng ở chân trong khi đag cõng một người lính Ý mang tới địa điểm chỉ huy. Ông được chữa trị tại bệnh viện Milan và được tưởng thưởng huy chương anh dũng. Những trải nghiệm trong cuộc chiến này đã cung cấp cho ông những hiểu biết để viết nên tác phẩm "Giã từ vũ khí" (1929), một tiểu thuyết nổi danh nhất đề cập tới chiến tranh. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông trở lại Hoa Kỳ sinh sống và tiếp tục viết văn. Nhưng ông cùng một số nhà văn khác tự nhận mình là "thế hệ lạc lõng" - từ để ám chỉ một thế hệ sau chiến tranh, đặc biệt là các nhà văn trẻ khi cuộc sống và niềm tin của họ đã bị tổn thương vì chiến cuộc, vì các tham lam vật chất đang dần dần trở nên một thực tại khiến cho cuộc sống hóa vô nghĩa. Trong thời gian làm phóng viên tại Paris, Ernest Hemingway đã đi khắp châu Âu, phỏng vấn các nhân vật danh tiếng như Lloyd George, Clemenceau và Mussolini… rồi vào năm 1925, cuốn tiểu thuyết quan trọng đầu tiên của Hemingway được xuất bản tại New York với tên là "Trong thời đại của chúng ta" (In Our Time). Cũng vào thời gian này, nhiều thú vui như trượt tuyết, coi đấu bò rừng, đi câu cá và đi săn… đã là từng phần của cuộc sống của ông và từ đó tạo nên nền móng của các cuốn tiểu thuyết sau này. Năm 1950, Hemingway xuất bản cuốn sách "Qua sông và vào trong rừng" nhưng không gây dấu ấn với độc giả. Năm 1952, cuốn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, giúp ông nhận được giải thưởng báo chí danh giá Pulitzer năm 1953. Năm 1954 ông được viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel văn học vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và Biển Cả". Thời gian này người ta vẫn thấy ông đầy sức sống nhưng thực tế ông không hạnh phúc. Hemingway đã phải dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, ông bị ám ảnh vì cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Tháng 7 năm 1961, ông thức dậy sớm và tự sát bằng một khẩu súng săn tại một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho. Ông ra đi mà không để lại lời trăn trối nào ngoài hình ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà ông đã sáng tạo ra. • Các Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Việt Nam Ông già và biển cả (2000) Chuông nguyện hồn ai (Chuông gọi hồn ai) (2001) Giã từ vũ khí (2001) Hạnh phúc ngắn ngủi của Mác Cômbơ (2003) Truyện ngắn - Ernest Hemingway (2004) Truyện cực ngắn của Ernest Hemingway (2004) Hội hè miên man (2004)  *** “Chuông gọi hồn ai" là một bản anh hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Tây Ban Nha chống lại bọn phát xít Franco bảo vệ chế độ cộng hòa, một cuộc chiến kéo dài từ năm 1936 tới năm 1939. Nhân vật chính là Robert Jordan, một chiến sĩ người Mỹ chiến đấu trong Lữ đoàn quốc tế, tham gia cuộc chiến tranh vĩ đại chống lại sự bành trướng toàn cầu của chủ nghĩa phát xít. Trong kế hoạch tấn công nhằm giải phóng một vùng lãnh thổ Tây Ban Nha của Sư đoàn số 14 do tướng Golz người Nga chỉ huy, Robert Jordan được lệnh phối hợp với một nhóm du kích đặt mìn phá hủy một cây cầu để chặn viện binh và đường rút chạy của quân địch. Anh lên đường đến Villaconejos để tổ chức kế hoạch tấn công cây cầu. Tại đây, khi gặp cô du kích Tây Ban Nha xinh đẹp tên là María, mối tình sâu nặng và đồng điệu trong một lý tưởng chung giữa anh và cô nảy nở. Tình yêu đó đã giúp cho hai người nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa của cuộc sống và công việc họ đang làm. Nhưng bỗng Robert Jordan nhận thấy bọn phát xít đã đánh hơi được kế hoạch của cuộc tấn công và đang ráo riết tập trung quân bố trí phản kích. Anh cử ngay Andrés mang báo cáo về Ban chỉ huy Sư đoàn đóng ở Navacerrada đề nghị thay đổi kế hoạch tác chiến và cho ngừng ngay việc phá hủy cầu. Thế nhưng thật không may, do nhiều trắc trở và tính quan liêu của nhiều sĩ quan, lẽ ra đoạn đường chỉ cần đi trong ba giờ, Andret phải mất cả một ngày. Khi bức thư của Robert Jordan đến tay Gôndơ thì đã quá muộn, những chiếc máy bay ném bom đầu tiên mở màn cho trận đánh đã quần đảo trên bầu trời. Robert Jordan đành cho nổ mìn phá cây cầu theo kế hoạch đã định và dẫn đội du kích rút lui. Dọc đường, bom đạn quân thù khiến anh bị gãy chân, vết thương quá nặng, anh quyết định từ giã đồng đội và người yêu, ở lại ngọn đồi bên cạnh chiếc cầu bị phá nhằm chiến đấu cầm chân địch cho đội du kích rút lui an toàn. (Sau này cuộc chiến chống Phát Xít thất bại và tướng Franco cai trị đến tận sau Thế Chiến Thứ 2; thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Tây Ban Nha.) • Giá Trị Tác Phẩm Thông qua nội dung miêu tả hoạt động của một nhóm du kích quân địa phương dưới sự giúp đỡ của một chiến sĩ cộng hòa người Mỹ, “Chuông gọi hồn ai" một mặt ca ngợi cuộc kháng chiến kiên cường của dân tộc Tây Ban Nha vì hòa bình tự do, mặt khác phản ánh tinh thần quốc tế cao quý của các chiến sĩ thuộc Lữ đoàn quốc tế đã cùng nhân dân Tây Ban Nha chiến đấu bảo vệ chính nghĩa, dập tắt ngọn lửa hung bạo của chiến tranh đang tràn ngập khắp nơi. Tác phẩm hé lộ mẫn cảm nhanh nhạy của tác giả trong việc nắm bắt vấn đề trọng tâm của nhân loại trong những năm 1930 của thế kỷ 20, đó là nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa phát xít. Nó là lời tố cáo đanh thép tội ác man rợ của bọn Franco, lên tiếng đấu tranh chống lại chủ nghĩa phát xít khi nó vừa trỗi dậy. Đồng thời, bằng cách nhìn, cách nghĩ mới mẻ, Hemingway còn cố gắng giải quyết mối quan hệ giữa nhân dân và lịch sử cũng như những vấn đề về sự sống, cái chết, tình yêu, chỗ đứng và trách nhiệm của mỗi con người trong xã hội mà thực tế cuộc cách mạng Tây Ban Nha đã đặt ra. Về mặt nghệ thuật, “Chuông gọi hồn ai" là đỉnh cao phong cách trữ tình của Hemingway, một phong cách đã in đậm trong nhiều tác phẩm của tác giả như Mặt trời cũng mọc (The sun also rises, 1926), Giã từ vũ khí (A farewell to Arms, 1929), Ông già và biển cả (The old man and the sea, 1952)... Tác phẩm cố gắng đi sâu vào miêu tả vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật, thể hiện được những con người cá nhân có nhiều suy tư, có cá tính, gây ấn tượng mạnh mẽ, biết hy sinh cuộc sống riêng tư cho lý tưởng hoặc biết chịu đựng một sự thất bại bên ngoài để đổi lấy sự chiến thắng về tinh thần bên trong. Những đoạn độc thoại nội tâm của các nhân vật và những dòng trữ tình ngoại đề trong cuốn sách khiến cốt truyện của “Chuông gọi hồn ai" tưởng như đơn giản lại trở nên sinh động, phong phú trong các tình tiết, nhuần nhuyễn và linh hoạt trong kết cấu, cuốn hút hàng triệu độc giả trên khắp thế giới khi tiếp cận tác phẩm. Mặc dù tư tưởng của nhà văn ít nhiều còn thiếu lạc quan khi biểu lộ cảm quan định mệnh phảng phất trong tâm lý của một số nhân vật chính, cũng như tính chất bi kịch đậm nét ở phần cuối câu chuyện ít nhiều làm giảm cảm hứng tích cực của người viết trong tác phẩm, nhưng “Chuông gọi hồn ai", cuốn tiểu thuyết ra đời trong máu lửa chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Tây Ban Nha, vẫn là một trong những tiểu thuyết đặc sắc nhất của văn hào Hemingway cũng như của nền văn học hiện thực Mỹ thế kỷ 20. “Chuông gọi hồn ai" (For Whom the Bell Tolls) còn là tên 2 ca khúc do 2 ban nhạc nổi tiếng thế giới trình bày là Metallica (trong album Ride the Lightning) và ban nhạc anh em Bee Gees (trong album Size Isn't Everything) Mời các bạn đón đọc Chuông Gọi Hồn Ai của tác giả Ernest Hemingway.