Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dẫn Luận Về Lịch Sử Nghệ Thuật (Dana Arnold)

Trong sách Dẫn luận về lịch sử nghệ thuật, Dana Arnold giới thiệu những đề xuất, tranh biện, và nghệ phẩm tạo thành bộ môn lịch sử nghệ thuật. Sử dụng một phạm vi rộng mở về các hình ảnh, từ những pho tượng ở đảo Phục sinh đến các tác phẩm hội họa hiện đại, tác giả cho thấy bằng cách nào tự thân các tác phẩm nghệ thuật có thể là điểm khởi đầu cho cung cách đọc lịch sử nghệ thuật và đề nghị một sự đa dạng các đường lối, qua đó chúng ta có thể thưởng ngoạn, suy nghĩ, và thấu hiểu nghệ thuật.

Cuốn sách với một bảng từ vựng phong phú, Dana Arnold phác họa những chiến lược thông giải đã làm sinh động bộ môn lịch sử nghệ thuật. Đây là một dẫn nhập vô giá và dễ tiếp cận về một chủ đề rất được quan tâm.

***

Cuốn sách này là một dẫn nhập tới những đề xuất và tranh biện tạo thành bộ môn lịch sử nghệ thuật và phát khởi từ những quan tâm căn bản của lịch sử nghệ thuật - xác định, phân loại, thông giải, mô tả, và suy nghĩ về những tác phẩm nghệ thuật. Những đường lối trong đó lịch sử nghệ thuật tiếp cận các nhiệm vụ này đã thay đổi qua thời gian. Những thái độ chuyển đổi hướng tới các thông số của lịch sử nghệ thuật, và cách lịch sử có thể chất vấn chủ đề thị giác, đã nêu lên những câu hỏi về việc giới thiệu lịch sử của nghệ thuật thị giác trong hình thức chữ viết và những giới hạn của ngôn ngữ bằng lời nói đã đặt lên khả năng của chúng ta để làm việc này. Trong những năm gần đây, tầm quan trọng tương đối về vai trò của nghệ sĩ, chủ đề, và người xem trong đời sống nghệ thuật cũng đã được đánh giá lại. Những đề xuất ấy đến phiên nó, lại nêu lên những câu hỏi về mối bận tâm của chúng ta với chủ quyền tác giả, tính xác thực, và tiến trình tuyến tính được định nghĩa theo biên niên sử, tất cả đã làm sung mãn quy điển (canon) truyền thống của lịch sử nghệ thuật, và giúp chúng ta thưởng ngoạn, phân tích, xác định lịch sử tính cho nghệ thuật*.

Từ nghệ thuật (art) ở đây quy chiếu đến các nghệ thuật thị giác cổ điển, chủ yếu là tranh, tượng… Tìm mua: Dẫn Luận Về Lịch Sử Nghệ Thuật TiKi Lazada Shopee

Như vậy, lịch sử truyền thống về nghệ thuật nhấn mạnh những thời kỳ, những phong cách và đặt tiêu điểm cho tiến trình nghệ thuật của phương Tây, và điều này có thể làm mờ tối những lối tiếp cận khác, chẳng hạn như việc tập hợp các nghệ phẩm theo chủ đề, hoặc có thể ảnh hưởng đến đường lối thảo luận về nghệ thuật từ những nền văn hóa bên ngoài phương Tây. Vì vậy, tôi đã chọn những thí dụ từ các thời điểm lịch sử và các văn hóa khác nhau để minh họa câu hỏi nền tảng cho các chủ đề. Đây là một Dẫn nhậpngắn gọn, và những hình ảnh tôi sử dụng chỉ cốt để chỉ dẫn về những đề xuất được thảo luận liên quan tới chúng. Như một tổng thể, những minh họa mang tính đại diện cho ‘nghệ thuật cao cấp’/ ‘high art’, tức là nói đến nghệ thuật trong các viện bảo tàng và các phòng tranh (gallery). Tư liệu này khiến chúng ta có thể tra xét một phạm vi rộng rãi những đề xuất xã hội và văn hóa được gói ghém trong lịch sử nghệ thuật.

Tôi bắt đầu với một câu hỏi nền tảng ‘Lịch sử nghệ thuật là gì?’, rút ra những phân biệt giữa lịch sử nghệ thuật với thưởng ngoạn nghệ thuật và phê bình nghệ thuật, và cứu xét một phạm vi những tạo phẩm được bao gồm trong bộ môn này và cung cách những tạo phẩm này đã thay đổi qua thời gian. Mặc dù nghệ thuật là một đề tài thuộc thị giác, chúng ta học biết về nó qua việc đọc và chuyển tải những ý niệm của chúng ta về nó phần lớn trong văn bản. Điều này phát sinh một sự giao lưu giữa những gì thuộc ngôn từ và những gì thuộc thị giác mà tôi khảo sát trong Chương 2. Ở đây, tôi xem xét những lịch sử về nghệ thuật đã được viết ra như thế nào và hậu quả của việc này trên chính tự thân đối tượng và trên những chủ thể của nghệ thuật [tức là những nghệ sĩ]. Những thí dụ từ một khung thời gian rộng mở được sử dụng, gồm cả Pliny, Vasari, và Winckelmann, cùng những văn bản gần đây hơn của Gombrich, Greenberg, Nochlin, và Pollock. Một cuộc thảo luận về những tác giả này giới thiệu những chờ đợi về nghệ thuật mà chúng ta có như một câu chuyện biên niên về các nghệ sĩ phương Tây. Sự thiên vị trong lối thông giải về chủ thể sẽ mở ra những câu hỏi về tầm quan trọng của quy điển trong lịch sử nghệ thuật và cách chúng ta nhìn nghệ thuật phi biểu hình (non-figurative), nguyên thủy (primitive), và ngây thơ (naϊve).

Tầm quan trọng của phòng tranh hoặc bảo tàng - hoặc tổng quát hơn của những cung cách giới thiệu về lịch sử nghệ thuật - được bàn tới trong Chương 3, phác họa sự phát triển của các bộ sưu tập từ những tủ trưng bày các vật hiếu kỳ (cabinet of curiosities) đến các nhà bảo trợ và nhà sưu tập tư nhân ngày nay. Cùng với điều này, tôi thảo luận về sự tác động mà việc thu thập những đối tượng đã có trên giá trị được nhận biết của chúng và trên cách viết về những đối tượng có thể ảnh hưởng đến ‘giá trị’ của chúng. Câu hỏi về quy điển của lịch sử nghệ thuật quay trở lại trong chương này trong tương quan với khả năng của phòng tranh hoặc bảo tàng hoặc ủng hộ hoặc thách thức quy điển ấy. Tôi xem xét điều đó với sự quy chiếu đặc biệt về tầm quan trọng của nhân dạng nghệ sĩ trong việc trưng bày ở phòng tranh và trong lời đáp cho câu hỏi ‘có dị biệt nào tạo ra cho sự giới thiệu về lịch sử nghệ thuật nếu nghệ thuật được giới thiệu với công chúng như một sự thăm dò về chủ thể hoặc như một sự kế tục mang tính biên niên?’ Điều đó cũng làm sung mãn cứu xét của tôi về cung cách những cuộc triển lãm “lớn” đã thay đổi chiều hướng lịch sử nghệ thuật, chẳng hạn triển lãm hậu-ấn tượng/ Post-Impressionism exhibition vào năm 1912 đã tạo ra tên gọi cho phong trào nghệ thuật này.

Mối quan hệ giữa nghệ thuật và tư duy có thể là một quan hệ phức hợp, và trong Chương 4, tôi thảo luận về tác động mà những trường phái triết học đa dạng và lí thuyết phân tâm học đã có trên cung cách chúng ta suy nghĩ về lịch sử nghệ thuật và về vai trò, ý nghĩa, và sự thông giải nghệ thuật. Tôi giới thiệu những ý niệm của các nhà tư tưởng then chốt như Hegel, Marx, Freud, Foucault, và Derrida để cho thấy họ đã tương tác như thế nào với lịch sử nghệ thuật, ít nhất là đối với sự hiện xuất của những lịch sử xã hội về nghệ thuật. Chương 5 tiếp tục thảo luận về ý nghĩa trong nghệ thuật, đặc biệt là về phẩm chất và chủng loại của sự tái hiện, về khoa ảnh tượng kí (iconography), hoặc biểu tượng học, trong các nghệ phẩm qua suốt lịch sử. Trong Chương 6, tôi xem xét những phương tiện truyền thông và những kĩ thuật khác nhau đã được sử dụng để tạo ra nghệ thuật.

Cùng với việc giới thiệu những cung cách suy nghĩ về nghệ thuật và lịch sử của nó, tôi hi vọng cuốn sách này sẽ khích lệ việc thưởng thức và thấu hiểu tự thân các nghệ phẩm và tái củng cố tầm quan trọng của đối tượng nghệ thuật như là bằng chứng hàng đầu của chúng ta, hoặc là điểm khởi đầu, đối với lịch sử nghệ thuật. Nhằm mục đích ấy, chương cuối cùng đưa chúng ta quay lại với bản thân tác phẩm, chú ý tới những đường lối chúng ta có thể đọc tính vật thể của đối tượng trong những hạn từ về kĩ thuật và phương tiện được sử dụng để sáng tạo ra nó, cũng như những phương pháp khác chúng ta có thể dùng để đọc “cái nhìn”.

Cuốn sách này nhằm đến những lợi ích tổng quát cho người đọc, cho người đi xem phòng tranh, và đặt nền tảng cho những khía cạnh của văn hóa thị giác cho những ai học về lịch sử nghệ thuật, khảo cổ học, và văn hóa học. Tôi cố gắng để không sử dụng nhiều từ chuyên môn, nhưng có một số những từ kĩ thuật và thuật ngữ thiết yếu phải sử dụng để nhận biết. Để tâm tới điều này và tính chất dẫn nhập của sách, tôi đã đưa vào một bản từ vựng các từ ngữ về nghệ thuật và một danh sách những địa chỉ mạng về các phòng tranh và các viện bảo tàng để cung cấp một điểm khởi đầu cho sự tìm hiểu các tác phẩm nghệ thuật và những bộ sưu tập quan trọng.

Để đưa ra một thảo luận trong sáng, súc tích về những tranh biện đa phức bên trong lịch sử nghệ thuật, tôi cũng muốn mang lại cho người đọc những công cụ cơ bản thiết yếu cho việc khảo sát chủ đề qua một tầm nhìn bao quát theo thời gian và đề án về một phạm vi rộng mở những đề xuất được kết nối với bộ môn này. Nhưng, quan trọng nhất, cuốn sách là một nỗ lực để chuyển tải việc chúng ta có thể học biết được những gì từ nghệ thuật và để gợi ý một sự đa dạng các đường lối, trong đó chúng ta có thể thưởng ngoạn, suy nghĩ, và thấu hiểu mối quan hệ của con người với nghệ thuật.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Dẫn Luận Về Lịch Sử Nghệ Thuật PDF của tác giả Dana Arnold nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Hán Mạt Triệu Hổ (Thu Phong Tri Liễu)
Năm thứ 6 niên hiệu Trung Bình, Hán Linh Đế băng hà, Thiếu Đế kế vị, cũng là lúc bọn Thập thường thị tác oai tác quái. Đại tướng quân Hà Tiến bị bọn hoạn quan bắt giết. Từ Lương Châu, Đổng Trác tiến vào kinh thành, phế truất thiên tử. Bọn Viên Tào tháo chạy, dấy binh ở Quan Đông. Có lẽ vì không cẩn thận mà anh chàng Trương Triệu Hổ đã phải hoá thân thành Trương Liêu, bỗng chốc bị đẩy vào bầy lang hang cọp, trà trộn vào đám quân dưới trướng Đổng Trác. Xuất thân kém cỏi, danh tiếng lại xấu xa, vậy thì làm thế nào để mưu sĩ dũng tướng quy về? Chỉ có một cách: Cưỡng ép, lường gạt mà bắt về. "Ta thà đánh người trong thiên hạ, chứ quyết không để người thiên hạ đánh ta". Hắn đánh cho Viên Thuật phải căm phẫn đến nghiến răng bặm lợi, đánh cho Viên Thiệu phải nổi cơn tam bành, đánh cho Tào Đại phải kinh hoàng mà tháo chạy, đánh cho bọn chư hầu Quan Đông cùng chung chiến hào phải đến nỗi chia năm xẻ bảy. Tìm mua: Hán Mạt Triệu Hổ TiKi Lazada Shopee Hắn bình định Khương tộc, mở hành lang Hà Tây, quét sạch lũ Hung Nô, đuổi xa rợ Tiên Ti, đánh đại bại bọn Ô Hoàn, mở mang đất, dựng phòng tuyến. Nhưng Trương Liêu vẫn không kiềm nổi cái thở dài: "Cừu địch khắp thiên hạ, kiều thiếp chẳng một người". Giả Hủ sắc diện chẳng lay động: "Đây là nàng kiều thiếp mà Đổng công ban tặng cho nhà ngươi!". Vương Doãn thần sắc nghiêm nghị: "Khắp lộ chư tướng có thể bỏ, tuyệt không thể bỏ Trương Liêu!".***Lúc này đêm đã rất khuya, vẻ tịch mịch chùm khắp nhân gian. Gió thanh chầm chậm thổi đến, tiếng lá nhè nhẹ vang lên. Tiết trời đêm tháng chín đã mang đôi phần lành lạnh, đám côn trùng núp đầy trong bụi cỏ, chẳng rõ là loài gì, lại cất tiếng kêu không ngớt. Trên không trung, một vầng trăng tròn tựa chiếc mâm bạc vẫn treo lơ lửng, vẩy những ánh quang trong thanh như hạt nước rơi nghiêng đầy mặt đất. Bãi thao trường to rộng, bằng phẳng rải đầy những cát, những đá nhỏ vụn, dưới ánh trăng thuần khiết phủ trùm lại tựa như một miền tuyết trắng. Xung quanh thao trường là doanh trại và những giá xếp binh khí. Tiến ra xa xa thì liền thấy những hòn giả sơn chập chùng, những cây cổ thụ cùng toà cung điện và đoạn tường vây cao lớn. Rõ ràng nơi đây khi xưa từng là khu lâm viên của hoàng tộc, duy có khoảng giữa thao trường và doanh trại thì đích thị là về sau mới được xây lại. Nơi đây chính là Tây Viên, vốn là vườn thượng uyển của hoàng tộc, rộng chừng hai mươi dặm, nằm ở mé Tây thành Lạc Dương. Năm thứ 5 niên hiệu Trung Bình, thái tử Lưu Hoằng hạ lệnh tu sửa Tây Viên, san dời giả sơn, chặt hạ cây cối, lấy đất xây dựng thao trường và doanh trại. Tháng tám năm ấy, vua bắt đầu dùng khu đất làm nơi chiêu mộ tráng đinh, lập nên Tây Viên Bát Quân, phong cho bọn Kiển Thạc, Viên Thiệu, Bào Hồng, Tào Tháo, Triệu Duy, Phùng Phương, Hạ Mâu, Thuần Vu Quỳnh làm thủ lĩnh, gọi là Tây Viên Bát hiệu uý. Lại phó cho tên hoạn quan Kiển Thạc dẫn đầu Bát hiệu uý, thống lĩnh Tây Viên binh mã, nhằm ngầm giám sát và hạn chế quyền hành của đại tướng quân Hà Tiến. Nhưng qua năm sau, tức niên hiệu Trung Bình năm thứ 6, thiên tử Lưu Hoằng mới 33 tuổi chỉ vì phóng túng buông thả quá độ mà kiệt quệ, băng hà tại điện Gia Đức Nam cung, thuỵ hiệu là Hiếu Linh hoàng đế. Con trưởng Lưu Hoằng là Lưu Biện vì được sự bảo bọc của mẹ là Hà thái hậu và cậu là tướng quân Hà Tiến nên cứ thẳng băng một đường lên ngôi kế vị. Nhưng thượng quân hiệu uý Kiển Thạc lại muốn lập em của Lưu Biện là Lưu Hiệp làm vua, do vậy hắn bèn bí mật liên hợp với đám Thập thường thị bàn mưu tính kế hãm hại đại tướng quân Hà Tiến. Chẳng ngờ, lũ thập thường thị trở mặt, quay ra bán rẻ Kiển Thạc, ngầm tố giác hắn với Hà Tiến. Hà Tiến liền dùng Mệnh Hoàng môn lệnh đến bắt Kiển Thạc, ung dung đem hắn đi hành quyết. Sau khi Kiển Thạc chết, Hà Tiến lập tức nắm toàn quyền chỉ huy Tây Viên Bát Quân. Lúc này đã sang giờ Dần, trong khu rừng phía sau doanh trại, nằm ở góc tây bắc Tây Viên, ánh trăng vẫn còn toả rạng, len lỏi qua những tán cây đủ loại sắc màu mà bám xuống mặt đất. Trương Triệu Hổ tóc tai rối bù, thần sắc mờ mịt, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn mà ngồi đờ ra trên phiến đá dài. Một canh giờ trôi qua, hắn vẫn tuyệt chẳng thay đổi thần sắc, dường như cả thân xác cũng đã chìm vào cảnh mộng. Trong suy nghĩ của hắn, bao dòng ký ức không ngừng lưu chuyển. Nhưng những ký ức này chẳng phải là của hắn, chúng vốn thuộc về chủ nhân thực sự của thân xác này, một người tên là Trương Liêu. Đúng vậy, chính là tướng quân Trương Liêu, một trong Ngũ Hổ Tướng thời Tam Quốc. Trương Triệu Hổ đưa tay dụi thật mạnh khuôn mặt hồi lâu, rồi hắn cất một tiếng thở dài. Hắn vốn là người của thế kỷ 21, là một công chức chính phủ. Hắn cảm mến một cô giáo dạy môn lịch sử cấp Trung học. Hôm đó, hắn lẻn vào sân trường chơi bóng rổ cùng cô ấy, đang lúc bay mình lên úp rổ, tay bám vào khung rổ, người lơ lửng trên không, vừa định quay người lại nở nụ cười với người tình trong mộng của mình thì không ngờ cột bóng đột nhiên gãy sập, cổ hắn liền bị vướng chặt vào khung rổ. Lần thứ hai tỉnh dậy, hắn sửng sốt tột độ, không biết bằng cách nào mà hắn lại có thể xuất hiện tại một doanh trại binh lính cổ đại như thế này. Ngoài những dòng ký ức lạ lùng cứ liên tục dấy khởi trong đầu, hắn chẳng thể lý giải được thì ngay đến cả thân thể hiện tại, hắn cũng mờ mờ mịt mịt, hắn chỉ biết mình đã trẻ ra đến năm sáu tuổi. Những đoạn hồi ức cứ lởn vởn trong suy nghĩ đã cho hắn biết, hắn đang ở vào cuối thời Hán, tên hắn là Trương Liêu, 21 tuổi, xuất thân từ vùng Bính Châu. Gặp phải cơ sự này, dù là một người tinh thần khoáng đạt vô tư như Trương Triệu Hổ thì thử hỏi liệu có vô tư nổi chăng? Vả lại, dù là kẻ một phân bẻ đôi lịch sử cũng chẳng tường như Trương Triệu Hổ cũng biết rõ rằng, những năm cuối đời Hán, phong ba cuồng nộ, khắp nơi đổ nát, phỉ tặc hoành hành, xương trắng ngổn ngang, thôn xóm hoang tàn, trống trận đua tiếng, khói lửa liên miên, quần hùng dương uy, chia ba thiên hạ. Hôm nay là đúng vào rằm tháng 9 niên hiệu Trung Bình năm thứ 6, Trương Triệu Hổ ngày trước vì theo đuổi nàng "nữ thần lịch sử" trong mộng, nên cũng có gia công trau dồi chút ít kiến thức lịch sử, xem sơ lược qua thời Tam quốc thì hắn cũng biết được rằng năm Trung Bình thứ 6 này vừa là điểm chấm dứt của một thời kỳ và cũng vừa là điểm khởi phát của một thời kỳ mới. Hán Linh Đế băng hà, Thiếu Đế kế vị, bọn Thập thường thị tác loạn, đại tướng quân Hà Tiến đưa thân vào chỗ chết, Đổng Trác tiến kinh phế truất thiên tử, đám chư hầu Viên Thiệu, Tào Tháo chạy đi lánh nạn, không lâu sau lại đua nhau dấy binh, thời kỳ loạn lạc liên miên hơn mấy chục năm bắt đầu từ đây.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hán Mạt Triệu Hổ PDF của tác giả Thu Phong Tri Liễu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hai Trăm Năm Cũ (Anthony Grey)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hai Trăm Năm Cũ PDF của tác giả Anthony Grey nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hải Ngoại Kỷ Sự (Thích Đại Sán)
Năm 1695, theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Châu, Thích Đại Sán từ Quảng Đông - Trung Hoa đã đến vùng Thuận Quảng và lưu lại ở đây từ mùa xuân năm Ất Hợi - 1695 đến mùa hạ năm Bính Tý - 1696. Trong khoảng thời gian đó, ngoài việc sáng tác nhiều tác phẩm thơ ca,… Thiền sư Thích Đại Sán còn ghi chép các sự việc liên quan đến văn hóa, xã hội thời bấy giờ ở vùng Thuận Quảng và tất cả được tập hợp thành tác phẩm Hải ngoại kỷ sự với bài tựa giới thiệu do Đại Việt quốc vương Nguyễn Phúc Châu đề. Sách này do Đại Sán Hán Ông đời nhà Thanh soạn, tất cả 6 quyển. Khang Hy năm Giáp Tuất, đáp ứng lời mời của Việt vương, ông đi qua Quảng Nam; những nơi trải qua, sơn xuyên, hình thế, phong thổ, tập tục ông đều ghi chép tất cả, xen lẫn những thơ văn rất tao nhã hứng thú. Ông chính là một ẩn giả lánh mình trong cửa thiền vậy. Cừu Triệu Ngao bảo sách này gồm có cái hay của Đỗ Thiếu Lăng, Liễu Tứ Hậu, có thể bổ khuyết những điều mà các sách Sơn hải kinh, Hải chí, Chức phương ký, Vương hội đồ chưa từng chép đến…”.(Bút ký tiểu thuyết đại quan)Trân trọng giới thiệu!Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hải Ngoại Kỷ Sự PDF của tác giả Thích Đại Sán nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Gươm Thiêng Trấn Quốc (Uyên Thao)
Sử chép: "Đầu thế kỷ 10, Giao Châu đại loạn. Dân chúng nổi dậy khắp nơi, đánh đuổi đám quan lại phương Bắc, cử Khúc Thừa Dụ lên làm Tiết Độ Sứ. "Khúc Thừa Dụ quê tại Hồng Châu - Hải Dương, là một hào phú nhân hậu được người khắp nước kính phục nhưng cầm quyền chưa tròn một năm đã từ trần. "Khúc Hạo nối chí cha, lo gấp rút xây dựng guồng máy tự chủ, việc còn dở dang lại lâm trọng bệnh qua đời, chuyển gánh nặng cho con là Khúc Thừa Mỹ. Thừa Mỹ nắm quyền sáu năm thì nhà Nam Hán cử Lý Khắc Chính đem quân sang đánh. Khắc Chính thắng trận, bắt được Khúc Thừa Mỹ, tái lập chế độ đô hộ, nhưng bộ hạ họ Khúc khắp 12 châu tiếp tục kháng cự, trong số có Dương Diên Nghệ-" ° ° ° Tìm mua: Gươm Thiêng Trấn Quốc TiKi Lazada Shopee Tiết Độ Sứ Lý Tiến tại An Nam Đô Hộ Phủ vừa áp chế bằng binh lực vừa dùng các cao thủ võ lâm phiêu bạt truy sát con cháu họ Khúc cùng những người chống đối. Trong khi đó, tại hai châu Hoan - Ái, Dương Diên Nghệ ráo riết tập trung binh lực quyết tái chiếm Đại La và giới võ lâm Giao Châu sôi sục chận đánh đám tay chân Lý Tiến. Chết chóc diễn ra khắp nơi, nhất là trên các trục lộ nối liền thành Đại La với hai châu Hoan - Ái. Người qua lại nơi này thường bị bất ngờ cuốn vào giữa vòng gươm dáo và trở thành nạn nhân của các cuộc chém giết đẫm máu. Chính vào thời điểm đó đã diễn ra câu chuyện về thanh gươm mang tên Lạc Hồng Thần Kiếm. ° ° ° Thanh gươm được nhắc tới từ rất lâu trước đó, thuở An Dương Vương khởi công xây dựng Cổ Loa thành. Tương truyền: "Các loài ma quái sợ hết đất dung thân khi thành xây xong nên họp nhau cản phá công việc của nhà vua. Từng đoạn thành dựng lên lúc ban ngày đều bị ma quái xô đổ vào đêm khuya khiến công việc kéo dài mãi trong cảnh dở dang. Cuối cùng, An Dương Vương phải cầu xin thần linh giúp sức. "Thần Kim Qui liền hiện ra đánh bạt hết ma quái, giúp hoàn tất việc xây thành. Trước khi chia tay, Thần tặng nhà vua một chiếc móng, dặn dùng làm nẫy nỏ và chỉ dẫn cách làm nỏ liên châu mỗi lần có thể bắn ra hàng vạn mũi tên". Nhưng việc giữ nước không thể dựa vào một cây nỏ liên châu nên nhà vua vẫn lo lắng xin được Thần giúp đỡ. Thần bèn trao cho nhà vua một thanh gươm và nói: - Lưỡi gươm này có sức mạnh gào mưa thét gió, trừ sạch mọi hiểm họa trên đời. Lạc Long Quân nhờ nó mà mở mang bờ cõi cho giống nòi Lạc Việt, tạo dựng cơ đồ bền vững mấy ngàn năm của giòng họ Hồng Bàng. Nó có tên là Lạc Hồng Thần Kiếm và là vật báu trấn quốc của đất nước này. Thần nói thêm về đặc tính của thanh gươm: - Sức mạnh của gươm không nằm nơi nước thép mà nằm trong các bí quyết được khắc trên hai mặt gươm, một bên là Toàn Phương Kiếm Phổ, một bên là An Định Chân Kinh. Nhà vua không thể dùng gươm để xung trận nhưng có thể vận dụng những bí quyết trên để tạo một sức mạnh thần kỳ cho toàn cõi Lạc Việt này. Hãy y theo Toàn Phương Kiếm Phổ dạy nghề múa gươm cho ba quân và y theo An Định Chân Kinh để tu dưỡng bản thân, thực hành chính pháp. Làm như thế cho tới khi hòa được hồn mình theo hồn gươm thì người và gươm sẽ hội nhập thành nhất thể tỏa ra một uy lực khả dĩ dời non lấp biển, tạo nên vĩ nghiệp lấn át cả trăng sao. Khi đó, mối lo hiện nay của nhà vua không còn đáng kể nữa. An Dương Vương cúi đầu suy nghĩ hồi lâu rồi lên tiếng: - Muốn hòa theo hồn của gươm, cần phải làm gì? Thần đáp: - Cần phải nhận rõ hồn gươm và lấy hồn gươm làm hồn mình. - Hồn gươm là gì? - Gươm được hun đúc bằng khí thiêng sông núi trên toàn bờ cõi. Hồn gươm chính là hồn thiêng sông núi của đất nước này. - Làm cách nào để biến hồn thiêng sông núi thành hồn của mình? - Cách độc nhất là biến chính bản thân mình thành sông núi. Nhà vua băn khoăn đưa mắt nhìn về phía chân trời trong lúc Thần ngưng tiếng. Một cụm mây trắng lơ lửng treo giữa không trung in bóng xuống dòng Hoàng Giang uốn khúc quanh Cổ Loa thành. Một khắc im lặng trôi qua rồi nhà vua lên tiếng: - E rằng không dễ hiểu hết ngụ ý trong lời nói của Thần. Thần mỉm cười, cao giọng: - Không phải vì sông núi mà có sự sống. Trái lại, chính vì sự sống mà có sông núi. Sông núi là thành trì và sữa ngọt đối với sự sống. Đã trải mấy ngàn đời, sông núi phơi mình ngoài mưa nắng, miệt mài đổ sức nuôi giữ sự sống trong im lặng. Sông núi không bao giờ đòi được che chở, không bao giờ đòi được cung đốn mà luôn luôn sẵn sàng dâng hiến. Thần nhìn thẳng vào mắt nhà vua, chậm rãi: - Kẻ chỉ mưu tận hưởng tới cạn nguồn sữa ngọt và mải mê vun quén cho bản thân không bao giờ biến nổi thành sông núi. Giọng Thần sang sảng khiến nhà vua bất giác rùng mình, ngập ngừng hỏi: - Loại người nào có thể làm nổi điều Thần vừa nói? Thần đáp: - Đó là người đang ngồi trên ngai báu như nhà vua. Đó cũng là kẻ ở giữa đám đông đang trần lưng vác đất dưới chân thành kia. Nhà vua thắc mắc: - Kẻ vác đất dưới chân thành không có thần kiếm trong tay thì dù hòa nổi hồn mình theo hồn sông núi phỏng có ích gì? Thần nói: - Đây là điều mà ta muốn nhắc với nhà vua. Thần kiếm không khi nào chịu biến thành vật vô tri trong những bàn tay bất xứng. Thần kiếm sẽ tự rời khỏi tay kẻ không hòa nổi hồn mình vào hồn thiêng sông núi. Vẫn nhìn thẳng vào mắt nhà vua, Thần nhấn mạnh từng lời: - Ta vừa đặt thần kiếm vào tay nhà vua, nhưng ta không đủ uy lực buộc thần kiếm nằm mãi bên mình nhà vua. Điều này hoàn toàn tùy thuộc nhà vua quyết định. Dứt lời, Thần nghiêng mình chào và biến mất. ° ° ° An Dương Vương sao chép lại Toàn Phương Kiếm Phổ, dạy thuật dùng gươm cho ba quân tướng sĩ. Không bao lâu, khắp nước xuất hiện những kiếm thủ tài ba tuyệt thế. Nhà vua đứng trên thành cao nhìn về bốn phương bừng bừng hào khí. Dưới tay nhà vua là tinh binh mãnh tướng. Bên mình nhà vua là nỏ báu, kiếm thần. Xung quanh nhà vua, Cổ Loa thành sừng sững vách lũy dầy kiên cố sau hào sâu hiểm trở. Nhà vua hướng về phương Bắc nhếch miệng cười ngạo nghễ, phất tay ra dấu. Viên cận thần lập tức xoay về phiá bên hô lớn: - Tấu nhạc! Một loạt âm thanh rung lên. Tiếng tơ đồng quyện theo tiếng sáo chơi vơi dìu dặt rồi những giọng ca trong như tiếng ngọc vươn cao, vươn cao mãi. Nhà vua tựa mình vào thành kỷ, lim dim mắt dõi theo những tà áo màu thướt tha bay múa tựa hàng ngàn cánh bướm chập chờn nô giỡn. Viên cận thần quỳ xuống kính cẩn dâng chiếc ly ngọc chạm hình rồng phủ. Nhà vua đón ly, ngửa đầu uống cạn một hơi. Men rượu khiến nhà vua bừng nóng toàn thân trong một cảm khoái lâng lâng. Những cánh bướm đang chập chờn nô giỡn bỗng đồng loạt chuyển hình thành những tiên nga tuyệt sắc. Những khuôn mặt diễm lệ mê hồn, những tấm thân uốn mềm như tơ liễu dìu nhà vua cất cánh bay lên. Trong khoảnh khắc, nhà vua thấy mình chen giữa bày tiên nữ lơ lửng trên vùng trời ngập ánh hào quang của những vừng mây ngũ sắc. Tiếng nhạc bên tai nhà vua càng lúc càng thêm dặt dìu thánh thót. Nhà vua hết sức đẹp lòng, cất tiếng cười sảng khoái. ° ° ° Tiếng cười của nhà vua vang rền như sấm, chấn động khắp bốn phương. Thần Kim Qui đang ngủ say dưới đáy đại dương bỗng giật mình choàng tỉnh. Thần đánh tay xủ quẻ rồi kinh hãi, lật đật bơi về phía bờ biển Đông. Đúng lúc Thần Kim Qui choàng tỉnh giữa lòng biển cả thì tại Cổ Loa thành, An Dương Vương sa vào quỉ kế của Triệu Đà. Nhà vua chưa dứt cơn say, mãnh tướng chưa kịp mặc giáp, tinh binh chưa kịp cầm gươm thì kẻ thù phương Bắc tràn ngập các vách thành. Quân thù dồn lên như thác lũ trong lúc tả hữu hốt hoảng quỳ trước nhà vua nói không thành tiếng: - Muôn tâu, nỏ báu đã mất còn gươm thần không thấy đâu. Nhà vua đau đớn nhìn ra phía ngoài. Tiếng reo hò chiến thắng của kẻ thù dội tới thâm cung. Khắp nơi trong thành nội, những cột lửa đỏ bốc lên ngùn ngụt nhả khói vào vùng trời còn xanh thẳm buổi chiều qua. Nhà vua đờ đẫn nhìn khói đen dầy đặc đang tỏa rộng che rợp Cổ Loa thành, bên tai văng vẳng giọng năn nỉ tuyệt vọng của tả hữu: - Xin nhà vua cùng công chúa rời ngay hoàng cung chạy về biển Đông lánh nạn. Tương truyền: "Tại bờ biển Đông, Thần Kim Qui đang chờ sẵn. Thần lặng lẽ ngậm ngùi rẽ sóng mở lối cho nhà vua bước sâu vào lòng biển cả". Từ đó, cuộc truy tầm tung tích Lạc Hồng Thần Kiếm bắt đầu và kéo dài căng thẳng từng ngày.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Gươm Thiêng Trấn Quốc PDF của tác giả Uyên Thao nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.