Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cảm Giác Hygge - Về Ánh Sáng, Sự Ấm Áp Và Những Điều Bí Mật

Hooga? Hhyooguh? Heurgh? Dù bạn chọn phát âm (hay thậm chí đánh vần) từ hygge theo cách nào thì cũng không quan trọng. Giống như Winnie-the-Pooh từng nói về hạnh phúc: “Cậu không đánh vần được nó. Cậu cảm nhận nó.” Không ngẫu nhiên mà Cảm giác HYGGE trở thành hiện tượng xuất bản trên thế giới và liên tục là best seller. Bởi Meik Wiking đã cho thấy, hygge không phải thứ “nguyên liệu” bí mật chỉ người Đan Mạch mới có. Bạn hoàn toàn có thể tìm thấy hygge để cho vào công thức hạnh phúc của chính mình. Hành trình tìm kiếm hygge chính là hành trình khám phá ánh sáng, sự ấm áp, và kết nối. Cốt lõi của hygge không phụ thuộc vào vật chất, mà là không khí và trải nghiệm. Đó là cảm giác được ở cạnh những người ta yêu mến. Cảm giác được trở về nhà. Cảm giác thoải mái và an toàn ở chốn thân thuộc, pha một cốc cà phê ấm nóng, nằm cuộn tròn trong chăn.Vậy nên, (có thể) bạn không đánh vần được hygge. Nhưng bạn hoàn toàn cảm nhận được nó. *** [Review Sách] “Cảm Giác Hygge”: Cẩm Nang Hạnh Phúc và Những Điều Bí Mật Khác Cảm giác Hygge của Meik Wiking đã phác họa cho chúng ta hạnh phúc là gì và những điều bí mật khác của quốc gia hạnh phúc nhất thế giới -Đan Mạch. Không ngẫu nhiên mà Cảm giác Hygge trở thành một hiện tượng xuất bản trên thế giới, tác giả cho thấy rằng hygge không phải là điều người Đan Mạch mới có. Bạn cũng có thể tìm thấy hygge để cho vào công thức hạnh phúc của chính mình. *Về tác giả Meik Wiking là CEO của Viện Nghiên Cứu Hạnh Phúc (Happiness Research Institute), một tổ chức độc lập  chú trọng vào sức khỏe, hạnh phúc và chất lượng cuộc sống của con người. Ngoài việc nghiên cứu về khoa học chính trị, ông còn viết lách, thích chụp ảnh và chơi thể thao. /HYGGE BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU?/ Hygge xuất hiện đầu tiên trong chữ viết Đan Mạch vào đầu thế kỷ 19, nhưng thực chất nó bắt nguồn từ tiếng Na Uy. Hygge chúng ta có thể phát âm là /hooga/, không phải là /hy-gee/ nhé. Từ gốc hygge trong tiếng Na Uy có nghĩa là hạnh phúc. Tuy nhiên, theo nghĩa gần nhất thì hygge có nghĩa là hug (ôm). Theo một vài nghiên cứu, thì hygge lại bắt nguồn từ hygga (tiếng Bắc Âu cổ), từ này lại bắt nguồn từ hugr (tâm trạng). Hugr lại xuất phát từ một tiếng Đức có nghĩa là “suy nghĩ, cân nhắc”. Thú vị thay, những yếu tố “ tâm trạng”, “ôm”, “hạnh phúc” là những từ dùng để mô tả những yếu tố hygge như ngày nay. Hygge được hiểu là sự ấm áp, hạnh phúc và gần gũi đối với điều bình dị nhất trong cuộc sống. Một buổi tối cùng quây quần bên bếp lửa cùng với gia đình và những người ta yêu thương đã là hygge rồi. /CHÚNG TA BÀN GÌ VỀ HYGGE?/ Với phong cách sống của Đan Mạch, yếu tố ấm áp là điều không thể thiếu trong bất cứ gia đình nào. Sau đây chúng ta  sẽ cùng lướt qua một số yếu tố đặc trưng chỉ có Đan Mạch mới có thôi nhé. 1/ÁNH SÁNG Vì là một quốc gia có mùa đông kéo dài, bầu trời lúc nào cũng chìm trong bóng tối thì việc tối đa việc hấp thụ ánh sáng vào nhà là một điều vô cùng quan trọng. Ánh sáng ở đây có thể được hiểu là ánh sáng dịu nhẹ và ấm áp như ánh sáng của hoàng hôn. Đan Mạch là quốc gia sử dụng nến nhiều nhất trên thế giới. Vì yêu thích sự ấm áp nên họ thường dùng nến trong tất cả những ngày trong tuần, một ngọn nến nhỏ trên bàn ăn vào buổi tối cũng đủ làm bừng sáng cả không gian ngôi nhà. Điều đặc biệt là vào tháng 12 (Giáng sinh), đây là thời điểm nến được tiêu thụ gấp ba lần bình thường. Nến sử dụng cho thời gian này được gọi là nến Mùa Vọng. Loại nến này thường được đánh dấu bằng 24 dòng kẻ, mỗi dòng tượng trưng cho một ngày trước Giáng sinh. *Mùa Vọng: là khoảng thời gian 4 tuần trước ngày Giáng sinh, thường kéo dài từ 22-28 ngày, và có 4 ngày Chủ Nhật tính từ trước ngày lễ Giáng sinh. 2/ĐỒ ĂN VÀ THỨC UỐNG Phong cách Hygge khi bàn đến đồ ăn và thức uống thì đồ ngọt, cà phê và thịt là ba món thực phẩm không thể thiếu ở đất nước hạnh phúc nhất thế giới này. Đan Mạch nổi tiếng nhất thế giới về lượng tiêu thụ đồ ngọt, chỉ đứng sau Phần Lan. Trung bình một người Đan Mạch tiêu thụ 8.2kg đồ ngọt mỗi năm. Đồ ngọt ở đây có thể được hiểu là bánh kẹo, bánh ngọt, hay “người bánh” (món đặc sản của họ dành cho việc tổ chức sinh nhật cho trẻ con). Ngoài ra, người Đan Mạch còn yêu thích các loại đồ uống nóng như: trà, sô cô la nóng hay rượu vang nóng. Tuy nhiên, thức uống yêu thích nhất của họ là cà phê. Trong tiếng Đan Mạch, họ gọi là kaffehygge ( vừa cà phê vừa hygge) ở khắp nơi với bạn bè hay người thân của họ. 3/TRANG PHỤC Hygge trong cách ăn vận của người Đan Mạch cũng rất đơn giản, thanh lịch và tinh tế. Có một điều đặc biệt là người Đan Mạch thường rất thích mặc đồ màu đen, mang khăn choàng và mặc áo nhiều lớp (hay còn gọi là layer). Vì đặc tính thời tiết lạnh giá, chính vì vậy sẽ không hygge chút nào nếu không có một chiếc áo len hay một đôi tất dày để sưởi ấm cơ thể trong những ngày đông giá rét. 4/TƯƠNG TÁC XÃ HỘI Các mối quan hệ xã hội với bạn bè hay những người xung quanh cũng chú trọng yếu tố hygge này. Họ đề cao sự tôn trọng và sự gần gũi bên nhau, chia sẻ những câu chuyện ý nghĩa cùng nhau. Tuy nhiên, có một thách thức đối với những người mới chuyển sang sinh sống tại Đan Mạch thì rất khó cho họ để kết thân với một người bản xứ nào đó. Vòng tròn quan hệ của người Đan Mạch thường rất bền chặt, vì vậy sẽ rất khó để họ có thể mời ai đó vào cộng đồng của mình. Điều này cần thời gian, nhưng nếu bạn đã là bạn của họ, thì mối quan hệ ấy sẽ rất lâu bền đấy. Vậy tại sao hygge lại khiến cho người dân nơi đây lại cảm thấy hạnh phúc như thế? /NGHIỆN HYGGE/ Khi nhắc đến hygge, chúng ta sẽ nghĩ đến cảm giác hạnh phúc và ấm áp. Bạn không thể mua được hạnh phúc, nhưng bạn có thể mua bánh ngọt- và hai điều này gần như giống hệt nhau, ít nhất đó là những gì não bộ nghĩ. Như đã thảo luận trước đó, người Đan Mạch rất ưa chuộng đồ ngọt, đặc biệt là bánh ngọt. Khi bạn chọn một miếng bánh yêu thích, cảm giác hưng phấn sẽ lan tỏa khắp cơ thể bạn. Đã bao giờ bạn nghĩ vì sao bạn lại cảm thấy vui vẻ như vậy khi ăn đồ ngọt chưa? Ở cơ sở não trước có một vùng gọi là trung tâm tận hưởng (cucleus accumbens). Đây là một phần của hệ thống khen thưởng của não bộ, và có vai trò quan trọng trong việc tạo động lực, cảm giác thỏa mãn và sự tăng cường. Khi làm những việc có tính chất khen thưởng, não bộ giải phóng một chất hóa học và chất tín hiệu dopamine (hóc môn hạnh phúc) được kích hoạt.  Gần vị trí của vùng trung tâm tận hưởng là khu vực các tế bào thần kinh, nơi các hóc môn dopamine được giải phóng trong những tình huống khen thưởng. Khi dopamine được vận chuyển từ sợi thần kinh đến những cơ quan cảm giác ở một số phần khác nhau của bộ não, ta trải nghiệm cảm giác sung sướng và thỏa mãn. Các hoạt động tình dục, hay ăn uống đều có tác động đến hệ thống khen thưởng này. Chính vì vậy, chúng ta liên kết một loại thực phẩm nào đó với cảm giác thỏa mãn, điều này khiến chúng ta ăn nhiều hơn. Do đó, khi nhắc đến hygge, việc bạn cảm thấy vui sướng và hạnh phúc khi ăn một miếng bánh ngọt là một cảm giác bình thường và dễ hiểu. /TẠI SAO ĐAN MẠCH LÀ QUỐC GIA HẠNH PHÚC NHẤT THẾ GIỚI/ Có nhiều yếu tố để xem xét, tuy nhiên chúng ta sẽ cùng nhau một vài yếu tố nổi bật. 1/XE ĐẠP VÀ HẠNH PHÚC/ Đan Mạch là một quốc gia có sự đầu tư mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng cho người đi xe đạp. Tại thủ đô Copenhagen, 45% cư dân, học sinh hay người đi làm đều đạp xe đến chỗ làm và trường học. Không chỉ thuận tiện, đạp xe đạp còn là một hoạt động mang tính thân thiện với môi trường và cũng là một cách dễ dàng để vận động cơ thể hằng ngày. Theo nghiên cứu, những người đạp xe đạp sẽ hạnh phúc hơn những người đi xe ô tô. Đạp xe không những giúp ích cho cá nhân, cho sức khỏe và hạnh phúc của mỗi người, nó còn là một chỉ số để đánh giá mức độ ý thức cộng đồng. Ở Đan Mạch, đạp xe sẽ giúp cho họ kết nối nhiều với mọi người hơn, mở rộng mối quan hệ và tin tưởng người khác nhiều hơn, vì đạp xe cùng một ai đó xa lạ cũng thú vị mà. 2/CÁC MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI/ Nói đến hạnh phúc thì ngoại trừ GDP, sự tự do và chính sách quản lý của nhà nước ra thì các mối quan hệ xã hội đóng vai trò quan trọng, góp phần tạo nên chỉ số hạnh phúc cao ở Đan Mạch. Điều này được hiểu đơn giản là: Liệu một người có thể trông chờ hay tìm kiếm sự sẻ chia khi họ cần hay không? Đây không phải là cách tốt nhất để đánh giá hệ thống hỗ trợ xã hội, tuy nhiên đây là số liệu chúng ta có thể thấy rõ ở tất cả những quốc gia được nhắc đến trong Báo Cáo Hạnh Phúc Thế Giới. Người Đan Mạch luôn chú trọng sự cân bằng trong công việc và cuộc sống của họ. Sau những bộn bề trong công việc, gia đình và những mối quan hệ bạn bè thân thuộc sẽ được họ ưu tiên hàng đầu. Họ không dành quá nhiều thời gian cho công việc mà bỏ quên những quan trọng trước mắt. Các mối quan hệ xã hội và chỉ số hạnh phúc có sự liên quan mạnh mẽ lẫn nhau. Khi chúng ta có cảm giác thuộc về ai đó hoặc là cảm giác được chia sẻ và trân trọng thì hạnh phúc sẽ luôn nằm trong tay bạn. Điều này được kiểm chứng trong mô hình biểu đồ kim tự tháp thể hiện nhu cầu của con người do nhà tâm lý học người Mỹ gốc Nga Abraham Maslow  phát triển. Nếu các nhu cầu mang tính sinh lý: thực phẩm, giấc ngủ, và cảm giác được che chở không được đáp ứng, chúng ta sẽ khó đạt được hạnh phúc. 3/TẬN HƯỞNG HIỆN TẠI & LÒNG BIẾT ƠN/ Cảm giác hygge là việc bạn tận hưởng những khoảnh khắc bình dị đời thường mỗi ngày. Sống cho hiện tại là cách người Đan Mạch vẫn luôn theo đuổi, họ tận hưởng những giây phút ý nghĩa bên gia đình, người thân của mình. Yếu tố quyết định mỗi ngày của họ đều là một ngày ý nghĩa đó là cảm xúc trong ngày. Việc bạn có cảm xúc tích cực hay tiêu cực về một ngày của mình sẽ quyết định bạn hạnh phúc như thế nào. Với một tâm trạng vui vẻ và thoải mái, thì không ngạc nhiên khi chúng ta thấy được đây là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Ngoài ra, người Đan Mạch còn có thói quen ghi “nhật ký biết ơn” trong ngày. Hay nói cách khác, họ ghi chép lại những việc họ cảm thấy ý nghĩa và biết ơn hằng ngày. Chính từ lòng biết ơn này, họ trân trọng những gì mình có, sống hết mình và tận hưởng những niềm vui nhỏ bé và giản dị. Theo Robert A. Emmons, giáo sư ngành Tâm lý học của Đại học California cho rằng, những người cảm thấy biết ơn thường không chỉ hạnh phúc hơn mà còn có ích hơn, vị tha hơn và ít thực dụng hơn. Họ dễ dàng vượt qua những nghịch cảnh và hồi phục nhanh hơn sau tổn thương. /”BỘ SƠ CỨU” HYGGE/ Khi nhắc đến cảm giác hạnh phúc và ấm áp, danh sách dưới đây sẽ mang đến cho bạn một chút cảm hứng. “Bộ sơ cứu” này sẽ được sử dụng khi bạn cạn kiệt năng lượng và không muốn ra ngoài. Hay nói cách khác, bạn chỉ muốn ở một mình và tận hưởng trong không gian cá nhân của mình. Nến Một ít sôcôla hảo hạng Mứt Trà yêu thích Cuốn sách yêu thích Sổ tay Một tấm chăn ấm áp Một đôi tất len dễ chịu Bộ sưu tập những bức thư yêu thích Âm nhạc Khăn choàng Với những vật dụng như trên, bạn cũng có thể tạo cho một mình một không gian hyggelige (cảm giác hygge) hơn bao giờ hết. Còn gì tuyệt vời hơn khi nhâm nhi tách trà yêu thích trên chiếc ghế sofa, nghe những bản nhạc du dương và ngắm nhìn ra cửa sổ trong một buổi chiều mưa? /HYGGE WISHLIST:10 ĐIỀU KHIẾN CHO NGÔI NHÀ CỦA BẠN HYGGELIG HƠN/- THEO PHONG CÁCH ĐAN MẠCH 1/HYGGEKROG Hyggekrog có thể tạm dịch là “góc ẩn náu”. Đây là một góc trong phòng, nơi bạn thích được chui vào chăn cùng một cuốn sách, và một tách trà. Thường thì phong cách thiết kế của người Đan Mạch rất chú trọng vào nội thất sao cho ngôi nhà mang lại cảm giác hygge nhất có thể. Chốn hyggrekrog thường là sẽ ở cạnh cửa sổ, tuy nhiên không nhất thiết là phải như vậy. Hyggekrog có thể là một nơi có ánh sáng ấm áp, dịu nhẹ, cùng với chăn và gối, nơi bạn có thể thưởng thức trà và đọc một quyển sách yêu thích đã là quá hygge rồi. 2/ LÒ SƯỞI Lò sưởi là trái tim của hygge. Đây là nơi mọi người có thể ngồi cùng nhau thư giãn, tận hưởng những khoảnh khắc cùng gia đình và người thân. Chính cảm giác này lại mang đến sự ấm áp và cảm giác gần gũi cho tất cả mọi người. 3/ NẾN Như chúng ta đã biết, nếu không có nến thì sẽ không có hygge. 4/ NHỮNG THỨ LÀM TỪ GỖ Những nguyên liệu được làm từ gỗ luôn luôn mang lại cho người Đan Mạch một cảm giác đặc biệt. Gỗ khiến ta gần gũi hơn với thiên nhiên hơn. Các vật dụng làm bằng gỗ phổ biến như đồ chơi trẻ em bằng gỗ, một chiếc tủ gỗ, hay mặt sàn gỗ cũng đủ khiến cho chúng ta hygge rồi. 5/ THIÊN NHIÊN Ngoài gỗ ra, thiên nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cảm giác hygge. Điều này hoàn toàn đúng khi nói đến những thiết kế nội thất, trang trí nhà cửa bằng những chậu cây xanh, một nhánh cây khô, lá cây, thậm chí là hạt cũng được người Đan Mạch mang vào nhà để làm vật trang trí. 6/ CHĂN & GỐI Chăn và gối là hai thứ nhất-thiết-phải-có trong bất cứ gia đình hygge nào, đặc biệt là trong những ngày đông lạnh giá. Cảm giác trùm lên một chiếc khăn thật là hyggelige đúng không nào? Vì văn hóa Bắc Âu yêu thích sự ấm áp và gần gũi, chính vì vậy có một vài chiếc gối trong nhà luôn là một ưu tiên hàng đầu. Còn gì tuyệt vời hơn việc dựa đầu lên một chiếc gối êm ái khi đọc cuốn sách yêu thích kia chứ?  7/ SÁCH Sách đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cảm giác bình yên và ấm áp trong bất cứ gia đình hygge nào. Vào những ngày cuối tuần, người Đan Mạch thường dành thời gian gia đình và bản thân. Ngồi nhâm nhi tách trà và đọc một quyển sách hay thì còn gì tuyệt vời bằng. 8/ ĐỒ GỐM Một tách trà xinh xắn, một lọ hoa đơn giản trên bàn ăn, chiếc cốc yêu thích mà bạn hay dùng- tất cả đều hyggelig. 9/ ĐỒ VINTAGE Văn hóa Bắc Âu luôn nâng niu và giữ gìn những món đồ truyền thống. Họ yêu thích những món đồ cổ hay đồ vintage. Những đồ vật không đơn thuần là những vật dụng vô tri vô giác, mà chúng chứa đựng giá trị cảm xúc và câu chuyện riêng của mình. Chỉ cần chúng lưu giữ kỷ niệm và là những vật dụng truyền thống cũng đủ mang lại cảm giác ấm áp rồi. 10/ CẢM NHẬN BẰNG XÚC GIÁC Khi nói đến những cảm nhận bằng xúc giác thì chúng ta đang ám chỉ không chỉ là vẻ bề ngoài, mà còn là cảm giác với đồ vật nữa.  Để những ngón tay lướt qua những bộ lông cừu, hoặc một chiếc bàn gỗ lúc nào cũng có sự khác biệt so với những bề mặt thủy tinh hay nhựa. Vì vậy, hãy thử cảm nhận những cái chạm trong ngôi nhà của chính mình nhé. Lời kết Hành trình tìm kiếm hygge là hành trình khám phá ánh sáng, sự ấm áp và sự kết nối. Nó không phụ thuộc vào vật chất, mà liên quan đến không khí và trải nghiệm. Đó là cảm giác bên cạnh những người ta yêu mến, cảm giác an toàn và thân thuộc khi ở một nơi thân thuộc. Tuy bạn không thể đánh vần được hygge, nhưng bạn có thể cảm nhận nó. Hãy tự tạo cho mình cảm giác hygge trong bất kì hoàn cảnh nào nhé. Review chi tiết bởi: Tuyết Sơn- Bookademy Hình ảnh: Tuyết Sơn ----------------------------   Mời các bạn đón đọc Cảm Giác Hygge - Về Ánh Sáng, Sự Ấm Áp Và Những Điều Bí Mật của tác giả Meik Wiking & Thùy Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Cõi Chết
James Joyce được xem là nhà cách mạng tiên phong trong nghệ thuật viết tiểu thuyết của thế kỷ XX. Theo kết quả thăm dò của báo Time (Mỹ) và Le Figaro (Pháp), hai tờ báo uy tín trên thế giới, thì dẫn đầu các nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ XX là James Joyce, tiếp theo là Franz Kafka (Tiệp Khắc), Virginia Woolf (Anh), Ernest Hemingway (Mỹ), Gabriel Garcia Maquez (Colombia)... Có thể coi Joyce là một trong những nhà văn hàng đầu của lối viết "dòng ý thức" với bút pháp độc thoại nội tâm chân thật nhất trong văn học hiện đại. Chủ nghĩa hiện đại hay chính là James Joyce - không chấp nhận lối sáng tác giống các thể loại văn học truyền thống. Nhà văn phá bỏ hoặc tưởng tượng lại các cấu trúc đã được nhận thức và nỗ lực tạo ra chính xác những dòng suy nghĩ theo quy luật hàng ngày với những gì xảy ra. Trong bài viết của nhà nghiên cứu Paul Gray về James Joyce đăng trong tuyển tập 100 con người tạo nên thế kỷ XỬ do báo Time (the Time 100, ngày 6 tháng 8 năm 1998) bình chọn, ông cho rằng chính Ulysses đã mở đường và in dấu sâu đậm trong tác phẩm của nhiều nhà văn lớn của thế giới sau đó như William Faulkner, Albert Camus, Samuel Beckett, Saul Bellow, Gabriel Garcia Marquez và Toni Morrison. Các tác giả này, Paul Gray viết một cách châm biếm, không như Joyce, đều đoạt giải Nobel văn học. James Joyce từng nói "Một trong những điều khi còn trẻ tôi không tài nào quen được là sự khác biệt tôi nhận thấy giữa cuộc sống và văn chương" (trích từ bài của Paul Gray). Joyce dường như đã dành cả sự nghiệp của mình để xóa bỏ sự khác biệt này, đồng thời cách mạng hóa cả nền văn chương thế kỷ XX. Cuộc sống trong tác phẩm của Joyce phần lớn là cuộc đời của chính ông. Tác phẩm được xuất bản đầu tiên của ông, người Dublin, gồm 15 truyện ngắn, bề ngoài có vẻ đơn giản và truyền thống nhưng lại theo một phong cách và ngôn ngữ đa chiều lạ lẫm. Tiếp sau đó là tiểu thuyết mang đậm tính tự thuật A Portrait of the Artist as a Young Man, câu chuyện của chàng Stephen Dedalus, hay chính là Joyce, từ những ngày thơ ấu ở Dublin đến khi quyết định rời quê hương ra đi theo đuổi nghệ thuật. Với độ phức tạp, sáng tạo về ngôn ngữ mô tả những bí ẩn nội tâm thường hiếm khi được tiết lộ, cuốn sách, dù không bán chạy nhưng đã thu hút được sự chú ý của một số nghệ sĩ thuộc trường phái cách tân nổi tiếng thời đó, cho rằng thế kỷ mới đòi hỏi mọi thứ - nghệ thuật, thi ca, văn chương, âm nhạc...cũng phải có gương mặt mới. Vậy là thử nghiệm ngôn từ của James Joyce đã được ủng hộ, và ông cũng không làm họ phải thất vọng. Joyce bắt tay viết Ulysses năm 1914, một số phần của tác phẩm xuất hiện trước trên tạp chí Egoist ở Anh và Little Reivew ở Mỹ, cho đến khi ba số tạp chí bị đình chỉ và chủ báo bị phạt 100 đô la vì bị buộc tội đã đăng bài tục tĩu, không phù hợp với đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục. Tuy nhiên việc này chỉ càng làm tăng thêm sự tò mò của độc giả đối với tác phẩm sắp chào đời. Thậm chí trước khi Ulysses được xuất bản năm 1922, các nhà phê bình đã so sánh những sáng tạo của Joyce với khám phá của Einstein và Freud. Được ca ngợi là tiểu thuyết vĩ đại nhất trong lịch sử, Ulysses, như tên gọi của nó, được sáng tác với cảm hứng từ Odyssey của Homer (khoảng thế kỷ VIII trước công nguyên). Khi còn bé, Joyce đã bị mê hoặc bởi sử thi Odyssey. Năm 20 tuổi, khi được viết về người anh hùng yêu thích nhất của mình, Joyce đã chọn Ulysses, người chiến thắng bằng chính sự khéo léo và thông minh hơn là dùng bạo lực. Khi viết Ulysses, (tên của Odysseus theo cách gọi của người La Mã), Joyce đã nói rằng Odysseus là một tính cách toàn diện và mang tính nhân văn nhất trong văn học. Trường ca Odyssey kể chuyện Ulysses, người anh hùng muôn vàn trí xảo, au khi dùng mưu hạ được thành Troy thần thánh, đã phiêu lưu khắp nơi, chiến đấu bảo vệ tính mạng của mình và để cho các bạn đồng hành được trở về xứ sở. Ulysses đã chịu nhiều đắng cay, cám dỗ, những gian nan, nguy hiểm...và chàng đã chiên thắng tất cả bằng mưu trí. Ulysses là hiện thân của trí tuệ, sự thông minh. Chàng không biết khuất phục, không biết nản lòng, là hình tượng người đi tiên phong mở đường cho một sự nghiệp lớn. Ulysses đã tự tạo nên số phận mình bằng tinh thần đấu tranh không mệt mỏi với các lực lượng tự nhiên cũng như với những kẻ thù trong xã hội. Ulysses tiêu biểu cho sự giải phóng tinh thần quan trọng, chứng tỏ sự trưởng thành mạnh mẽ của con người. Sau 20 năm lưu lạc, Ulysses đặt chân lên mảnh đất quê nhà, sống trọng nghĩa vợ chồng, tình cha con, tình cảm bè bạn, giống nòi, quê hương, đất nước... Tiểu thuyếy Ulysses của James Joyce sử dụng thiên trường ca cổ điển Odyssey như một phương pháp sắp đặt những trải nghiệm của con người hiện đại, để miêu tả cuộc sống đương đại. Ông sáng tạo Ulysses là một người đàn ông bình thường tên là Leopold Bloom, đấu tranh trước những thử thách thường ngày, trong một ngày bình thường. Cuốn tiểu thuyết dõi theo những khoảnh khắc hành động và suy nghĩ, ẩn ức, tưởng tượng của Leopold Bloom, của vợ anh ta, Molly, và Stephen Dedalus (nhân vật trong A Portrait of the Artist as a Young man) trong một ngày trọn vẹn ở Dublin, ngày 16 tháng 6 năm 1904 (là món quà của Joyce dành cho Nora Barnacle, ngày đầu tiên hai người hẹn hò). Cùng với ba nhân vật chính, tác phẩm đã tải hiện cuộc sống của người dân Dublin trên đuờng phố, những cảnh tượng, không gian, âm thanh, thậm chí cả mùi vị của Dublin. Mọi hoạt động diễn ra tưởng chừng ngẫu nhiên, nhưng ẩn sau chúng là rất nhiều bí ẩn và câu đố đến mức nó sẽ khiến cho các giáo sư phải bận rộn trong hàng thế kỷ để tranh cãi điều tác giả muốn nói, như Joyce từng tuyên bố. Sáng tạo ngôn từ không mệt mỏi của Joyce (nhiều đoạn trong Ulysses ông viết liên tục không hề có dâu câu) cùng thủ pháp "dòng ý thức" miên man giữa hiện tại, quá khứ và tương lai, và tâng tầng lớp lớp ám chỉ về tôn giáo lịch sử, thần thoại trong mỗi từ, mỗi câu nói, đã khiến Ulysses trở thành một cuốn từ điển về bản chất con người, tiến gần nhất đến sự khám phá hoàn hảo về con người, nhưng cũng trở thành cuốn sách khó đọc, và có lẽ chỉ dành riêng cho "một số độc giả nhạy cảm, tinh tế" như nhà phê bình Joseph Collins nhận xét. Một tác phẩm quan trọng khác của Joyce sau đó, và cũng là tác phẩm cuối cùng của ông, Finnegans Wake, thậm chí còn khó đọc hơn cả Ulysses, được viết với ngôn ngữ riêng do Joyce sáng tạo ra. Nếu Ulysses nói về Dublin ban ngày thì Finnegans Wake mô tả cuộc sống ban đêm của Dublin theo logic của những giấc mơ, hơn 600 trang sách tưởng như ngớ ngẩn với những suy nghĩ được mô tả bằng ngôn ngữ đứt đoạn và ngoại lai, thách thức mọi quy ước về cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp dòng ý thức, ám chỉ và những giấc mơ, ẩn ức lộn xộn của Joyce trong Ulysses đã được đẩy đến đỉnh cao với Finnegans Wake. Joyce đã vượt lên chính mình, vượt qua bộ bách khoa Ulysses của chính mình mà không ai vượt nổi. Viết về Joyce, Allen Ruch ca ngợi "James Joyce là nhà văn duy nhất chúng ta có thể hoàn toàn đặt niềm tin, con người duy nhất mà chúng ta có thể chắc chắn 1000 năm sau vẫn sẽ được nhớ đến, nếu như có con người ấy. Như câu nói nổi tiếng của một nhà phê bình: James Joyce đã và sẽ là nhà văn độc nhất trong lịch sử bởi chỉ xuất bản không gì ngoài kiệt tác. *** Tháng 7 năm 1998 Hội đồng cố vấn của Modern Library, một bộ phận của nhà xuất bản Random House, gồm 10 thành viên trong đó có một phụ nữ đã bỏ phiếu chọn một danh sách gồm 100 tiểu thuyết hay nhất viết bằng Anh Ngữ của thế kỷ 20 (Newsweek, 3 Aug. 1998, "Battle of the Books"). Trong số 100 tiểu thuyết được chọn có 6 tác phẩm được viết trong 25 năm qua. Cuốn Ulysses của James Joyce, một nhà văn người Ái nhĩ lan xuất bản năm 1922 đứng đầu danh sách. Cuối cùng là cuốn The Magnificent Ambersons của Booth Tarkington xuất bản năm 1918.  Không phải nhà văn nào cũng đồng ý với lựa chọn này, nhưng ít nhất sự lựa chọn cho chúng ta một tiêu chuẩn tương đối giúp giới thưởng ngoạn văn học quan sát một phần sinh hoạt văn học của thế kỷ này. Riêng nhà văn James Joyce có 3 tác phẩm được chọn trong số 100. Ngoài cuốn Ulysses là cuốn A Portrait of the Artist As a Young Man xuất bản năm 1916, sắp hạng 3 và cuốn Finnegans Wake xuất bản năm 1939 sắp hạng 77. James Joyce sinh tại thành phố Dublin, Ái nhĩ lan năm 1882 và là người độc nhất trong gia đình được ăn học đến nơi đến chốn, Năm 16 tuổi ông vào đại học Dublin và tốt nghiệp năm 20 tuổi. Lúc đó James Joyce đã được biết đến qua bài bình luận về Ibben ông viết đăng trên tờ Fortnightly Review có uy tín trong giới văn học Anh. Năm 1904 James Joyce rời nước qua lục địa Âu châu sống ở Paris, Zurich, Trieste sinh nhai bằng nghề dạy Anh Ngữ, và sống trong nghèo túng cho đến năm 1919 ông được ông Harriet Weaver vì mến tài giúp đỡ một số tiền lớn. Lúc này James Joyce đã nổi tiếng trong giới văn học Âu châu. Việc xếp cuốn Ulysses của ông lên hàng đầu của các tác phẩm viết bằng Anh ngữ hay nhất của thế kỷ dù chỉ là một lựa chọn tương đối đã xác nhận văn tài của ông. Chuyện ngắn "The Dead" tôi dịch sau đây ông viết năm 25 tuổi (khi Anh quốc còn đô hộ Ái nhĩ lan, một quốc gia có hai tôn giáo, hai ngôn ngữ do ảnh hưởng của người Anh) và được xem là một trong những chuyện ngắn xuất sắc nhất của ông. James Joyce qua đời năm 1941, hưởng thọ 59 tuổi. Trần Bình Nam Mời các bạn đón đọc Cõi Chết của tác giả James Joyce.
Bông Hồng Mất Tích
Câu chuyện kể về Diana, một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp mười bảy tuổi khát khao nhận được sự tán dương từ người khác. Chính điều này đã khiến cô từ bỏ giấc mơ trở thành nhà văn và từ bỏ cả những giá trị của chính mình. Trong giây phút lâm chung, mẹ của Diana đã thú nhận rằng Diana còn một người em song sinh nữa - một người khát khao được gặp mẹ, dám chống đối lại những người khác để thực hiện nguyện ước của cô là đi tìm mẹ. Lời mẹ khẩn cầu Diana hãy đi tìm gặp em gái đã thôi thúc Diana thực hiện một cuộc hành trình bí ẩn. Cuộc hành trình dẫn cô đến khu vườn hoa hồng kỳ lạ ở Istanbul, và chính nơi đó, cô đã trò chuyện được với những bông hồng... Serdar Ozkan sẽ đưa chúng ta đến với cuộc hành trình tìm kiếm điều gì đó tưởng như vô cùng đơn giản - HẠNH PHÚC. Nhưng, để có được hạnh phúc chẳng đơn giản chút nào. Để rồi khi chạm tới điểm cuối của hành trình, chúng ta chợt nhận ra rằng, hạnh phúc, nó tựa như một món đồ ta để quên trong ngăn kéo kí ức hóc khóa và chờ đợi bàn tay tỉ mẩn, kiên trì của một ai đó tìm lại mà thôi. *** Ephesus! Thành phố của sự đối ngẫu Là nơi có cả đền thờ nữ thần Artemis lẫn tòa thánh thờ Đức mẹ Maria. Nơi đây là hiện thân của cái tôi bản ngã lẫn chiều sâu tâm hồn. Đây cũng là hình ảnh thu nhỏ của những thứ cao khiết hư ảo lẫn những điều trần tục thấp hèn, là nơi kết hợp cả chế độ nô dịch lẫn sự tự do, phóng khoáng. Ephesus – Là sự hòa quyện của những điều đối lập. Bản thân thành phố ấy cũng có tâm hồn như mỗi con người chúng ta. Một buổi chiều muộn tháng Mười, có hai người ngồi bên cạnh con suối Meles gần thành phố cổ Ephesus. Mặt trời đang khuất dạng dần sau ngọn núi Buldul, nhuộm hồng cả một góc trời. Với những ai am hiểu ngôn ngữ của bầu trời thì chắc hẳn sẽ sớm hân hoan đón chào cơn mưa. “Thánh Paul đang giảng đạo cho mọi người về Mẹ Maria đấy”, cô gái trẻ nói. “Anh có nghe thấy đám đông phẫn nộ đang gào thét, phản đối và nguyền rủa ông ấy không? Hàng nghìn người nổi loạn chống lại tôn giáo mới - thứ tôn giáo ngăn cấm họ thờ nữ thần của mình. Hãy nghe tiếng những bước chân đang giậm trên nền đất và tiếng họ la hét kìa, ‘Chúng tôi không muốn Maria! Chúng tôi tôn thờ nữ thần Artamis!’ “Artemis ư?” Chàng trai trẻ hỏi lại. “Mội nữ thần sao? Nữ thần Diana của La Mã?” “Đừng quan tâm đến bà ấy làm gì”, cô gái trẻ đáp lời, “Bà ấy chẳng là gì ngoài một ảo tưởng đã được hình hài hóa và được người ta tôn thờ.” “Em có vẻ biết nhiều về bà ấy nhỉ?” “Em hiểu rõ bà ấy như chính bản thân mình ấy chứ.” “Được rồi, vậy sao em không kể cho anh nghe về bà ấy nhỉ?” “Bà ấy là nữ thần săn bắn,” cô gái bắt đầu kể. “Đó là một nữ thợ săn thực thụ - người dùng cung tên của mình để đem đến cho kẻ thù một cái chết đột ngột và ngọt ngào. Đó là một tâm hồn tự do bị cầ tmù, một người phụ thuộc nhưng rất đỗi kiêu hãnh. Nhờ có cây oliu mà mẹ bà – bà Leto đã sinh ra bà cùng với…” Sau khi đã hít một hơi sâu, cô gái nói thêm “người em song sinh của bà…” Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Mất Tích của tác giả Serdar Ozkan.
A
“A.” - Một câu chuyện tình... Hẳn là như vậy, bởi theo tác giả Kira Tenisheva, cuốn sách này chính là “câu chuyện về tình yêu, trong hình dung của tôi…” nhưng tại sao lại là “trong hình dung của tôi” – một lời nói mang tính nước đôi như vậy? Đây có lẽ là một “bí mật” khác mà cuốn sách dành riêng cho từng người đọc (!). Còn bây giờ xin mời bạn trở lại câu chuyện của “A.”. Cuốn sách nhỏ nhắn với số trang rất khiêm tốn, chỉ lấy duy nhất một chữ “A.” làm tựa, có lẽ cũng khơi dậy trong bạn đọc một chút ham muốn được khám phá. “A.” hoàn toàn không phải là một cuốn sách dễ đọc, nó “đánh đố” chúng ta ngay từ cái tựa. “A.” là ai? Là “chiếc khăn tay từ lâu đã phai mùi nước hoa của em có chữ “A.” thêu nổi ở góc? Hay “A.” chính là tên gọi của nữ thần sắc đẹp và tình yêu trong thần thoại Hy Lạp: Aphorodite? Cũng có thể “A.” chính là cô gái hoang dã Amazon?… Hình như đấy không phải là một con người cụ thể mà là biểu tượng của tình yêu đẹp mà chàng trai đi tìm. Một chuyến đi mãi mãi, bỏ lại sau lưng thành phố quen thuộc, địa vị và sự nổi danh nhất định. Chàng trai đi tìm ánh rực rỡ của tình yêu ở quảng trường, trên bãi biển, trên những con đường lộng gió. Chàng mãi đi tìm người ấy, cho dù người ấy đã già hoặc chết đi trong một làng ở vùng miền núi Alpes hẻo lánh, thậm chí đấy là một con người chưa bao giờ tồn tại (!)… Nếu so với những cuốn tiểu thuyết Trung Quốc đang “làm mưa, làm gió” trên thị trường sách Việt Nam hiện nay, có lẽ “A.” không phải là cuốn sách được ưa chuộng, bởi nó không có những “chuyện ầm ĩ” để bàn, để tán. “A.” là câu chuyện phi thời gian, vượt thoát không gian cụ thể; đấy cũng chẳng phải là câu chuyện của quá khứ hay tương lai. Song, nếu nói rằng “A.” là câu chuyện thời hiện tại thì cũng không phải. Tóm lại, điều mà “A.” muốn đề cập chính là sự vĩnh hằng với những mẫu sống, tình yêu huyền thoại luôn lưu chuyển âm thầm trong vũ trụ. Những nhân vật gần như không có thật, những cảnh trí không có trong đời thường, những thành phố vĩ đại nhưng không có tên, được đánh dấu bằng các chữ cái… Và, có một chút gì đó của văn học hậu hiện đại, khi tên của các nhân vật nổi tiếng, những niên đại, các biểu tượng… được “cài đặt” đây đó trong tác phẩm, bắt buộc người đọc phải vận dụng “trí học” của mình. Tuy nhiên, nếu bạn không phải là người “chịu khó” thì cũng không sao bởi “A.” là một câu chuyện tình yêu giản dị! Hãy dành vài giờ nhẹ nhõm, tạm quên những vấn đề của bản thân để dành cho cuốn sách này – đấy là lời gợi ý mà Kira Tenisheva gửi đến bạn đọc Việt Nam. Tôi đã làm theo cách ấy và tôi đã có được sự nhẹ nhõm kéo dài, để hiểu thêm những vấn đề của bản thân mình cùng cuộc sống mà mình đang tham dự… “A.” – tác giả: KIRA TENISHEVA; bản dịch: KIỀU VÂN, NXB HỘI NHÀ VĂN – TRUNG TÂM VĂN HÓA – NGÔN NGỮ ĐÔNG TÂY ấn hành năm 2005. TRẦN NHÃ THỤY *** Lời tác giả Gửi bạn đọc Việt Nam ! Một lần cầm bút lên, tôi hiểu mình không muốn viết về những chuyện đang xảy ra hàng ngày. Khi xung quanh có quá nhiều vấn đề, khi trên các trang sách vẫn là những máu me, nhơ nhớp, bạo lực, là sự vô liêm sỉ và tăm tối như những gì vẫn phô bày ra trên màn ảnh truyền hình, có cảm giác chỉ muốn bứt mình khỏi cái vòng đó và dù không lâu, được thoát ra ngoài thời gian và không gian này. Không phải quá khứ, cũng chẳng phải tương lai khiến tôi quan tâm, điều cuốn hút tôi là cái phi thời gian. Cái Vĩnh hằng. Ví dụ như tình yêu - điều đã luôn khiến cảm động và sẽ mãi làm cảm động nhân loại. Mà thực ra, đâu có gì đáng ngạc nhiên trong chuyện một phụ nữ quyết định viết về tình yêu? Nhưng việc viết cuốn sách này, một cách nghịch lý, đối với tôi hóa ra lại không là sự rời bỏ hiện thực, mà là tiếp cận nó từ một hướng khác. Không là sự lìa bỏ đời sống, mà hoàn toàn ngược lại, chính là sự quay về nơi đó xuyên qua một vùng huyền thoại vẫn còn lưu dấu trong mình nguyên mẫu của thế giới. Điều mô tả trong cuốn truyện không mấy gợi nhắc đến đời thường. Những cảnh trí quá rực rỡ, những nhân vật quá rực rỡ, có phần được cách điệu hóa, giống các nhân vật đeo mặt nạ trên sân khấu; họ không có tên và du hành qua những thành phố vĩ đại, nhưng không được gọi tên, chỉ được đánh dấu bằng các chữ cái như những ẩn số trong phương trình. Sự bí ẩn đó để làm gì ư? Đơn giản chỉ vì không gian diễn ra câu chuyện và không gian mà các nhân vật thuộc về không chỉ là châu Âu của thế kỷ 20, mà là một không gian ước lệ nào đó của cõi huyền thoại tình yêu. Mà trước tình yêu thì tất cả mọi người đều ngang nhau, và vô số những nhân vật vô danh của nó - những người khổng lồ hay nhỏ bé, những con người xinh đẹp hay quặt quẹo, quý tộc hoặc là thường dân - đời này sang đời khác, nhân danh tình yêu đang lặp lại cùng một những chiến công hay điều tội lỗi như nhau. Nhưng nếu như vậy, nếu chúng ta, những con người đã quần tụ lại bởi dù ta có là ai và ở đâu đi nữa, tất cả chúng ta đều yêu, đau khổ và hướng đến hạnh phúc, thì những tên người và địa danh ở đây đã chẳng còn có ý nghĩa quan trọng gì. Nói tóm lại, A là câu chuyện về tình yêu. Trong hình dung của tôi là vậy, nhưng bạn đọc hoàn toàn có thể nhìn thấy trong nó một điều gì đó không giống vậy. Còn về khuynh hướng văn chương, tôi cảm thấy thật khó xác định. Tôi không quy bản thân thuộc về một trào lưu văn học hiện đại nào cả, mà nếu cần bằng một cách nào đó làm sáng tỏ sự lựa chọn của tôi, thì tôi xin nói: điều quan trọng nhất đối với tôi là ngôn ngữ, phong cách, và với tư cách một người đọc tôi rất yêu sáng tác của các bậc thầy ngôn ngữ như Boris Pasternak và Vladimir Nabokov. Còn phải nói thêm điều gì nữa nhỉ? Tôi ước giá như có ai đó trong số các bạn sẽ dành ra vài giờ đồng hồ nhẹ nhõm để đọc cuốn sách này, tạm quên đi những vấn đề của bản thân. Và cùng với tôi thán phục vẻ đẹp của thế giới chúng ta đang sống. Tôi hạnh phúc với cuộc gặp gỡ này cùng bạn đọc Việt Nam và vui vì có dịp chúc cho dân tộc yêu lao động, dũng cảm và thiện tâm của các bạn được hạnh phúc và bình yên. Xin gửi tới các bạn lời chào thân ái! Kira Tenisheva Mời các bạn đón đọc A của tác giả Kira Tenisheva.
Dòng Sông Thơ Ấu
Hai Quang bị xã hội cũ đẩy vào tầng lớp lưu manh, làm dân anh chị ở bến xe rồi bị tù.Tuy nhiên bản chất là người lương thiện nên những hành động anh chị của Hai Quang đều có nét hào hiệp. Được cách mạng giác ngộ, anh trở thành một chiến sĩ kiên cường. Ông Tư Ghe vốn là học trò thầy giáo cách mạng Châu Văn Liêm, ông đã từng dẫn đầu các đoàn biểu tình và phanh ngực ra trước mũi giặc: “Cái ngực đồng của tau đây nè, bắn đi!”. Thế mà khi cách mạng thoái trào, anh em bị khủng bố thì ông theo Hòa Hảo, hãnh tiến và cuồng tín trong “sứ mệnh” truyền đạo của mình. Hai nhân vật chính của thiên tiểu thuyết, với những mâu thuẫn về quan điểm sống và chịu tác động của dòng đời đưa đẩy, là hai số phận điển hình trong thời Kháng chiến. Từ góc nhìn của nhân vật, tác giả đã khéo trình bày những sự kiện lịch sử và những đấu tranh trong lòng người thay đổi theo thời gian, như con sông khi trôi khi đục, chảy đi mang theo tất cả. "Bức tranh quê hương trong tiểu thuyết Dòng Sông Thơ Ấu sở dĩ sinh động vì đều là những hồi ức có thật. Tui theo kháng chiến 30 năm, mỗi khi nghe trên thế giới có dòng sông cạn thì tui lại nghĩ không biết dòng sông bên nhà mình ra sao. Dòng sông thời nhỏ của tui trải qua hai cuộc chiến tranh vẫn tràn trề sức sống. Ban đầu, tui viết dòng sông đó trong Đất lửa, Nguyễn Tuân chê "hiền quá". Sau ngày miền Nam giải phóng, tui đưa Nguyễn Tuân về ngồi nhậu trước nhà tui ngó ra dòng sông. Chỉ nghe loáng thoáng vài câu chuyện sông nước thôi, Nguyễn Tuân đã nhắc: 'Dòng sông là nguồn cảm hứng của văn chương Nam Bộ đấy, viết tiếp đi!' Năm 1980 tui viết những chữ mở đầu Dòng Sông Thơ Ấu..." - nhà văn Nguyễn Quang Sáng *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Dòng Sông Thơ Ấu của tác giả Nguyễn Quang Sáng.