Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trò Chơi Của Thiên Thần

Nếu đã yêu thích Bóng hình của gió hay Tù nhân của thiên đường, bạn sẽ không thể bỏ qua Trò chơi của thiên thần. Tập thứ 2 trong bộ sách về Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên kể về nhà văn trẻ David Martin. Trong những tháng ngày bị ám ảnh bởi mối tình bất thành, anh nhận được lời đề nghị kỳ lạ từ một chủ nhà xuất bản bí hiểm: Viết một cuốn sách chưa từng có trên đời, một câu chuyện mà vì nó người ta có thể sống và cũng có thể chết, có khả năng giết người và cũng có khả năng bị giết hại. Đổi lại, anh sẽ nhận được một gia tài khổng lồ và có thể nhiều hơn thế nữa. Thế nhưng, từ khi đặt bút ký vào bản hợp đồng kia, David cũng đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ, đặt mạng sống của những người thân xung quanh mình vào vòng đe doạ… GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Carlos Ruiz Zafón sinh năm 1964, là một trong những nhà văn Tây Ban Nha được đọc nhiều nhất và được yêu quý nhất. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm viết cho lứa tuổi thiếu niên, mà khởi đầu là một tiểu thuyết dày 500 trang được ông sáng tác năm mười bốn tuổi. Trò chơi của thiên thần nằm trong xê ri bộ tứ Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên, bên cạnh các tập Bóng hình của gió, Tù nhân của thiên đường và Mê cung của linh hồn. Sách của Zafón đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng trên thế giới, được giới phê bình khen ngợi và giành được nhiều giải thưởng quốc tế. NHẬN ĐỊNH: “Nhà văn Tây Ban Nha Carlos Ruiz Zafón có một cung tên mang nhiều dây cung, và ông thích cùng lúc kéo căng tất cả: tiểu thuyết trinh thám, huyền ảo, tình cảm. Trò chơi của thiên thần là một cuộc pha trộn thể loại được xử lý một cách hoàn hảo.” Marianne Dubertret - La Vie *** 80 năm trước, trong một tác phẩm đầy thách đố của mình, Jorge Louis Borge đã tưởng tượng ra một thư viện trong đó chứa đựng những cuốn sách dày 410 trang, mỗi cuốn sách bao gồm những chỉnh hợp của 23 chữ cái, dấu câu và dấu cách – nghĩa là mọi cuốn sách đã từng có và sẽ có trên đời, về tất cả những gì đã biết và sẽ được biết tới. Nói cách khác, đó không phải là một vũ trụ sách, đó là một vũ trụ. Thư viện là cõi vũ trụ. Cố nhà văn người Tây Ban Nha Carlos Ruiz Zafón nói rằng ông không thấy có lí do chi để Borges (sự uyên bác) không thể trộn cùng với Neil Gaiman (tính giải trí), “chỉ là kể chuyện thôi; những cách khác nhau để sử dụng mật mã và hình ảnh và ngôn từ và tiếng động”. Và vì không có lí do chi để không làm vậy, nên ông liền làm vậy, bằng cách viết Nghĩa trang những cuốn sách bị lãng quên, chuỗi tiểu thuyết bốn tập độc lập tựa một biên niên u huyền về Barcelona, nơi những kẻ mộng mơ sẽ bị kéo về phía một mê cung thư viện bí ẩn để cất giấu những cuốn sách mà không hay đó chỉ là chương đầu cho những ngày thẫm tối. Bộ tiểu thuyết như tòa lâu đài làm bằng thủy tinh giữa một vương quốc bị bỏ quên, lộng lẫy vô cùng và cũng mong manh vô kể, sẵn sàng bốc cháy mọi ngọc ngà thành tro bụi ngay khi đến lúc.   Được đọc những tập tiểu thuyết như thế này luôn là một ân điển, khiến ngay cả một vài đêm không ngủ cũng chỉ là chuyện phù du, ta chấp nhận cái giao kèo mơ hồ đổi lấy vài đêm thức trắng ấy để quăng mình vào một giấc chiêm bao lưu huyết, và ta nhận lại một thứ gì đẹp đẽ - vâng, những cuốn sách của Carlos Ruiz Zafón là minh chứng rằng rốt cuộc vẫn còn một thứ gì dẫu điêu tàn, nhưng đẹp đẽ. Cho nên sẽ quá tham vọng nếu định viết về cả bốn tập sách của ông trong khuôn khổ một bài viết đôi ngàn từ, thay vì thế, hãy chỉ ngẫu nghiên chọn ra một trong số đó, Trò chơi của thiên thần. Sẽ không thể lôi văn chương ra từ một tâm hồn lành lặn an ổn, chỉ những kẻ đã bị bể dập tan tành và trải qua những cuộc đại phẫu hư ảo thì từ những vết nức toác mới nảy lên được văn chương. David Martín, một nhà văn trẻ trên bờ vực lụn bại nhận được một đề nghị không-thể-từ-chối từ một người đàn ông bí hiểm: một trăm ngàn france đổi lại việc anh sẽ sáng tác một câu chuyện khiến mọi người có thể sống vì nó, chết vì nó, giết chóc vì nó và để mặc cho mình bị giết chóc vì nó, một câu chuyện khiến người ta tin, mơ, dâng hiến, hy sinh, chuộc tội – hay, một tôn giáo mới, một Kinh Thánh mới. Giống như Faust, anh bằng lòng, đâu hay biết mình đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Đó trước hết là một tiểu thuyết noir, lắt léo những ngóc ngách và nấp trong ngóc ngách là những kẻ truy lùng giấu mặt, gợi nhớ về những bộ phim thời kỳ đỉnh cao của Jean-Pierre Melville, tàn nhẫn mà cũng băn khoăn triết lí. Đó tiếp theo là một bảo tàng ngây thơ về Barcelona thế kỷ 20. Cuộc điều tra, rượt đuổi và chạy trốn của David Martín đưa anh xuyên qua thành phố được làm nên từ tội ác và hoài niệm, từ thiên thần và địa ngục, từ tâm hồn si tình đến chết của những cư dân hữu tử và từ những bóng ma bất tử nán lại trong hoang phế, từ những ngôi nhà bị nguyền rủa và những cuốn sách bị vùi quên, từ những ô cửa sổ nhìn ra sương mù và những đại lộ trong hũ nút. Trên tư cách nhà văn của một nơi chốn, Carlos Ruiz Zafón ngang hàng với Paul Auster của New York, Patrick Modiano của Paris hay Orhan Pamuk của Istanbul. Số phận của Barcelona là số phận của ông, say đắm nhưng đồng thời đẫm máu như một cuộc đấu súng trong mơ.  Lúc sinh thời, Carlos Ruiz Zafón nhận được rất nhiều lời đề nghị để chuyển thể các tác phẩm của ông thành phim, nhưng lần nào ông cũng từ chối. “Chẳng có gì sai khi chuyển thể sách thành phim nhưng tại sao mọi thứ lại cứ phải là một bộ phim điện ảnh, một mini series hay một series truyền hình? Sao một cuốn sách không thể chỉ là một cuốn sách?”, ông chất vấn. Và ông bảo, những cuốn sách của ông “ổn khi là chính nó”. Đáng để suy nghĩ về một câu hỏi như thế, sao một cuốn sách không thể chỉ là một cuốn sách mà thôi.  Không cần bàn, Carlos Ruiz Zafón là người có khả năng mise-en-scène (dàn cảnh) không thua gì những tiểu thuyết gia vĩ đại của thế kỷ 19. Ông tạo nên những vũ đài điện ảnh ngoạn mục chỉ bằng ngôn từ, nào là hình ảnh trinh bạch u ngục của một người thiếu phụ chết dưới hồ băng, nào là trường đoạn giằng giật dữ dội trên cáp treo giữa bầu trời Barcelona khi trời ngả tối, nào là cảnh tòa dinh thự cũ xưa chìm trong biển lửa. Chúng quá phù hợp để được chuyển thành một bộ phim, nhưng tác giả lại khăng khăng giữ chúng như chúng vẫn là, như thể ông đã lấy được cuốn sách này từ Nghĩa địa những cuốn sách bị lãng quên, nơi mỗi người chọn lấy một cuốn sách và lập lời thề sẽ bảo vệ nó vĩnh viễn.  Ông muốn bảo vệ sự sinh động vô hình ấy – điều vốn là bản chất tự nhiên của văn chương, dù nghẹt thở, rợn ngợp hay tráng lệ đến mấy thì cũng không nhìn thấy được, tất cả bị gói chặt trong những con chữ màu đen ngay ngắn. Văn chương là giấc mơ, ta hình dung được nó như một người nằm mơ tưởng như đã nhìn rõ vạn vật trong mơ, nhưng tất thảy sẽ tan biến ngay khi ta tỉnh giấc, ta không thể thấy bản lai diện mục của giấc mơ. Khác với mọi môn nghệ thuật thị giác, văn chương tạo nên những phóng chiếu trong đầu mỗi người, nó không dựa trên hình ảnh hiện thực vững chắc nào. Văn chương đích thực là thế đấy, lộng lẫy vô cùng và cũng mong manh vô kể, sẵn sàng bốc cháy mọi ngọc ngà thành tro bụi ngay khi đến lúc. Cho nên, sau những lớp kịch noir, những hành lang bảo tàng về một thành phố, Trò chơi của thiên thần đến cùng đích là một nghiền ngẫm về văn chương, về sự viết. Hành trình vật lộn để sống của David Martín trùng với hành trình vật lộn để viết của anh. Thỏa thuận giữa anh và người đàn ông bí hiểm tóm lược lại chỉ là: nếu muốn sống, anh phải viết. Và chẳng phải đây là định mệnh không thể tránh khỏi của mọi nhà văn, với họ, sống và viết là một, “không thể sống mà không viết”, nói như Pablo Neruda. Và giống như David Martín, để viết nên một tác phẩm để đời, mọi nhà văn phải đánh bạn với quỷ dữ và bán linh hồn cho cái ác. Sẽ không thể lôi văn chương ra từ một tâm hồn lành lặn an ổn, chỉ những kẻ đã bị bể dập tan tành và trải qua những cuộc đại phẫu hư ảo thì từ những vết nứt toác mới nảy lên được văn chương. Mọi nhà văn đều sống trong ngôi nhà với căn phòng nguyền rủa khóa kín và bị một bóng ma ám ảnh, đôi khi bóng ma ấy là chính họ, họ tự săn đuổi và giam cầm mình. Nhìn xem, David Martín đã lì lợm viết bản thảo nguy hiểm ấy đến cùng bất chấp sự can ngăn và những lời cảnh báo. Tình yêu không ngăn cản được anh, quyền lực không ngăn cản được anh, sự hoài nghi, sự ghê tởm và sự căm phẫn của chính mình không ngăn cản được anh, không gì ngăn được ham muốn kể chuyện của một người kể chuyện, cái ham muốn mãnh liệt không thể gò cương. Tất cả chỉ bởi David Martín tin rằng chỉ câu chuyện ấy mới cứu được đời anh. Không phải biết, mà là tin. Anh đã dấn quá sâu để không thể không tin. Văn chương là một loại cuồng giáo, mà mọi loại cuồng giáo đều đi tới hủy diệt tín đồ.  Biết là vậy, nhưng làm sao khác đi đây với một nhà văn? Trong tác phẩm của Goethe, quỷ Mephistopheles đã nhắn nhủ với Faust rằng: “Đừng âu yếm những nỗi khốn khổ của mình, nó ăn mòn ngươi như một con kền kền vậy”, nhưng không âu yếm những nỗi khốn khổ thì làm sao hoài thai văn chương, làm sao hoài thai cái đẹp? Với một nhà văn, không thể sống mà không viết, không thể viết mà không tự hủy hoại mình.  Theo Báo Thanh niên *** Kẻ viết văn không bao giờ quên được khoảnh khắc lần đầu tiên chấp nhận đổi một câu chuyện lấy chút tiền hoặc vài lời khen ngợi. Hắn cũng không bao giờ quên lần đầu tiên cảm thấy trong mạch máu mình nọc độc ngọt ngào của lòng kiêu hãnh và tin rằng nếu không ai phát hiện sự bất tài nơi hắn, giấc mộng văn chương của hắn có thể mang lại cho hắn một mái nhà che nắng che mưa, một bữa ăn tử tế mỗi tối và điều mà hắn khát khao nhất trần đời: tên hắn được in trên một mẩu giấy thảm hại mà hắn dám chắc rằng sẽ còn tồn tại ngay cả khi hắn đã từ giã cõi đời này. Kẻ viết văn buộc phải nhớ về khoảnh khắc ấy, bởi lẽ kể từ giờ phút ấy, hắn đã thất bại: linh hồn hắn đã được định giá. Khoảnh khắc ấy, tôi đã biết đến vào một ngày xa xăm thuộc tháng Mười hai năm 1917. Bây giờ tôi mười bảy tuổi và đang làm việc tại Tiếng nói ngành công nghiệp, một tờ báo bên bờ phá sản đang lay lắt trong ngôi nhà xây đầy ngóc ngách, xưa kia vốn là xưởng sản xuất axit sunfuric với những bức tường vẫn còn tiết ra thứ hơi độc ăn mòn đồ đạc, quần áo, những khối óc và cho tới cả đế giày. Tòa nhà mọc lên sau một rừng thiên thần và thánh giá của nghĩa trang Pueblo Nuevo, và từ đằng xa, cái bóng của nó hòa lẫn với bóng các lăng mộ để nổi bật trên nền trời tua tủa hàng trăm ống khói và nhà máy khiến cho buổi hoàng hôn bao trùm Barcelona vĩnh viễn có màu đỏ ối pha đen. Buổi tối đó hẳn đã xoay chuyển dòng đời tôi. Phó tổng biên tập, ông Basilio Moragas, đã gọi tôi tới căn phòng tối tăm nằm tận cuối tòa soạn, là nơi được ông dùng như phòng làm việc kiêm phòng hút xì gà. Ông Basilio có vẻ ngoài dữ tợn với bộ ria rậm, ông ghét cay ghét đắng những thứ vô vị và công khai bày tỏ lý thuyết cho rằng việc sử dụng thừa thãi trạng từ và tính từ là hành vi của những kẻ đồi bại và thiếu vitamin. Nếu phát hiện biên tập viên nào thiên về lối văn hoa lá cành, ông sẽ phân cho hắn viết cáo phó ba tuần liền. Nếu sau đợt thanh trừng này mà đối tượng vẫn tái phạm, ông Basilio sẽ đày hắn vĩnh viễn sang mục “nội trợ gia đình”. Chúng tôi ai cũng khiếp sợ mục này, và ông biết rõ điều đó. “Ông gọi tôi, ông Basilio?” tôi rụt rè đánh tiếng. Phó tổng biên tập gườm gườm nhìn tôi. Coi đó như một mệnh lệnh, tôi liền bước vào phòng làm việc nồng nặc mùi mồ hôi và thuốc lá. Phớt lờ sự hiện diện của tôi, ông Basilio tiếp tục đọc soát một trong những bài viết nằm trên bàn, tay lăm lăm cây chì đỏ. Suốt nhiều phút, phó tổng biên tập nã liên tiếp vào bài viết những chỗ chỉnh sửa, thậm chí là cắt xén, miệng làu bàu những lời thô tục như thể không có mặt tôi ở đó. Đang không biết phải làm gì, tôi chợt nhìn thấy một chiếc ghế đặt dựa vào tường, bèn vờ ngồi xuống. “Ai đã cho phép cậu ngồi?” ông Basilio lầm bầm, mắt vẫn không rời bài viết. Tôi vội vàng đứng lên và nín thở. Phó tổng biên tập thở dài, buông rơi cây chì đỏ, rồi dựa vào lưng ghế bành để dò xét tôi như thể tôi là một thứ cặn bã vô dụng. “Ta được nghe kể là cậu viết văn, Martín.” Tôi bỗng cảm thấy cổ họng khô khốc và khi tôi mở miệng, từ đó thoát ra một giọng nói lố bịch. “Một ít... à mà tôi không biết... Có nghĩa là, vâng, tôi có viết…” “Ta hy vọng cậu viết tốt hơn là nói. Mà cậu viết những gì vậy, nếu hỏi như vậy không quá tọc mạch?” “Vài truyện trinh thám. Thực ra là…” “Được, ta hiểu rồi.” Ông Basilio hướng về tôi một cái nhìn khó tả. Cũng hào hứng ngang bằng khi giả sử tôi nói mình chuyên tâm vào việc dùng phân bò nặn thành tượng để trang trí máng cỏ Giáng sinh. Ông thở dài lần nữa rồi nhún vai. “Vidal cho rằng hẳn cậu không tệ đến mức ấy. Thậm chí cậu hẳn còn có chút tài cán. Đúng là ở đây cậu không có nhiều đối thủ. Nhưng dù sao, nếu Vidal đã khẳng định thế…” Pedro Vidal là cây bút ngôi sao của tờ Tiếng nói ngành công nghiệp. Anh phụ trách mục thời luận vặt hằng tuần, mục duy nhất đáng đọc trong cả tờ báo, và anh cũng đã xuất bản mươi mười hai tiểu thuyết đề cập đến những tên đầu đảng của khu Raval và những cuộc dan díu tình cảm của chúng với các phu nhân tầng lớp cao trong xã hội, những cuốn tiểu thuyết này mang lại cho anh một thành công khiêm tốn. Luôn diện những bộ com-plê lụa hoàn hảo cùng đôi giày mô-ca Ý bóng loáng như gương, Vidal có dáng dấp cũng như phong thái của một tài tử điện ảnh thường xuất hiện trong những suất phim chiều, với mái tóc vàng luôn chải mượt, hàng ria như được vẽ bằng bút chì cùng nụ cười dung dị và độ lượng của một người cảm thấy mãn nguyện về bản thân và cả thế giới. Anh xuất thân từ một gia tộc mà ông cha đã tạo dựng sản nghiệp tại Mỹ nhờ ngành công nghiệp mía đường, và khi trở về, họ chiếm được cả một mảng lớn trong việc cung cấp điện cho thành phố. Cha anh, người đứng đầu gia tộc, là một trong số các cổ đông chủ chốt của tờ báo, và Pedro dùng tòa soạn như thể sân chơi để tiêu diệt nỗi buồn chán bởi không bao giờ cần phải làm việc dù chỉ một ngày trong đời. Việc tờ báo thất thoát các khoản tiền theo cùng cách các loại ô tô tân thời bắt đầu lưu thông khắp các đường phố Barcelona bị rò dầu đối với anh không quan trọng: được ban vô số tước hiệu quý tộc, kể từ giờ triều đại Vidal chuyên tâm thu nạp nhà băng và những tòa nhà trên những diện tích tương đương các lãnh địa nhỏ trong khu Ensanche. Pedro Vidal là người đầu tiên tôi dám cho xem những bản thảo mà tôi viết hồi mới chỉ là một thằng nhóc với công việc chủ yếu là mang cà phê và thuốc lá tới tòa soạn. Anh luôn có thời gian dành cho tôi, để đọc những gì tôi viết và đưa ra lời khuyên hữu ích. Vài năm trôi qua, anh nhận tôi làm trợ lý riêng và cho phép tôi gõ lại những bản thảo anh viết tay. Cũng chính anh từng nói nếu tôi muốn đùa giỡn với số phận bằng nghiệp văn chương may rủi, anh sẽ sẵn lòng giúp đỡ và định hướng cho tôi vào con đường đúng đắn. Và đúng như lời đã hứa, giờ đây anh ném tôi vào nanh vuốt của ông Basilio, tay gác cổng hắc ám của tòa báo. “Vidal là một người cảm tính vẫn còn tin vào loại chuyện hoang đường hoàn toàn không phù hợp với Tây Ban Nha, ví như chế độ trọng dụng nhân tài hay quan điểm là cần ban phát cơ hội cho người thực sự xứng đáng chứ không phải cho dạng con ông cháu cha. Cậu ấy giàu sụ nên có thể dễ dàng cho phép bản thân làm những trò ngông cuồng lãng mạn ấy. Nếu có được một phần trăm trong số gia tài cậu ấy đang phung phí, ta cũng sẽ chuyên tâm vào việc làm thơ và lũ chim nhỏ bé sẽ tới ăn trên tay ta, bị thu hút bởi lòng tốt và sự quyến rũ nơi ta.” “Vidal là một người tốt bụng!” tôi khẳng định. “Còn hơn thế ấy chứ. Cậu ấy là một vị thánh, bởi vì bất chấp bộ dạng khố rách áo ôm của cậu, cậu ấy vẫn quấy nhiễu ta hàng tuần trời khi cứ lải nhải về tài năng và công việc của thằng nhóc ít tuổi nhất tòa soạn. Cậu ấy biết, sâu thẳm trong tâm hồn, ta thực ra rất dễ mềm lòng, vả lại cậu ấy còn hứa là nếu cho cậu cơ hội, ta sẽ nhận được quà của cậu ấy là một hộp xì gà La Habana. Và nếu Vidal đã nói thế thì cũng giống như thể nhà tiên tri Moise xuống núi, tay cầm những bảng đá ghi Mười Điều Răn và mang theo Thần khải. Thế nên tóm lại, vì đang dịp Giáng sinh, và cũng để anh bạn của cậu ngậm miệng một lần cho xong, ta sẽ trao cho cậu cơ hội khởi nghiệp viết lách như những vị anh hùng: đương đầu với bão táp và thủy triều.” “Nghìn lần biết ơn ông, ông Basilio. Tôi cam đoan rằng ông sẽ không phải hối hận vì đã…” “Đừng vội hăng tiết vịt, chàng trai. Mà trước tiên, cậu nghĩ gì về việc sử dụng bừa phứa và không đúng lúc các phó từ và tính từ?” “Đó là một sự sỉ nhục và đáng bị luật hình sự trừng phạt, tôi đáp lời với niềm tin chắc của một chiến binh quá khích.” Ông Basilio tỏ vẻ tán thành. “Hoàn hảo, Martín. Cậu có những mối ưu tiên tuyệt vời. Những người tồn tại trong nghiệp viết lách này là những người có ưu tiên chứ không phải có nguyên tắc. Vậy thì công việc là thế này. Hãy ngồi xuống và lắng tai nghe cho rõ, vì ta sẽ không lặp lại tới lần thứ hai đâu.” Công việc là thế này: vì một số lý do mà ông Basilio thấy tốt hơn hết là không đi sâu vào chi tiết, trang bìa cuối của số báo ra ngày Chủ nhật từ trước tới nay vốn luôn được dành để đăng truyện ngắn hoặc bài viết về du lịch đã bị để trống vào giờ chót. Nội dung dự kiến là một bài viết thấm đẫm tinh thần yêu nước và một bài thơ trữ tình hừng hực xoay quanh sự nghiệp anh hùng của những chiến binh Almogavare, ngợi ca chiến công bảo vệ đạo Thiên Chúa cũng như mọi giá trị đạo đức trên đời của những hiệp sĩ Catalan thời Trung cổ khi họ tiến quân từ Vùng Đất Thánh và dừng chân tại đồng bằng Llobregat. Thật không may, bài viết không thể hoàn thành đúng hạn định, mà tôi ngờ rằng, đơn thuần là ông Basilio không muốn cho đăng bài đó. Tòa soạn chỉ có sáu tiếng trước giờ phải lên trang toàn bộ số báo, mà hiện lại không có bài nào dự phòng ngoài một trang quảng cáo áo nịt ngực làm từ tấm lược trong miệng cá voi với lời hứa hẹn đảm bảo một vòng eo trong mơ và xóa bỏ những ngấn mỡ thừa. Trước tình thế khó xử, ban biên tập đã quyết định đối đầu thử thách, kêu gọi tài năng văn chương ẩn giàu trong một thành viên bất kỳ của tòa báo, ai cũng được, để chữa cháy tạm và phát hành số báo Chủ nhật với bốn cột chữ mang đậm tính nhân văn hòng thỏa mãn những độc giả trung thành vốn thân thiết như gia đình của chúng tôi. Danh sách những cây bút tài năng được công nhận trong tòa soạn bao gồm mười cái tên, và dĩ nhiên, trong đó không hề có tên tôi. “Martín thân mến, hoàn cảnh trớ trêu khiến không ai trong số những cây bút gạo cội của chúng ta kịp có mặt tại đây vào thời điểm nguy cấp này, cũng không một ai hiện đang ở trong tầm liên lạc. Trước thảm họa đang tới gần, ta quyết định ban cho cậu cơ hội này.” “Xin ông cứ tin ở tôi.” “Ta tin vào năm trang giấy cách dòng đúp hoàn thiện trong sáu tiếng đồng hồ, Edgar Allan Poe* ạ. Hãy mang tới cho ta một câu chuyện, không phải một bài diễn văn. Nếu muốn nghe lời thuyết giáo, ta thà đi dự lễ misa vào lúc nửa đêm. Hãy đem tới đây một câu chuyện mà ta chưa từng đọc, và nếu ta đã đọc truyện nào tương tự rồi, hãy viết thật khéo sao cho ta không nhận ra chút quen thuộc nào trong đó.” Tôi đang định chạy biến đi thì ông Basilio đứng dậy, đi vòng qua bàn, đoạn đặt bàn tay vừa to vừa nặng không kém gì cái đe bằng thép lên vai tôi. Đôi mắt ông như đang mỉm cười. “Nếu truyện cậu viết đạt tiêu chuẩn, ta sẽ trả mười đồng peseta. Còn nếu truyện hay hơn thế và được độc giả yêu thích, ta sẽ tiếp tục cho cậu đăng bài.” “Còn chỉ dẫn đặc biệt nào nữa không, ông Basilio?” tôi hỏi. “Có đấy: đừng làm ta thất vọng.” Sáu tiếng đồng hồ tiếp theo tôi ở trong trạng thái tập trung cao độ. Tôi ngồi dính lấy chiếc bàn đặt ngay giữa phòng nội dung vốn được dành riêng cho Vidal vào những ngày anh nổi hứng ghé qua tòa soạn. Ngoài tôi ra, căn phòng không có một ai và ngập trong thứ bóng tối mịt mù tù đọng bởi khói của chục ngàn điếu thuốc. Nhắm mắt lại giây lát, trong đầu tôi hiện lên một hình ảnh: một tấm màn kết từ những đám mây đen loang ra trên thành phố đang chìm ngập trong cơn mưa, một người đàn ông vừa rảo bước vừa tìm cách ẩn mình trong bóng tối với máu dính trên đôi tay và bí ẩn hàm chứa trong đôi mắt. Tôi không biết anh ta là ai, cũng không biết anh ta đang trốn chạy khỏi điều gì, nhưng trong vòng sáu tiếng đồng hồ tới đây anh ta sẽ trở thành người bạn thân thiết nhất của tôi. Tôi gài một trang giấy trắng vào máy chữ, rồi không ngừng lấy một giây, bắt đầu vắt kiệt mọi câu chữ xuất hiện trong đầu mình. Tôi vật lộn với từng từ, với mỗi câu cũng như các cấu trúc, hình ảnh và chữ cái, như thể đó là những điều cuối cùng tôi viết ra. Tôi viết rồi viết lại từng dòng như thể cả cuộc đời tôi phụ thuộc vào đó, rồi tôi còn viết lại thêm lần nữa. Bạn đồng hành với tôi là tiếng lạch cạch không ngừng từ chiếc máy chữ vang vọng khắp căn phòng tối tăm cùng chiếc đồng hồ treo tường đang rút dần đi từng phút giây còn lại cho tới lúc bình minh lên. Ngay trước khi kim đồng hồ chỉ sáu giờ sáng, tôi giật trang giấy cuối cùng khỏi máy chữ, thở dài vì kiệt sức, đầu óc quay cuồng như thể bên trong có cả đàn ong đang bay lượn. Tôi nghe thấy tiếng bước chân nặng nề, chậm rãi của ông Basilio, ông đang lững thững tiến tới chỗ tôi sau khi tỉnh dậy từ một trong những giấc ngủ ngắn vẫn luôn được ông kiểm soát chặt chẽ. Không dám đối diện trực tiếp với ánh mắt của ông Basilio, tôi xếp lại các trang bản thảo và đưa cho ông. Ông Basilio ngồi xuống cái bàn ngay cạnh, đoạn bật đèn đọc lên. Đôi mắt ông lướt trên bản thảo, không để lộ chút cảm xúc nào. Rồi ông đặt điếu xì gà xuống cạnh bàn, đoạn liếc nhìn tôi và đọc to dòng đầu tiên trong truyện: “Màn đêm buông xuống thành phố, những con đường ngập trong mùi thuốc súng như hơi thở của một lời nguyền.” Ông Basilio liếc mắt nhìn tôi còn tôi thì trốn sau nụ cười không để lộ dù chỉ một chiếc răng. Không nói thêm một lời, ông đứng dậy rồi bỏ đi cùng tập bản thảo của tôi trong tay. Ông khép cánh cửa lại sau lưng. Tôi sững sờ đứng ngây ra đó, không biết nên chạy trốn hay ở đây đợi chờ án tử giáng xuống. Mười phút sau - thực ra tôi có cảm giác như đã mười năm trôi qua - cửa phòng làm việc của phó tổng biên tập bật mở và giọng nói như sấm rền của ông Basilio vang khắp khu phòng nội dung. “Martín. Làm ơn lại đây.” Tôi lết vào phòng ông chậm rãi hết mức, cứ mỗi bước lại rụt cổ so vai, tới khi không còn lựa chọn nào khác là ló mặt vào phòng và ngước nhìn lên. Ông Basilio, với cây chì đỏ đáng sợ trong tay, lạnh lùng nhìn tôi. Tôi muốn nuốt ực một cái, nhưng miệng lại khô không khốc. Ông cầm tập bản thảo lên và đưa cho tôi. Tôi nhận lại xấp giấy và quay về phía cửa nhanh hết mức, tự nhủ với bản thân rằng chắc vẫn còn chân đánh giày ở sảnh khách sạn Colon. “Hãy mang xấp bản thảo xuống phòng sắp chữ và bảo họ lên trang ngay,” giọng nói phía sau lưng tôi ra lệnh. Tôi quay phắt lại, chắc mẩm mình chính là nạn nhân của một trò đùa ác. Ông Basilio mở ngăn kéo bàn làm việc, đếm đủ mười đồng peseta rồi đặt lên mặt bàn. “Đây là phần của cậu. Ta khuyên cậu nên dùng số tiền này sắm cho mình một bộ cánh ngon lành hơn, vì ta thấy cái thứ cậu đang mặc vẫn y như vậy sau bốn năm trời, chưa kể còn to hơn cậu đến tận sáu cỡ. Nếu muốn, cậu cứ thử ghé qua tiệm quần áo của ông Pantaleoni trên phố Escudellers, cứ nói là ta giới thiệu cậu. Ông ấy sẽ tiếp đãi cậu tử tế.” “Cảm ơn ông rất nhiều, ông Basilio. Tôi sẽ làm như vậy.” “Còn giờ hãy tiếp tục nghĩ thêm những truyện khác cho ta. Ta cho cậu một tuần lễ. Nhưng đừng ngủ quên trên chiến thắng. Và lần này cậu phải xoay xở sao cho có ít xác chết hơn đấy, bởi độc giả ngày nay chuộng những cái kết lâm ly trong đó tinh thần nhân đạo cao cả chiến thắng trước mọi tai ương, đại loại là mấy trò nhảm nhí kiểu như vậy.” “Vâng thưa ông Basilio.” Phó tổng biên tập chìa tay ra. Tôi bắt lấy tay ông. “Làm khá lắm, Martín. Vào thứ Hai tới ta muốn thấy cậu ngồi ở cái bàn trước từng thuộc về Junceda, giờ nó là của cậu. Ta xếp cậu vào bộ phận chuyên viết tin vặt.” “Tôi sẽ không khiến ông thất vọng đâu, ông Basilio.” “Không, cậu sẽ không khiến ta thất vọng. Cậu sẽ chỉ bỏ ta mà đi thôi, chẳng sớm thì muộn. Và cậu hoàn toàn đúng khi làm vậy, vì cậu không phải một nhà báo và sẽ chẳng bao giờ làm được nhà báo. Nhưng giờ cậu vẫn chưa phải tiểu thuyết gia trinh thám đâu, dù cậu cứ tưởng là như vậy. Hãy ở đây một thời gian và bọn ta sẽ chỉ dạy cho cậu một vài mánh mà về sau sẽ luôn hữu dụng.” Vào giây phút ấy, lá chắn phòng thủ đột ngột rơi xuống, tôi ngập tràn trong cảm giác biết ơn đến mức tưởng chừng muốn ôm chầm lấy người đàn ông to lớn trước mặt. Ông Basilio, vừa đeo lại chiếc mặt nạ dữ dằn quen thuộc, ném cho tôi một cái nhìn sắc lẹm rồi chỉ thẳng về phía cửa. “Làm ơn đừng diễn mấy trò xúc cảm ở đây. Đóng cửa lại. Và Giáng sinh vui vẻ.” “Chúc ông Giáng sinh vui vẻ.” Vào ngày thứ Hai tuần kế tiếp, khi đến phòng nội dung và sẵn sàng ngồi vào bàn làm việc riêng của mình lần đầu tiên, tôi nhìn thấy có một phong bì giấy xám buộc ruy băng, trên đó là tên tôi được gõ bằng chiếc máy chữ mà tôi đã miệt mài sử dụng suốt nhiều năm nay. Bên trong phong bì là trang bìa cuối số ra ngày Chủ nhật cùng với câu chuyện của tôi được đóng khung hẳn hoi, kèm theo đó là một tờ giấy nhắn: “Đây mới chỉ là khởi đầu thôi. Mười năm nữa tôi sẽ thành tay thợ học việc còn cậu sẽ là thầy. Bạn và đồng nghiệp của cậu, Pedro Vidal.” Mời các bạn đón đọc Trò Chơi Của Thiên Thần của tác giả Carlos Ruiz Zafón & Ngô Hoàng Việt (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hẹn Gặp Ở Samarra
Hẹn gặp ở Samarra là tác phẩm đầu tay nổi tiếng nhất đạt đến vẻ đẹp kinh điển của một tác phẩm hiện thực. Mùa Giáng sinh năm 1930, trong giới quý tộc ở Gibbsville người ta chỉ tiệc tùng và khiêu vũ, các dàn nhạc chơi đến sáng và rượu tuôn chảy suốt đêm. Hạt nhân của nhóm quý tộc là cặp vợ chồng trẻ Julian và Caroline English, họ nổi bật đến mức cả người quenn cũng như người lạ đều lấy làm ganh tỵ với họ. Nhưng trong một giây phút bộc phát với việc hắt một ly rượu vào mặt một người khác, Julian đã phá vỡ trật tự của giới này rồi bắt đầu đoạn trượt dài dẫn đến việc tự huỷ hoại mình chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Hẹn gặp ở Samarra tái hiện một cách tài tình, sống động bi kịch cá nhân cũng như những mâu thuẩn cay đắng trong cuộc sống ở một tỉnh lẻ trong nửa đầu thế kỷ 20. Với tác phẩm này, John O’Hara đạt đến đỉnh cao trong bút pháp hiện thực châm biếm của một nhà văn lớn và đó là lý do tác phẩm này luôn có mặt trong danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất trong mọi thời đại. Được Time Magazine xếp vào danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ năm 1923 tới năm 2005. Được Modern Library xếp ở vị trí thứ 22 trong danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất của thế kỷ 20. Bộ phim cùng tên do Robert Benton đạo diễn sẽ được ra mắt vào 31 - 12 - 2010. “…Ôi trời ơi, mẹ biết làm gì với con đây?”, bà Walker kêu lên. “Mẹ đáng thương”, Caroline kêu lên, giang hai tay ôm lấy mẹ. Cô thương cho bà, biết bà không đau đớn gì lắm trong chuyện này. Sự cố này chỉ khuấy động nỗi đau của riêng bà. Bà là người lúc nào cũng sẵn sàng biểu thị nỗi buồn, khiến bà chủ động hơn trong khi chia sẻ nỗi đau với con gái. Ngay từ đầu Caroline đã cố gắng không nghĩ đến Julian, nhưng mà trời đất ơi, ngoài anh ra cô còn có thể nghĩ đến chuyện gì được nữa? Cô nhớ đêm hôm ấy, mẹ đi vào phòng cô và bảo bố chồng cô đang ở dưới nhà muốn gặp cô. Thỉnh thoảng khi nghĩ lại điều này, cô muốn nói, “Mình biết điều này. Ngay lúc đó mình đã biết là có chuyện”, nhưng rồi cô trở nên trung thực và tha thứ cho mình bởi vì cô chẳng có cảm nhận gì hết. Có một cái gì không ổn, cô biết, nhưng sự thực là cô đã định từ chối không gặp ông già. Cô biết chuyện này thế nào cũng liên quan đến Julian mà cô thì không muốn nghe gì về anh nữa. Nhưng trí khôn, không phải là bản năng của cô, nhắc nhở rằng, trong khi cô đang nằm trong chăn ấm nệm êm thì chắc ông già chồng sẽ là người cuối cùng trên đời vào lúc đêm hôm buốt giá thế này lại đến đây mà không có lý do gì chính đáng. Ông nói mình mang đến một tin xấu kinh khủng - câu này nghe như lời dạo đầu cho một câu chuyện “Đây là điều tức cười nhất mà bạn từng nghe” hoặc “Điều này sẽ giết bạn mất thôi”. Nhưng chẳng có điều gì mà bác sĩ English nói lại giống với một lời mào đầu hết. Ông là một người kín kẽ và nói ngay vào chuyện mà không chờ cô hỏi. “Ông Harley tìm thấy Julian trong xe hơi ở garage lúc ấy nó đã chết mặc dù ông ấy không biết là nó chết lúc mấy giờ. Chết vì khí carbon monoxide, chất khí độc thoát ra từ xe. Máy vẫn nổ”. Ngừng một lát, ông tiếp. “Caroline à, có vẻ như đây là một vụ tự sát. Con không nhận được lá thư tuyệt mệnh hoặc bất cứ cái gì như thế chứ?” “Lạy Chúa. Ba cho rằng con vẫn ở đây được khi biết những chuyện như thế sao?” “Ba không có ý ám chỉ được gì hết,” ông bố chồng nói. “Ba chỉ muốn xác định cho rõ thôi. Phó thanh tra sẽ hỏi những chuyện như vậy. Ba không thấy có cách nào chúng ta tránh được phán quyết rằng đó là vụ tử tự, nhưng ba sẽ cố. Ba biết mình có thể làm được gì.” Giọng ông vang lên như giọng một chính trị gia không muốn thừa nhận là mình không thể có một địa chỉ gửi thư mới. “Sao ba lại muốn thế? Tất nhiên là anh ấy tự tử rồi”. Caroline kêu lên. “Caroline con yêu,” bà Walker xen vào. “Đừng nói thế cho đến khi con biết chắc mọi chuyện. Thật kinh khủng khi nói như thế”. “Tại sao? Có chuyện gì kinh khủng nào? Ai nói thế? Trời đánh thánh vật các người đi. Nếu anh ta muốn chết thì đó là việc của anh ta, liên quan gì đến ai nào?” “Nó điên mất rồi,” bà mẹ thì thào. “Con yêu…” “Thôi đi đi. Là ông đấy. Ông, ông đâu có yêu thương gì anh ấy. Ông đã làm chuyện đó. Ông già vênh vang tự đắc kia”. “Ôi Caroline, sao con lại có thể nói ra những điều như thế?” “Anh ấy đang ở đâu? Nói đi, anh ấy đang ở đâu? Ông đã đưa anh ấy đi đâu? Ông biết là anh ấy chết à? làm sao ông biết được? Thôi đi, tôi không nghĩ là ông biết được khi nào thì một người chết.” “Nó là con trai ta, Caroline. Làm ơn nhớ cho điều đó. Đứa con trai duy nhất của ta”. “Phải, con trai duy nhất của ông. Nhưng anh ấy không bao giờ yêu quý ông. Tôi nghĩ ông biết điều đó, đúng không? Ông cao quý quá mà, đầy quyền lực và khó chịu làm sao khi chúng tôi đến nhà ông hôm Giáng sinh. Đừng nghĩ là anh ấy không nhận ra điều đó nhé. Ông đã khiến anh ấy tự vẫn chứ không phải tôi”. “Tôi nghĩ tôi phải về thôi, Ella. Nếu bà cần gì thì ghé qua nhà tôi nhé”. “Được thôi, Will”, bà Walker nói. “Tại sao ông lại nói với mẹ tôi trước. Lý ra ông phải thông báo với tôi trước chứ?” “Thôi nào con. Chúc ngủ ngon Will. Tôi không tiễn ông đâu”. “Có phải ông đến để đưa tôi tới anh ấy? Có chuyện gì nào? Anh ấy có bị cháy hay dập nát hết không?” “Làm ơn con yêu,” bà Walker nói “Will, ông có chờ… một phút không?” “Phải, tôi nghĩ thế. Tôi nghĩ thật là kinh khủng với nó khi nghe tin này”. “Này con yêu, nếu con muốn nhìn mặt Julian tối nay”, bà Walker nói. “Ồ chúa ơi, con nhớ ra rồi. Con không thể. Con đã hứa với anh ấy, con không gặp đâu”, Caroline nói. “Con đã hứa với nó! Cái gì vậy? Con đã nói cái gì vậy? Con biết là nó sẽ tự tử à?” Bây giờ thì bác sĩ là người nổi giận. “Không, không,không. Đừng kích động như thế chứ. Cứ khoác cái áo trên người ông, ông già…”. Trong miệng cô là một từ mà Julian hay dùng, nhưng cô đang làm cho mẹ mình bị sốc. Cô quay sang nhìn bà. “Chúng con đã hứa khi làm đám cưới. Chúng con đã hứa sẽ không nhìn mặt nhau nếu một trong hai người chết trước người kia. Nếu anh ấy là người chết trước, thì con, ôi mẹ biết đấy”. Cô bắt đầu khóc. “Đi đi, ông bác sĩ. Tôi không muốn gặp ông nữa. Mẹ ơi”…” *** Hẹn gặp ở Samarra là tác phẩm đầu tay nổi tiếng nhất của nhà văn John O'Hara, được đánh giá là đạt đến vẻ đẹp kinh điển của một tác phẩm hiện thực trong thế kỷ 20. Tên cuốn sách được trích dẫn từ một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn W.Somerset Maugham.   Bản dịch tiếng Việt cuốn "Hẹn gặp ở Samarra" của nhà văn John O'hara do Youbooks thực hiện theo thỏa thuận liên kết xuất bản với Bank of America, N.A. Người dịch: Hồng Vân. Bối cảnh tiểu thuyết diễn ra vào mùa Giáng sinh năm 1930 ở Mỹ. Giới quý tộc ở Gibbsville đang say sưa trong tiệc tùng và khiêu vũ. Tâm điểm của nhóm quý tộc này là cặp vợ chồng trẻ, thành đạt Julian và Caroline English. Nhưng trong một giây phút bột phát vì say rượu và hoàn toàn không có lý do gì cả, Julian hắt nguyên một ly rượu vào mặt Harry Reilly giữa đám đông. Harry Reilly là nhân vật cộm cán trong giới quý tộc và là đối tác làm ăn rất quan trọng của anh. Hành động khiếm nhã này phá vỡ trật tự trong giới và dẫn Julian trượt dài theo con đường tự hủy hoại mình chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Những ngày tiếp theo, Julian lại sa vào những chuyện vô bổ vì tính cách của anh đưa đẩy. Trong một lần uống say, Julian lại ngang nhiên rủ rê một phụ nữ khêu gợi đi cùng anh trên xe riêng trước mặt vợ và bạn bè. Không may cho anh đó lại là bạn gái của một tay xã hội đen. Hẹn gặp ở Samarra tái hiện một cách tài tình, sống động bi kịch cá nhân cũng như những mâu thuẫn cay đắng trong cuộc sống tỉnh lẻ vào nửa đầu thế kỷ 20. Với tác phẩm này, John O’Hara đạt đến đỉnh cao trong bút pháp hiện thực châm biếm của một nhà văn lớn và đó là lý do tác phẩm này luôn có mặt trong danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất trong mọi thời đại. Nhà văn John O’Hara (1905-1970) là nhà văn xuất sắc của Mỹ. Ông nổi tiếng ngay từ tác phẩm đầu tay Hẹn gặp ở Samarra. Nhà văn này từng đoạt giải thưởng National Book Award với tiểu thuyết Ten North Frederick và là tác giả có nhiều truyện ngắn được đăng nhất trên tờ The New Yorker. Ông đã viết 14 tiểu thuyết cùng 400 truyện ngắn. Tờ New York Times nhận xét: "O’Hara chiếm giữ vị trí độc nhất trong nền văn học đương đại của Mỹ. Ông là nhà văn Mỹ duy nhất tái hiện xã hội Mỹ trong cái cách mà nó đã được thể hiện trong tác phẩm của Henry James về nước Mỹ, hay dưới ngòi bút của Proust về nước Pháp". Mời các bạn đón đọc Hẹn Gặp Ở Samarra của tác giả John O'Hara.
Torinoko City - Thành Phố Bị Bỏ Rơi
Tiểu thuyết “Torinoko City” được viết dựa trên nguyên tác nhạc phẩm vocaloid cùng tên của nhà sản xuất nhạc thiên tài 40mP, với chất giọng staccato Hatsune Miku, thể hiện cảm giác lẻ loi trong căng thẳng của các thiếu niên trên con đường trưởng thành. Đặc biệt, sách được tặng kèm 03 bookmark hình nhân vật và 01 postcard trong tất cả các cuốn. Ba cô gái cùng tên Asuka với ba tính cách, hoàn cảnh và nỗi khổ tâm khác nhau, vì cùng ngẫu nhiên tiếp xúc với trang web Torinoko City mà gặp nhau và cùng bước vào một chuyến phiêu lưu đầy lạ lùng để tìm về hiện thực, để đối diện với cảm xúc chân thật của bản thân mình. Câu chuyện dành cho những con người cô đơn trên con đường tìm kiếm lẽ sống của bản thân mình, để nhìn lại và biết rằng mình thực sự không hề cô độc. *** [REVIEW] TORINOKO - THÀNH PHỐ BỊ BỎ RƠI   Nếu bạn thích 1 thể loại nhạc nào đó nhưng trong lớp không ai giống bạn  Nếu bạn từng thấy lạc lõng giữa chốn bạn bè nhưng vẫn phải ra vẻ thích thú những câu chuyện mà mình đếch quan tâm  Nếu bạn từng phân vân không biết ước mơ, mục đích sống của mình là gì  Nếu bạn đang chịu áp lực học hành, mọi nỗ lực không mang lại kết quả hay bị người phía sau đuổi vượt  Bạn Muốn ở 1 mình...? Muốn có người chia sẻ...và nhiều điều khác bạn sẽ thấy có thể giống vs mình trong cuốn truyện này  Đây sẽ có thể là lựa chọn phù hợp vs bạn  Mình đã đọc và phải thốt lên rằng Ô sao Koide Asuka giống mình thế  Như là tìm được 1 sự đồng cảm trong những trang giấy, mình rất thích Torinoko City - Thành Phố Bị Bỏ Rơi  Cre: Thanh Xuân  *** “Chào mọi người”. Koide Asuka là một học sinh cấp ba cực kì bình thường. Mỗi ngày cô đều theo thói quen tới trường mà không thèm quan tâm gì tới mấy chuyện thích hay ghét đi học. “Asuka~, hôm qua cậu có coi phim đó không?”. Vừa vào lớp, tụi bạn chơi chung nhóm liền bắt chuyện với cô như mọi khi. Họ đang nói về bộ phim tình cảm ngọt ngào, bi lụy, hơi gay cấn, và có nam thần tượng đang là chủ đề bàn tán thủ vai chính. Thật ra, Asuka không hứng thú lắm với phim tình cảm, nhưng ngày nào cũng xem để tám chuyện với đám bạn xung quanh. “Coi rồi, coi rồi!”. Asuka giống như diễn viên, bắt đầu diễn vai “Nữ sinh trung học Koide Asuka”. Để hòa hợp với sự hưng phấn của tụi bạn, Asuka nói tới các tình tiết từ nội dung phim đã xem trước đó mà cô cho rằng sẽ nhận được sự đồng cảm của họ. Chẳng biết từ lúc nào mà tụi bạn chung nhóm đã tụ lại, càng lúc càng đông trong chốc lát nhờ bộ phim ngay trước giờ vào học. Mặc dù cô cảm thấy sai sai với tình cảnh này của mình, nhưng trong lòng mọi người chắc ai cũng thấy bình thường, thành ra ngày nào cũng như ngày nào. Tan học, cô đi karaoke cùng với nhóm bạn. Hôm nay là ngày trước kỳ thi nên câu lạc bộ được nghỉ sinh hoạt, cả nhóm có thể ra ngoài chơi. Mặc dù trong lòng Asuka nghĩ rằng đáng lẽ sắp tới kỳ thi thì phải về nhà ôn bài ngay chứ, nhưng nhóm bạn lại cư xử như thể đi chơi là chuyện tất nhiên. Nếu vậy thì nghỉ sinh hoạt câu lạc bộ để làm gì cơ chứ? Biết rằng nói ra sẽ làm tăng thêm kẻ thù nên cô chỉ nghĩ thầm chứ tuyệt đối không thốt ra lời. Tới quán karaoke, Asuka tiếp tục diễn vai nữ sinh bình thường ở đây. Là một nhóm toàn mấy đứa chạy theo trào lưu, tất cả liền nhào vào các bài hát của ca sĩ thần tượng nghe nói có thứ hạng cao, toàn mấy bài kích động hưng phấn. Cả đám đều đứng lên vừa nhảy vừa hát, dù thấy bầu không khí quái đản, Asuka cũng vừa nhảy vừa hát cho giống họ. Thật chả hứng với mấy bài dạng này… Chuyện này không thể nói với ai được. Asuka cũng rất thích hát và nghe nhạc. Gần đây cô hay nghe nhạc vocaloid. Tuy nhiên, cô đoán đám bạn sẽ chẳng thể hiểu về thể loại đó đâu. Mặc dù rất thích các xu hướng trên tạp chí hay tivi, nhưng họ lại đánh đồng tất cả những gì thịnh hành trên mạng với otaku, cô đã chứng kiến nhiều lần những tình huống đáng khinh, ngu ngốc, gây bực mình như thế rồi. Asuka hoàn toàn không có ý định nói ra chuyện mình thích nhạc vocaloid, và tất nhiên cũng không hát các ca khúc đó trong quán karaoke. Cô hát, nhảy, náo loạn theo nhóm bạn dù không thấy có gì thú vị. Asuka cho rằng như vậy mới là nữ sinh cấp ba. Bài hát chủ đề bộ phim bàn tán lúc sáng vừa nổi lên. Một đứa con gái từ tốn lấy micro và bắt đầu hát. Đương nhiên Asuka cũng hát được, nhưng cô chỉ yên lặng lắng nghe. Cô gái đang hát là fan bự của nhân vật chính phim đó. Mọi người trong nhóm đều ngầm hiểu bài hát này là của cô ta. Cả nhóm khen ngợi sau khi cô bạn hát xong. “Hay quá ~!”. “Giọng cậu trong thật đó~”. Nếu là nịnh nọt giả dối thì cỡ nào cũng bay ra khỏi miệng được. Thật lòng, mình muốn về nhà nghỉ ngơi hơn là làm mấy việc vô vị thế này. Ở nhà mình sẽ ngồi trước máy tính, vừa kết thêm bạn bè trên mạng qua Twitter, vừa dạo quanh trang Video ca nhạc. Trong lúc Asuka đang nghĩ vậy thì buổi karaoke kết thúc, cả nhóm rộn lên định đi cà phê. Muốn về nhà quá! Không thể nói câu đó được. Lúc Asuka đang phiền não thì có khoảng nửa thành viên trong nhóm đòi về, nên cô liền nhập hội phe về nhà. Chia tay với phe cà phê rồi đi chung phe về nhà tới nhà ga. “Aa! Vui thật!”. Có ai đó lẩm bẩm ra vẻ vui lắm, rồi cuộc trò chuyện về buổi karaoke ấy mau chóng nổ ra. “Nhưng mà này……”. Lúc mấy chuyện vui sắp kết thúc thì lại có ai đó phàn nàn về một đứa bên phe cà phê. Bắt đầu rồi. Đại hội kể xấu. Asuka cực ghét mấy chuyện thế này. Thế nhưng, cô cho rằng mấy đứa nói xấu chỉ là xả stress cho chính mình thôi, họ nói ra miệng sự bất mãn như vậy để giảm bớt căng thẳng. Và có lẽ bên phe đi cà phê cũng đang mở đại hội kể xấu phe này y vậy. Chuyện như cơm bữa mà. Asuka nghĩ để diễn vai nữ sinh trung học, thì chuyện này là không thể tránh khỏi. Cô vừa gật đầu đồng ý vô thưởng vô phạt, vừa trả lời cầm chừng. “Bái bai nha!”. Chia tay với đám bạn đi xe điện khác, cô lên xe cùng với đứa bạn duy nhất học cùng cô từ hồi cấp hai - Kajita Sayuki. Sayuki là kiểu người điềm đạm, mặc dù không biết rõ cô bạn đang nghĩ gì nhưng cô có ấn tượng cô ấy không hại ai cả. “Asuka, cậu hát hay lắm”. Sayuki bắt chuyện như đang nhớ lại buổi karaoke. Bản thân Asuka có tự tin với hát hò, tới mức cô đã tính lúc nào đó tự hát rồi đăng video lên mạng. Vậy nên cô tự nhiên thấy vui khi được khen hát hay. “Cảm ơn cậu. Sayuki đúng là cô bé luôn tử tế mà”. Tự nhiên Asuka lại phát ngôn như người bề trên, nhưng Sayuki ngượng ngùng, vui vẻ chấp nhận một cách ngoan ngoãn. Cô thấy Sayuki thế này thật dễ thương. Sayuki được rất nhiều nam sinh hâm mộ mặc dù trong trường không hề nổi bật. Có lẽ cô ấy tạo cảm giác khiến cho người khác muốn bảo vệ chăng? “Sayuki có gì phiền não không?” Asuka đột nhiên hỏi. Vì Sayuki trông có vẻ rất hạnh phúc. “Phiền não? Chắc là kỳ thi từ tuần sau”. Cô ấy vừa nói vậy vừa lấy sách tiếng Anh ra. Sayuki học yếu môn tiếng Anh. Nên chắc thi tiếng Anh là đau khổ với cô ấy. Sao thấy phiền não của cô ấy vụn vặt thế, ra vẻ đáng ghét một chút rồi đó. “Vậy à?”. Vừa tự hỏi vừa tự trả lời không chút hứng thú, rồi Asuka cũng lấy sách ra. Cô giả vờ như đang ôn bài và thở dài. Cũng không phải Asaka đang phiền não điều gì. Chỉ là, cô có cảm giác mãnh liệt rằng bản thân diễn vai nữ sinh cấp ba quá khác với bản thân thật sự của mình. Bởi vậy, bạn bè ở trường không phải là bạn thật sự. Cô không hề nói chuyện thật tâm, cũng không hề cảm nhận được đó là nơi thuộc về mình. Nói vậy cũng không có nghĩa là cô thân thiết với gia đình. Bố thì bận rộn, không mấy khi ở nhà. Mẹ làm y tá, đi ca đêm suốt. Chị gái điềm đạm đang học cao đẳng, mục tiêu thành giáo viên mẫu giáo, chị Minori. Dù lâu lâu cả gia đình ra ngoài ăn cơm, nhưng vì cả bố và mẹ đều bận rộn, nên hầu như chưa từng đi đâu du lịch cùng nhau cả. “Đâu mới là nơi mình thuộc về?…”. Asuka lẩm bẩm thật nhỏ giọng để Sayuki bên cạnh không thể nghe được. “Hả? Cậu nói gì?”. Sayuki thiệt tình hỏi lại. “Không có gì đâu”. Asuka trưng ra vẻ mặt như không có chuyện gì, mở sách ra. Về đến nhà, như mọi khi, cả bố và mẹ đều không ở nhà. Thêm nữa, hình như nay chị đi làm thêm nên vắng nhà luôn. Cô biết rằng phải học bài cho tuần sau thi. Tuy nhiên, hễ không có ánh mắt giám sát thì khó mà tự ép mình vào khuôn khổ được. Asuka không thay đồ mà ngồi ngay vào máy tính, mở trang video ca nhạc vẫn thường xem lên. Video của 40mP mà cô yêu thích đã lọt vào bảng xếp hạng rồi. Torinoko city. Cô lật đật bấm play video. Âm thanh tinh tinh tinh như tiếng đàn mộc cầm vang lên, chỉ với đoạn dạo đầu thôi mà Asuka thấy cả tâm hồn bị cuốn vào bài hát. – Nơi nào đó chỉ có mình tôi bị bỏ lại Một thế giới không âm thanh, một thế giới nhân tạo – Lời bài hát vang ầm ầm trong đầu cô. “Là mình…”. Bỗng nhiên cô lẩm bẩm ra tiếng. Nơi thuộc về mình là đâu? Rốt cuộc mình là ai? Đối với Asuka ngày nào cũng nghĩ đến điều đó thì không thể không nghĩ rằng bài hát này giống như đang hát về mình vậy. Cô liền mở Twitter lên. Tên tài khoản trên mạng là Toriko. Cô dùng Tori trong Asuka, Ko trong Koide, lấy Toriko làm tên*. Asuka tweet ngay. “Torinoko city của 40mP, hết sẩy…”. Bạn trên Twitter trả lời* lại liền. “Mộc cầm hả? Những ầm thanh giống thế nghe hay ha!”. Bạn bè trả lời tới tấp, cô vừa nói chuyện với bạn vừa suy nghĩ. Đương nhiên là cô cũng thích nhạc bài hát này. Thế nhưng, trên hết, lời bài hát mới là thứ vang dội mạnh mẽ trong trái tim Asuka. Cô không thể truyền đạt hết điều ấy cho bạn bè trên này được. Ở nơi này, Asuka cũng gặm nhấm nỗi cô độc không ai hiểu được bản thân mình. “Lời bài hát này, giống như nói về tôi vậy…”. Asuka vừa tweet lên là có hồi âm liền. “Xin lỗi vì tôi không phải người theo dõi bạn. Mình đâu thể cho bất cứ ai thấy bản thân thật sự được, đúng không?”. Là một người lạ. Icon là lá phong rất đẹp. Tên viết là maple. Asuka ấn nút reply lại ngay. “Tự dưng tôi thấy dường như chỉ mình mình bị bỏ rơi…”. Cô ấn nút reply một cách mạnh bạo. Asuka thấp thỏm trong lúc chờ maple trả lời lại. Lẽ nào là người có thể đồng cảm với mình. Vì lần đầu tiên bộc lộ bản chất thật với người khác, nên cô bất an không biết người ta có chấp nhận không. Ping. Lát sau, âm thanh thông báo có hồi âm vang lên. Cô vội refresh màn hình Twitter. “Lời bài hát Torinoko city khiến cho tôi phải suy nghĩ rất nhiều… dù chỉ 100 từ mà tôi không hiểu được lý do mình sống là gì. Tôi cứ không ngừng suy nghĩ rằng phải chăng là không có ai cần tới mình nữa”. Khoảnh khắc đọc câu trả lời đó, Asuka cảm thấy như đã gặp được thêm một chính mình nữa. Cô liền theo dõi maple, rồi gửi hồi âm. “Mình xin theo dõi bạn! Mình rất đồng cảm với câu trả lời. Hãy làm bạn với nhau nhé!”. Tay cô run run do hồi hộp. Đột nhiên làm thân vậy có bị ghét không ta? Lỡ bị chặn luôn thì làm sao. Cô toàn nghĩ tới những chuyện tiêu cực, nhưng lập tức có âm thanh thông báo được theo dõi lại. Ting. Chắc là maple trả lời. Asuka hơi phấn khích refresh màn hình Twitter. Cứ thế, từ ngày nói chuyện qua lại với nhau lần đầu tiên, Asuka và maple thành bạn thân trong nháy mắt. Hai người gọi nhau là “Toriko” và “Mei*”, kể cho nhau những suy nghĩ hằng ngày trên Twitter. Hình như maple là nam sinh cấp ba. Có điều Asuka cảm thấy cậu ấy thân quen tới mức không nghĩ cậu ấy thuộc dạng người giống với tụi nam sinh cùng tuổi khác. Hằng ngày cuộc sống trường học cứ bình bình, về nhà rồi vừa nói chuyện với maple trên Twitter, vừa xem video đã thành việc thường ngày của Asuka. Và, trái với việc quen được một người bạn có thể nói chuyện thực lòng, việc học ở trường lại dần dần trở nên khổ ải. Ở trường thì đóng vai Koide Asuka, ở nhà thì đóng vai Asuka, dù chỉ qua Twitter thôi nhưng khi để ý thì cô không ngừng nghĩ rằng phải chăng chỉ có Asuka diễn nhân vật Toriko giao tiếp với maple mới là chính mình thật sự. “Mei có ghét trường học không? Tớ khổ sở do không có người nào hiểu được con người thật của mình đó…”. Asuka nhiều lần than thở mấy câu yếu đuối với maple. “Tớ cũng thấy phải tạo ra một tớ khác ở trường đó. Tớ chỉ nói chuyện thực lòng được với mình Toriko thôi đấy”. Một câu thế thôi của maple đã khiến cô vui mừng khó tả. Mỗi lần chuông thông báo có tin hồi âm mới của Twitter vang lên là trống ngực Asuka đập rộn ràng. Một ngày nọ, bố và mẹ mặt mày nghiêm trọng, ngồi đối diện nhau trên bàn ăn cơm. “Bé Mi, bé A, lại đây chút được không?”. Mẹ cùng lúc gọi chị Minori và Asuka. Cho tới giờ Asuka vẫn chán ghét cách gọi bằng cái tên âu yếm này, nhưng cô vẫn ngồi xuống mặc cho mẹ gọi như vậy. Cả nhà im lặng một lúc. Nhìn bố có vẻ sưng sỉa sao đó, còn mẹ trông có vẻ đau khổ. “Mẹ, mẹ sao vậy?”. Minori lên tiếng. Xem xét bầu không khí bất ổn thì dĩ nhiên cô phải lo lắng cho mẹ rồi. “Ừm… thật ra là…”. Mẹ thông báo một chuyện động trời. “Bố tụi con, có người khác”. Một câu thôi, khiến cho cả Minori lẫn Asuka đều bất động như đóng băng. Không thốt ra được lời nào. Người khác?? Đã gần năm mươi tuổi rồi mà có người khác sao?… Asuka chuyển ánh mắt sang nhìn bố, bố vẫn tỏ vẻ bất cần thường trực. “Bố tụi con, hình như đã có người khác từ lâu, nhưng giờ người đó đã có em bé rồi”. Cô không nghe ra trong giọng mẹ có chút tình cảm nào. Mẹ nói chuyện giống như kể chuyện của người khác vậy, Asuka hoang mang bởi lời nói không truyền tải sự tức giận hay nỗi đau buồn nào của mẹ. “Hả, khoan đã. Bố, chuyện là sao!”. Bất giác Asuka hung hăng nói. Minori vẫn cúi đầu. Mẹ chặn Asuka lại, thở ra và nói. “Bố mẹ tính ly hôn”. Vai của Minori run run. Chắc chị đang khóc? Asuka đứng dậy, hét lên. “Bố! Bố lăng nhăng sao? Bố ngoại tình sao? Người ta đã có có bầu rồi sao… Phải vậy không!?”. Asuka tức điên lên, tay đập mạnh xuống bàn phát ra một tiếng rầm thật lớn. “Asuka, bình tĩnh đi con…”. Mẹ khuyên, nhưng cô lại thấy tức giận với cả bộ dạng đó của mẹ. “Sao mẹ lại bình tĩnh như không vậy? Gia đình mình sắp tan nát đó? Bố đã phản bội cả gia đình đó? Mẹ, vậy cũng được hả!?”. Lời nói bạt mạng tuôn ra phó mặc cho cơn nóng giận. Mẹ chạm vào người Asuka, nói. “Phải. Nhưng mẹ đã nhận ra chuyện này từ lâu rồi, mẹ chỉ giả bộ không thấy thôi. Tại mẹ muốn gia đình bốn người mình sống cùng nhau, vì bé Mi và bé A”. Mẹ nói tiếp. “Nhưng mà. Giờ người ta đã có em bé rồi, đâu còn cách nào khác nữa? Mẹ không thể ngó lơ giết chết một sinh mệnh mới hình thành được”. Asuka hiểu những gì mẹ nói, nhưng quả thật cô không thể chịu đựng được sự vô lý đó. “Bố! Bố thấy người đó quan trọng hơn tụi con sao? Đúng không!”. Asuka đứng bên cạnh, lắc người ông. Biểu cảm của ông vẫn không thay đổi, cứ im lặng suốt nãy giờ. Asuka tiếp tục chỉ trích một lúc nữa, nhưng cả bố và mẹ đều không nói gì thêm. “Tồi tệ… Con ghét cả bố và mẹ!”. Asuka nói vậy rồi giam mình trong phòng. Cô có thể nghe tiếng khóc của Minori, tiếng mẹ an ủi chị. Asuka tức tối không chịu được, ném liên tục máy cuốn tạp chí trong phòng ra cửa. Và, mấy ngày sau căn nhà chẳng khác gì chiến trường. Do bố bận rộn công việc thường không ở nhà nên cô ít giáp mặt ông, nhưng việc người bố máu mủ làm chuyện trái luân thường đạo lý, thậm chí còn có con, rồi vứt bỏ gia đình để kết hôn với nhân tình, đối với Asuka tất cả đều là việc làm bẩn thỉu. Không thể chấp nhận ở chung với bố dưới một mái nhà được. Dường như bố mẹ đang tranh cãi gì đó trong chuyện ly hôn. Tiền bồi thường… Tiền cấp dưỡng… Phân chia tài sản… Ngày nào ở trong phòng, cô cũng bịt tai lại vậy mà vẫn nghe được mấy từ đó. Đối với Asuka, chúng chẳng khác gì địa ngục. “Kịch như thế này là đủ rồi đó…”. Asuka nghe nhạc hằng ngày để làm mình phân tâm. Thật ra cô muốn chơi máy tính, nhưng do bố mẹ ở phòng khách - nơi có máy tính, nên dù có muốn cũng không thể được. Cốc cốc cốc. Có tiếng gõ cửa phòng. Asuka không trả lời, Minori liền lên tiếng. “Asuka… chị vào được không?”. Asuka lững thững đứng dậy, mở cửa. Tiếng của bố mẹ văng vẳng sau lưng Minori. Không hẳn là họ la lối nhau, nhưng cũng không phải trò chuyện vui vẻ, nên ngay khi Minori bước vào phòng là Asuka đóng cửa ngay lập tức. “Gì?”. Asuka nói cộc lốc. Cô cũng không định giận cá chém thớt lên Minori, tuy nhiên dù thế nào thì cô cũng không thể nói chuyện bình thường được. “Asuka… Nếu bố mẹ ly hôn, em sẽ ở với ai?”. Đột nhiên Asuka nhận thức rõ hiện thực bởi câu hỏi của Minori, phút chốc trước mắt cô tối sầm. Đúng rồi. Cả nhà không thể ở chung với nhau như thế này được nữa. Bố mẹ ly hôn tức là bắt đầu cuộc sống mới. “Em chưa nghĩ tới… Chị thì sao?”. Asuka hỏi thử Minori vậy thôi, chứ vốn cô đã ra quyết định rồi, vì cô không thể gạt bỏ cảm giác chán ghét với bố, nằm mơ cũng không có chuyện sống chung với bố hay bà nhân tình kia. “Chắc là ở với mẹ. Nếu được ở chung với Asuka luôn thì tốt quá”. Minori luôn luôn hiền lành. Asuka chỉ biết lo bản thân đau khổ thôi, còn Minori lại lo nghĩ cho cả mẹ và Asuka luôn. “Ừ. Em cũng muốn ở cùng với mẹ và chị”. Asuka ngoan ngoãn đáp. Sau đó Asuka với chị bàn bạc về chuyện tương lai một hồi lâu. Cô nghe từ Minori cả mấy chuyện chưa biết tới do bịt tai suốt từ đó tới giờ. Nghe nói ông ngoại tình gần ba năm nay rồi. Tính ra là từ hồi Asuka học cấp hai. Hai đứa con gái bước vào tuổi dậy thì, dần dần rời xa người bố. Mẹ làm y tá, kiếm tiền nhiều hơn bố làm nhân viên văn phòng, có vẻ như bố ôm ấp mặc cảm thấp kém hơn so với mẹ. Đúng lúc đó, ông đã say nắng người phụ nữ nhỏ hơn những mười tám tuổi làm cùng công ty. “Nhỏ hơn mười tám tuổi.”. Asuka thất kinh. Tuổi bà đó không chênh với tuổi Minori là mấy, nói gì tới tuổi bố. “Kinh thật…”. Asuka nói thẳng. Minori nhăn nhó mặt mày. Mặc dù người chị hiền lành tuyệt đối sẽ không nói ra miệng, nhưng chắc chắn trong lòng chị cũng cảm nhận giống Asuka. “Tụi mình chắc sẽ dọn ra khỏi nhà này”. Asuka lẩm bẩm, Minori khẽ gật đầu. “Mẹ đã nói là định dọn nhà đó. Mẹ đang tìm căn hộ trong khu vực Asuka có thể đi học ở trường hiện tại…”. Thông tin của Minori đã dồn Asuka vào thế buộc phải chấp nhận hiện thực đáng ghét này. “Chào các cậu…”. Asuka vui tươi bước vào lớp. Một ngày như mọi ngày lại bắt đầu. Cô nhập vai Koide Asuka - nữ sinh cấp ba. Dẫu trong nhà đang có nguy cơ gia đình ly tán do chuyện ngoại tình của bố, nhưng cô không để ai khác trong trường biết chuyện đó, một chút cũng không. “Này, cái phim hôm qua á…”. Tụi bạn cùng nhóm bắt đầu tụ lại bàn về phim. Asuka thường ngày vẫn luôn xem, nhưng mấy ngày này cô không thể ở phòng khách được nên cũng không xem tivi. Do không biết gì nên cô chuyên tâm giữ vai trò thính giả im lặng. Xung quanh đang hưng phấn bởi cảnh tình yêu nóng bỏng của bộ phim, cô ngồi nghe mà chẳng khác gì tra tấn. “Asuka nè, cậu có nghe không?”. Asuka đang bực mình bởi những chuyện nhạt thếch đó, nên cô hằn học trả lời khi có người hỏi. “Xin lỗi, tớ không xem nên không biết”. Nói rồi liền đi về chỗ ngồi. Asuka vẫn nghe được tiếng thì thầm bàn tán chuyện gì đó của nhóm bạn ở sau lưng. Chắc là đang nói xấu cô rồi. Trước giờ cô luôn lo sợ việc đó, nhưng hôm nay không hứng thú quan tâm nữa. Không ai biết được bản chất thật sự của mình. Chỉ có mỗi suy nghĩ đó càng lúc càng hằn sâu trong đầu. Lâu rồi mới không có ai ở nhà lúc Asuka về. Theo như Minori nói, bố mẹ đã quyết định chính thức ly dị, mẹ đang tìm nhà mới. Hình như Minori cũng không biết gì về bố hết. Có lẽ ông sắp sửa dọn ra khỏi nhà rồi. Trong căn phòng mờ tối vắng lặng, Asuka không bật đèn mà tới ngồi trước máy tính. Tinh. Máy tính khởi động, ánh sáng hắt vào Asuka. Vừa đăng nhập vào Twitter, cô thấy một loạt tin nhắn. “Toriko, sao vậy?”. “Cậu khỏe không?”. Kể từ ngày phát hiện chuyện bố ngoại tình, lâu rồi cô không lên Twitter, nên mọi người nhắn tin hỏi thăm. “A, lâu quá mới twitter lại!”. Asuka tweet lên, nhiều bạn bè trả lời lại liền. “Toriko! Sống lại rồi à! Mừng quá!”. “Ầy, lâu quá!”. Nhất quyết phải trả lời lại những giọng điệu vui vẻ kia mới được. Ting. Chuông lại báo có hồi âm mới. Cô kiểm tra ngay lập tức, là từ maple. “Toriko! Tớ lo lắm đó! Cậu khỏe không?” Câu văn không khác gì với những người khác, vậy mà Asuka lại đặc biệt vui vẻ. “Mei! Tớ vẫn khỏe. Tại có nhiều chuyện khó khăn thôi!”. Cô mới trả lời xong thì vang lên âm thanh thông báo khác với mọi khi. Một tin nhắn DM* được gửi tới. Cô vội mở ra thì thấy là maple gửi. “Cậu có chuyện gì à? Không sao chứ? Nếu khó nói trên dòng thời gian, thì hãy gửi DM cho tớ nhé?”. Asuka ngỡ ngàng. Cô dự định cư xử một cách bình thường trên Twitter. Do Asuka tweet với mức độ như mọi khi, nên các bạn khác xem ra có vẻ an tâm rồi. Dù bị truy hỏi sâu hơn cũng khó mà trả lời, cái cảm xúc méo mó ‘không ai hiểu được mình hết’ luôn đeo bám dai dẳng một cách xấu xí trong tim cô. Chính vì thế, tin nhắn DM của maple làm cô thấy dường như tư tưởng đó của mình đã bị cậu nhìn thấu, tâm trạng bỗng phức tạp vừa vui vừa sợ. Asuka đột nhiên suy tư, truy cập trang video ca nhạc rồi mở bài Torinoko city lên. Nhạc dạo vui tai bắt đầu vang lên. Asuka thẫn thờ xem video mà không nghĩ gì cả cho tới khi bài hát kết thúc. – Điểm giao nhau giữa lừa dối và sự thực. Cảm giác bế tắc tưởng như bóp nghẹt hơi thở. Tại sao tôi lại sống? Hãy cho tôi biết trong vòng 100 từ – Ca từ bóp nghẹt trái tim Asuka. Đúng lúc này đây cô muốn hỏi ai đó để xác thực ý nghĩa cuộc sống của mình. Mình sẽ nói với maple. Chẳng biết sao Asuka nghĩ vậy. Cồ liền gửi tin DM cho cậu. Chuyện bố mẹ ly hôn. Chuyện cô không thể cho bạn bè trong trường thấy bản thân thật sự của mình. Có một bản thân khác luôn coi thường tụi bạn ngốc nghếch. Chuyện cô luôn cảm thấy tách biệt với mọi người. Và chính cô cũng không hiểu rõ bản thân mình luôn. Asuka gửi tin DM làm bốn lần. Maple có hiểu nỗi lòng của mình không nhỉ? Dù hơi bất an nhưng Asuka có tự tin lạ lùng chắc chắn maple sẽ chấp nhận cô. Thời gian lặng lẽ trôi qua. Asuka nhắm mắt, nhẩm đi nhẩm lại lời bài hát Torinoko City trong đầu. Tâm hồn bình tĩnh một cách kì lạ. Ting. Chuông báo có DM mới. Là maple hồi âm lại. Cô chầm chậm mở mắt, hít sâu. Tay cầm chuột hơi run. Là sợ…sao? Asuka mở tin nhắn, những từ ngữ đồng cảm và khích lệ từ maple nhảy ra. “Vậy à? Khổ cho cậu rồi. Từ giờ về sau cậu tính sao? Có ổn không? Tớ cũng đóng giả bản thân khi ở trường. Toriko cũng vậy nhỉ?…”. Cô tiếp tục đọc, thấy maple thổ lộ cả cảm xúc trong việc học ở trường. Chuyện có thêm một bản thân khác đang nhìn chính mình đùa giỡn với bạn bè bằng con mắt lạnh lùng. Dù gặp khó khăn cũng không thể kể với bạn bè. Nói thật lòng có gì đó thật xấu hổ. Nhưng nhờ có đam mê với một việc, nên cậu đang âm thầm nỗ lực để đạt được nó. Asuka vừa đọc tin nhắn của maple, vừa gật gật đầu. Cô đọc đi đọc lại nhiều lần như để sưởi ấm tận nơi sâu thẳm dưới đáy con tim. Cứ thế, hai đứa nhắn tin trực tiếp qua lại với nhau một hồi, theo đề nghị của maple cô quyết định tạo tài khoản riêng tư khác với tài khoản Twitter hiện tại. Không theo dõi, không tương tác với ai hết. Chỉ hai đứa theo dõi nhau thôi, tạo ra một nơi có thể để lộ bản tính thật sự của mình. Asuka rất vui. Có người hiểu được mình rồi. Tâm trạng như thể đã tìm được nơi trú ẩn vậy. – Nơi nào đó chỉ mình tôi bị bỏ lại Một thế giới không sắc màu một thế giới trong mơ Có thể vứt bỏ vết thương lòng Một mình không thể làm được Tôi muốn bạn ở bên tôi – Mời các bạn đón đọc Torinoko City - Thành Phố Bị Bỏ Rơi của tác giả Shano & Hồng Trần (dịch).
Những Đứa Trẻ Đuổi Theo Tinh Tú
Đuổi theo tinh tú… Cũng không khác gì hái sao trên trời, ngụ ý những ước mơ không thể chạm tới. Biết không chạm tới mà vẫn mải miết theo đuổi, là hành động thường chỉ bắt gặp ở tâm hồn không chịu tuyệt vọng như trẻ thơ. Người ngoài nhìn vào thấy rất ngẩn ngơ, nhưng ấm lạnh ra sao chỉ người trong cuộc biết. Giống như người đàn ông vợ chết, cả quãng đời còn lại chỉ ráo riết tìm đường xuống địa ngục phục sinh nàng… Giống như cô bé vì chút tình mới chớm với một anh chàng, mà nồng nhiệt băng mình vào hành trình không thấy ngày mai dưới lòng đất… Bởi nếu không buông bỏ nhịp sống an toàn dù chỉ chốc lát, để đuổi theo những ước mơ dù vô vọng nhất và đối mặt với cảm xúc của mình ở chặng cuối hành trình, thì cuộc đời họ cũng không còn ý nghĩa gì nữa. Tiếp tục đề tài chia ly, nhưng không đẩy nhân vật lên trời cao như Tiếng gọi từ vì sao xa hay trải ra trên trần như 5 centimet trên giây, lần này câu chuyện của Shinkai Makoto lại dắt tất cả xuống lòng đất, sang thế giới đang mai một bên kia… *** Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú hay câu chuyện về những con người tìm về một giấc mơ Trong quá khứ, đã từng có một Shinkai Makoto dịu dàng, dung dị và tối giản vô cùng vô tận ở những bộ phim, câu chuyện ngắn như Kanojo to kanojo no neko – Nàng và con mèo của nàng. Nhưng hiện tại, lại có một Shinkai Makoto khiến người ta đắm say với các thước phim tráng lệ như một bữa tiệc của tình tiết hòa quyện với đồ họa, âm thanh. Tuy nhiên, dù giản dị hay tráng lệ, dù hiện thực hay hư ảo, điều cuối cùng điều Shinkai Makoto hướng đến vẫn là tái hiện những cảm thức rất riêng của con người, xã hội Nhật Bản thời hiện đại. Và Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, bộ phim được công chiếu vào năm 2011, một trong các tác phẩm có thời lượng dài nhất của Shinkai cho tới hiện tại, cũng không nằm ngoài tư duy nghệ thuật ấy. Để từ đó, tiểu thuyết cùng tên được Akisaka Asahi chắp bút chuyển thể từ ngôn ngữ điện ảnh sang ngôn ngữ văn chương đã phần nào lưu giữ, tái hiện được trọn vẹn “chất Shinkai Makoto”. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú review sách Một áng văn đẹp tựa cổ tích Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, cuốn sách nhỏ chưa đầy 200 trang có một tựa đề đầy thơ mộng, rất gợi, rất thơ, đủ mang tới cho độc giả nhiều suy tư cùng liên tưởng. Tại sao lại là “những đứa trẻ”? “Những đứa trẻ” ở đây là chỉ những đối tượng nào? “Tinh tú” là gì? Là một ngôi sao cụ thể hay là hình ảnh mang ý nghĩa biể tượng nào đó. Và những đứa trẻ kia, vì lý do gì lại phải đuổi theo tinh tú, hành trình ấy sẽ diễn ra như thế nào, có thật thuận lợi, kết quả chúng có thể hoàn thành được tâm nguyện của mình? Quả thực, từ một tiêu đề đầy tính gợi hình, gợi tả, Shinkai Makoto đã mở ra cả một không gian truyện tựa như cổ tích. Ngay chính trong lòng đất nước Nhật Bản thời hiện đại, có một mảnh đất tựa rêu phong phủ kín: Mizonofuchi. Mảnh đất ấy, lại ở ngay phía trên một thế giới dưới lòng đất đang mỗi lúc một suy tàn: Agartha. Cho nên, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, câu chuyện đấy cứ bảng lảng như thực như hư trong những lời kể, trong những dòng không gian xáo trộn, trong những dòng tâm trạng hay những kí ức, suy tưởng vụn vỡ của con người. Không gian sáng tác tựa như cổ tích, dòng thời gian chảy trôi của các tình tiết cũng như một câu chuyện huyền thoại được viết bằng bút pháp hiện đại. Bởi thời gian ở Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú là một dòng thời lưu có nhiều xáo trộn, đan xen giữa hiện thực – quá khứ; vừa là sự tỉnh lược trong những lời trần thuật, vừa là sự kéo dài mỗi khoảnh khắc, mỗi đêm khó khăn, vất vả của cuộc trình giữa hai thầy trò Asuna – Morisaki. Từ đó, mà cốt truyện dần thành hình và độc giả, không chỉ hiểu về nội dung mà còn hiểu sâu về tư tưởng, tình cảm người viết gửi gắm vào tác phẩm, ngay từ các con chữ đầu tiên, xuất hiện trên tựa đề. Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XXI, một thị trấn như bị lãng quên, dòng thời gian như ngưng đọng, nơi đấy, có một cô bé 11 tuổi tên Asuna, dịu dàng, tốt bụng nhưng luôn rụt rè, nhút nhát. Hàng ngày, sau khi tan học, Asuna đều đến mỏm đá cao nơi bìa rừng để bắt sóng cho chiếc radio tinh thể. Tại đây, ngày nọ, Asuna gặp gỡ một cậu bé tên Shun, cư dân của vùng đất dưới lòng đất Agartha. Tình bạn chớm nở giữa hai đứa trẻ và Shun đã cứu Asuna thoát khỏi nanh vuốt một con quái vật. Tuy nhiên, lần đầu gặp gỡ cũng là lần cuối chia tay, Shun chết ngay sau đêm ấy. Và trong buổi học sau đó, Asuna lại được nghe thầy giáo Morisaki nhắc tới mảnh đất Agartha, nơi có thể hồi sinh được người chết. Rồi như định mệnh, Asuna gặp gỡ em trai Shun – Shin, người đến mặt đất lấy lại viên tinh thể Shun để lại. Cô bé, vì quá đỗi kinh ngạc trước sự giống nhau giữa Shin – Shun và nhất là với khao khát cứu sống lại người bạn quá cố, đã cố gắng theo chân cậu bé tới mảnh đất xa lạ kia. Giữa đường, họ gặp cuộc tập kích của những kẻ cũng ôm ấp mưu đồ tới Agartha, trong đó có thầy Morisaki, người đang mang tâm nguyện hồi sinh vợ. Ba con người, mang ba nỗi niềm, tiến đến Agartha, miền đất trong truyền thuyết, nơi lưu dấu những tri thức cổ xưa, nơi cất giữ những bí ẩn cổ đại nhất của nhân loại, nơi ẩn chứa những sức mạnh nằm ngoài tầm với, sự hiểu biết của con người. Và cũng như rất nhiều câu chuyện cổ tích khác, Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, từ mảnh đất của truyền thuyết, với những huyền thoại được thêu dệt, mà con người gửi gắm vào đấy ước mơ, hi vọng. Ước mơ hồi sinh người đã mất, ước mơ được gặp người quá cố, ước mơ tìm về một phần ký ức đã xa, ước mơ được sống những giây phút chẳng còn cô đơn, phiền muộn. “Tinh tú”, vì thế, đâu chỉ tượng trưng cho bầu trời đêm lấp lánh ánh sao trong lần đầu Asuna và Shun gặp gỡ. Đó còn là biểu tượng cho những giấc mơ đẹp, có phần xa xôi nhưng người ta vẫn mãi kiếm tìm, mãi đuổi theo, mãi vươn đến. Bởi, còn đuổi theo tinh tú, con người còn mục đích để tiếp tục sống, tiếp tục hướng đến ngày mai. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú review Câu chuyện cổ tích, nhưng cũng là câu chuyện của thực tại Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, câu chuyện đẹp tựa giấc mơ cổ tích ấy như gieo vào lòng người đọc những xúc cảm rất thơ, rất mộng của một thời thơ bé ta vẫn từng mơ: xứ sở dưới lòng đất, nơi biến khát vọng con người thành hiện thực, những loài sinh vật chỉ là tưởng tượng hay các cuộc phiêu lưu căng thẳng, kịch tính. Nhưng khi tỉnh dậy từ trong giấc mộng được Shinkai Makoto cùng Akisaka Asahi chắp cánh, hẳn mỗi độc giả, mỗi chúng ta, đều nhận ra rằng: Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, tưởng như cổ tích mà lại là câu chuyện hết sức đời thường, đời thường đến nỗi quá đỗi dung dị. Như đã nói, những tác phẩm của Shinkai Makoto, dù trước kia hay bây giờ, dù hiện thực hay hư ảo, đều chuyên chở ở đó những tầm sâu văn hóa và tâm thức rất riêng của con người Nhật Bản thời hiện đại. Và Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú cũng không nằm ngoài tư duy nghệ thuật ấy Shinkai. Dẫu rằng phần lớn dung lượng cuốn sách nhắc đến Agartha, một địa danh không có thực; nhưng không vì thế mà bóng hình Nhật Bản với vẻ đẹp cổ kính, trang nghiêm trong cảnh sắc thiên nhiên, trong những dấu tích văn hóa, sinh hoạt đời thường của con người trở nên phai nhạt. Quê hương cô bé Asuna sinh sống, thị trấn Mizonofuchi, nơi có trường tiểu học Mizonofuchi như ngưng đọng lại những trầm tích thời gian, lịch sử của một nước Nhật giàu truyền thống. “Ngôi trường bằng gỗ được dựng từ đầu thời Chiêu Hòa, cổ kính, đượm màu thời gian”. Và chính cái tên Mizonofuchi – nghĩa đen tức đáy sâu cũng như gói ở đó bao lắng đọng của cả vật chất lẫn tinh thần của mỗi bước chuyển thời gian ở xứ sở này. Ngọn núi ở Obuchi, mũi đất cô bé Asuna vẫn thường đến để thu bắt tín hiệu cho chiếc radio tinh thể có ý nghĩa biểu tượng như chiếc cổng Tori trong văn hóa Nhật Bản: nối liền hai không gian, gắn kết những chiều thời gian để mở ra hai thế giới vẫn luôn song song tồn tại. Và ngay chính vùng đất truyền thuyết Agartha, cũng mang dáng dấp một Nhật Bản cổ xưa, với những nét đẹp truyền thống, những tri thức cổ đang dần đến bờ vực mai một, thất truyền giữa dòng xoáy của thời gian, của lòng người. Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú Trong một câu chuyện gợi nhiều liên tưởng tới không gian văn hóa đặc trưng của xứ sở mặt trời mọc, thì nhân vật hiện lên, cũng mang nét riêng. Đó là những con người hiện đại đều cùng chung tâm thức giữa cuộc khủng hoảng căn cước: cô đơn vô định giữa cuộc đời, mãi kiếm tìm cái tôi bản ngã hay một lẽ sống, tồn tại trong cuộc sống hay mọi người xung quanh. Họ khao khát được khẳng định chính mình, khao khát được công nhận nhưng đồng thời, họ cũng e sợ, rụt rè trong những mâu thuẫn, giằng xé nội tâm gay gắt giữa được và mất. Như cô bé Asuna đã cô đơn biết bao trong cuộc sống của hai mẹ con mà người mẹ luôn bận rộn công việc, không có thời gian dành cho cô bé. Asuna khát khao được kết bạn, được nói lên tiếng nói cá nhân từ thẳm sâu trái tim nhạy cảm. Nhưng mãi cô bé chẳng nói được, vì sợ hãi mà Asuna, cứ dần khép chặt lại cánh cửa con tim. Hay như cậu bé Shin, mãi đuổi theo bóng hình người anh trai thiên tài mà cậu bé như quên đi mất, bản thân cũng là một cá nhân độc lập, có suy nghĩ, có cuộc sống riêng. Và đấy còn là người thầy Morisaki, sẵn sàng đánh đổi tất cả, chỉ để hồi sinh người đã khuất; người thầy đó, như bao năm qua vẫn luôn ôm ấp một bóng ma để làm lẽ tồn tại cho cuộc đời nhiều thương đau. Mỗi con người, mỗi cảnh ngộ, dù già hay trẻ, dù trải đời hay chưa thì đó đều là một mảnh ghép để hoàn thiện bức tranh về Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú. Hay có thể nói chăng, chính là con người, nên dù mãi đuổi theo niềm mơ ước riêng của cá nhân, dẫu có xa xôi, dẫu có viển vông, thì đấy vẫn là ước mơ, đích đến cho con người ta sống, tồn tại, vươn lên dưới bầu trời. Shinkai Makoto – từ ngôn ngữ điện ảnh đến ngôn ngữ văn chương. Điểm mạnh dễ nhận thấy nhất trong phim của Shinkai Makoto sau hàng loạt tác phẩm như Tiếng gọi từ vì sao xa, 5cm/s, Khu vườn ngôn từ… là ở mảng đồ họa trong ngôn ngữ điện ảnh. Các thước phim của ông, đều là bữa tiệc thịnh soạn của hình ảnh, âm thanh, ánh sáng, từ đó mà đầy cảm xúc của người xem đến cao trào. Đó là ưu điểm; song cũng là một sự thách thức cho các nhà văn, khi chuyển thể sáng tác của Shinkai Makoto từ ngôn ngữ điện ảnh sang ngôn ngữ văn chương. Bởi văn chương, chỉ có thể dùng ngôn từ để tái hiện lên những gì vốn là hình ảnh, âm thanh mà thôi. Và với Những đứa trẻ đuổi theo tinh tú, Akisaka Asahi đã phần nào đáp ứng được thử thách khó khăn đấy. Một cuốn sách dung lượng không quá dài nhưng lại để tái hiện một bộ phim có chiều dài gần hai tiếng. Ngôn từ cô đọng, kể, tả, tạo điểm nhấn vào những sự kiện khá đắt giá: lúc Asuna gặp Shun, Asuna và thầy Morisaki những ngày đầu ở Agartha, khoảnh khắc ba con người đem ba vọng ước trên mảnh đất huyền thoại đối mặt với điều ước cải tử hoàn sinh… Để rồi, dẫu không thể mang tới cho độc giả một bữa tiệc của hình ảnh, âm thanh như thế mạnh của điện ảnh; thì Akisaka Asahi, vẫn mang tới cho người đọc một tác phẩm, đủ gợi hình, gợi tả về những giấc mơ đã xa, và về cả những khát khao trong hiện tại lẫn tương lai. Mọt Mọt Mời các bạn đón đọc Những Đứa Trẻ Đuổi Theo Tinh Tú của tác giả Asahi Akisaka & Makoto Shinkai & Lan Hương (dịch).
Dạo Bước Phố Đêm
Một cậu con trai đặc biệt để ý một cô gái có mái tóc đen. Cậu đã lặng lẽ đeo đuổi cô từ một đêm ở Ponto-cho, đến hội chợ sách cũ tại đền Shimogamo, rồi đến cả lễ hội trường. Dù họ học cùng một trường đại học, là bạn bè khóa trên khóa dưới, nhưng cô gái không bao giờ nhận ra cảm xúc của cậu. Dù hai người họ “ngẫu nhiên gặp gỡ” bao nhiêu lần, cô vẫn chỉ nói, “Tình cờ quá anh nhỉ!” Hàng loạt sự kiện hiếm khi xảy ra đã xảy ra, bao nhiêu con người kì lạ đầy cá tính đã tụ tập lại, giúp cảm xúc hai phía tìm được đến điểm hẹn chung. Đây là một tác phẩm văn học đáng yêu thuộc thể loại huyền ảo và pop romance. Cũng là một tác phẩm xuất sắc đã đoạt giải Yamamoto Shuguro và xếp vị thứ 2 trong giải Honya. *** Dạo bước phố đêm Câu chuyện dưới đây không phải của tôi, mà của cô ấy. Để giành giật vai chính trên cõi đời đông đảo diễn viên này, người ta chẳng ngần ngại giở đủ mọi chiêu trò, trong khi cô ấy thì, không mất chút hơi sức nào cũng chiếm hết ánh đèn sân khấu của đêm đó. Bản thân cô chẳng hề nhận ra điều ấy, thậm chí đến tận bây giờ cũng không. Đây là thiên du kí về một đêm ngẩng đầu sải chân bước đi trong hơi men của cô, đồng thời là ghi chép về nỗi chua chát của tôi khi chẳng thể giành được vai chính, đành cam chịu với thân phận hòn đá ven đường. Thưa các bạn độc giả, hãy đọc kĩ và thưởng thức vẻ đáng yêu của cô ấy cũng như sự ngu ngốc của tôi, nhấm nháp hương vị quyến rũ hấp dẫn không thua gì thạch hạnh nhân của cuộc sống, cho đến khi chúng ngấm sâu vào tim nhé. Xin hãy cổ vũ cho cô ấy. Các bạn có biết “Nắm đấm thân thiện” là gì không? Ví dụ, khi có chuyện gì đó xảy ra mà phải đấm vào má người khác, người ta sẽ siết chặt nắm tay. Quan sát thật kĩ bàn tay ấy nhé. Có thể nói ngón cái bọc bên ngoài hệt như một phụ kiện kim loại giúp bốn ngón còn lại khít vào nhau. Chính nhờ ngón cái mà nắm tay đó mới trở thành một nắm đấm thực sự, hoàn toàn đập nát khuôn mặt cũng như lòng tự trọng của đối phương. Lịch sử đã chỉ ra một lẽ tất nhiên là bạo lực sẽ chỉ sinh ra bạo lực mà thôi. Sự thù ghét sinh ra dựa trên ngón tay cái sẽ lan rộng khắp thế giới như lửa cháy trên đồng cỏ. Trong hỗn loạn và đau thương kéo tới ngay sau đó, tất cả những điều tốt đẹp mà ta cần bảo vệ đều sẽ trôi đi theo dòng nước. Nhưng, hãy nới lỏng nắm đấm và chỉnh cho bốn ngón tay còn lại bọc lấy ngón cái mà xem. Khi ấy, nắm đấm vốn trông hung hãn, gồ ghề sẽ trở nên có vẻ rụt rè hơn, đáng yêu hệt như nắm tay của chú mèo mời khách. Chẳng ai có thể dồn hết nỗi căm hận vào một nắm tay nhìn hài hước như vậy cả. Từ đó, chuỗi bạo lực sẽ bị ngăn chặn, mang lại sự yên bình cho thế giới và gìn giữ những điều tốt đẹp ít ỏi còn sót lại. “Nếu nhét ngón cái vào trong thì dù có muốn cũng không siết chặt nắm tay được. Ngón cái bị giấu đi đó chính là tình yêu đấy anh.” Cô nói với tôi như thế. Ngày cô còn bé, chị cô đã dạy cho cô cách tạo “Nắm đấm thân thiện” và dặn, “Em nghe này, là con gái thì không được đụng đâu đấm đó. Song, trên thế giới rộng lớn này, người có đạo đức chuẩn mực và học thức cao lại chẳng được mấy ai, còn đâu chỉ toàn một lũ không ngu xuẩn cũng thối nát, hoặc vừa ngu xuẩn vừa thối nát, thế nên sẽ có những lúc dù em không muốn thì vẫn phải dùng đến nắm đấm, lúc ấy cứ dùng ‘Nắm đấm thân thiện’ chị đã dạy. Một nắm đấm bình thường không có tình yêu, nhưng ‘Nắm đấm thân thiện’ thì có. Sử dụng ‘Nắm đấm thân thiện’ tràn ngập tình yêu và cư xử dịu dàng với tất cả mọi người, em sẽ mở ra một cuộc sống tươi đẹp và hài hòa.” Một cuộc sống tươi đẹp và hài hòa. Những lời ấy đã khiến trái tim cô rung động. Vì thế, cô có một sở trường gọi là “Nắm đấm thân thiện”. Hôm đó là một ngày cuối tháng Năm, sắc xanh căng tràn của cây lá đã phần nào nhạt bớt. Một cựu thành viên câu lạc bộ hồi đại học của tôi là anh Akagawa quyết định tổ chức đám cưới. Nghe đâu tiệc chỉ mời những người thân quen. Tuy hầu như chưa nói chuyện với anh lần nào, tôi vẫn đến dự cưới coi như tỏ lòng kính trọng người thuộc hàng sư phụ mình. Ngoài tôi ra còn vài thành viên khác của câu lạc bộ, trong đó có cả cô ấy. Anh Akagawa hình như cũng là sư phụ của cô ở một môi trường khác. Trên con đường tăm tối từ ngã tư Shijo-Kiyamachi đi xuống dọc bờ sông Takase, có một nhà hàng ba tầng bằng gỗ mang phong cách cổ điển phương Tây đang hắt ánh sáng ấm áp lên hàng cây ven sông. Ánh đèn đã ấm áp, bên trong còn ấm áp hơn. Hoặc nên nói là nóng. Cô dâu chú rể trông rất xứng đôi. Họ thề ước sẽ bên nhau trọn đời, rồi chú rể bế cô dâu lên hôn để chụp ảnh. Sự nhiệt tình ấy lập tức đốt thành than tất cả những người có mặt ở đây, nóng bỏng đến mức ngay cả Chúa vốn điềm nhiên cũng phải e sợ. Nghe nói chú rể làm việc cho chi nhánh của một ngân hàng ở Karasuma Oike, cô dâu là nhân viên nghiên cứu của công ty chế biến rượu ở Fushimi, cả cô dâu lẫn chú rể đều là mẫu người không bận tâm ý kiến của cha mẹ nên đến tận bây giờ hai nhà vẫn chưa gặp nhau lần nào; nghe nói tình yêu của họ chớm nở từ những ngày đầu của năm nhất đại học, trải qua bao gian truân thăng trầm, vượt qua bao đồi núi mới đến được với nhau, vân vân. Các thiên tình sử thường tẻ ngắt, lại thêm chẳng hề quen biết cô dâu chú rể nên tôi càng thấy nhàm chán, đành giết thời gian bằng cách tập trung ăn uống và quan sát cô gái ngồi ở góc bàn. Cô đang nhìn chòng chọc vào một cái vỏ ốc sên cạnh chiếc đĩa lớn, ra chiều thích thú lắm. Dù không hiểu cái vỏ ốc ấy có gì hấp dẫn, việc ngắm cô vẫn làm tôi thấy vui. Cô ấy là đàn em của tôi trong câu lạc bộ. Có thể nói tôi đã yêu cô ngay từ cái nhìn đầu tiên, nhưng vẫn chưa có dịp nào nói chuyện thân thiết. Mặc dù đã nghĩ đêm nay chính là cơ hội trời cho, song, bởi thất bại trong việc tìm cách ngồi cạnh cô ấy nên bao nhiêu kế hoạch của tôi đều ngâm nước nóng cả. Bỗng nhiên người chủ trì đứng dậy, “Tiếp theo đây là bài phát biểu của chú rể Akagawa Yasuo và cô dâu Todo Naoko. Xin mời hai bạn.” Thì ra tên cô dâu là Todo Naoko à? Giờ tôi mới biết. Tiệc cưới ở nhà hàng kết thúc, khách khứa từ từ tràn ra đường. Trong dòng người đang vui vẻ chuẩn bị kéo nhau đi tăng hai, tôi đảo mắt như chim ưng săn mồi, tìm xem liệu sợi chỉ đỏ nối giữa tôi và cô ấy có rơi đâu đó trên đường hay không. Tiếc thay tôi phải thất vọng tràn trề khi thấy cô cúi đầu chào những người khác và rời đi một mình. Hình như cô đang định về nhà. Đã vậy thì tôi chẳng việc gì phải đi tiếp tăng hai cả. Thế là tôi rời khỏi đám người, đuổi theo cô. Tôi không nói nổi thành lời mấy câu như “Em ơi đừng về vội, ở lại uống với anh một ly đã nào”, nhưng cứ phải bám theo cô trước đã. Bên hông nhà ga Hankyu Kawaramachi gần Shijo-Kiyamachi, có một cậu thanh niên đang chơi guitar và khán giả say sưa lắng nghe, những gã đàn ông mặc Âu phục đen đi vòng quanh tán tỉnh các cô gái trên đường, già trẻ gái trai tấp nập tới lui với khuôn mặt đỏ bừng, mong muốn tìm được chỗ nghỉ chân tiếp theo. Tôi đã nghĩ cô sẽ rẽ về hướng cầu Shijo, không ngờ cô trầm ngâm một chút xong vẫn tiếp tục đi theo hướng Bắc. Đằng sau hàng cây xanh um tươi tốt rợp bóng bên bờ sông Takase hắt ra ánh sáng màu cam của một tiệm cà phê lâu đời tên Muse. Trước cửa tiệm, cô làm động tác giậm chân như một con robot, có vẻ đang thầm củng cố quyết tâm làm một điều gì đó. Rồi, cô ưỡn ngực và rẽ vào một hẻm nhỏ. Tôi mất dấu cô ở đấy. Trước mắt tôi là một con hẻm bé tẹo đáng ngờ với các cửa hiệu đèn mờ bị những tòa nhà cao tầng đa dịch vụ bao quanh. Chẳng thấy bóng dáng cô đâu nữa. Cứ bị làm phiền bởi lời mời mọc của những gã đàn ông ở các cửa hiệu hai bên đường, tôi đành phải ra khỏi con hẻm. Chỉ trong chớp mắt, tôi đã để vuột mất cơ hội bắt chuyện với cô ấy. Thế nên, bây giờ tôi sẽ rời khỏi sân khấu, để cô bắt đầu chuyến dạo chơi trong đêm của mình. Và từ đây, cô ấy sẽ là người kể chuyện. Mời các bạn đón đọc Dạo Bước Phố Đêm của tác giả Tomihiko Morimi & Đỗ Phan Thu Hà (dịch).