Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bãi Gió Cồn Trăng (Hồ Trường An)

Truyện Bãi Gió Cồn Trăng là một truyện mới được giới thiệu với bạn đọc trên trang đọc truyện online, một truyện đầy sức hút với những tình tiết thú vị. Truyện như một bức màn bí ẩn phủ lên mọi chuyện tưởng như là chỉ có những mơ hồ nhưng khi bước vào truyện mới thực sự thấy được mọi thứ dưới ánh sáng. Có nhiều uẩn khúc quẩn quanh, có nhiều bí mật cần phải chờ lời hồi đáp, nhưng liệu đi đến cuối truyện có tìm được câu trả lời hông, mời bạn đón đọc truyện kinh dị, trinh thám này.***

Thời gian vẫn dằng dặc tiếp nối. Máy tạo hóa luôn cần mẫn xoay vần. Lớpsóng phế hưng cứ tái diễn không ngừng nghỉ. Thăm thoắt mà tám năm trờitrôi qua.

Ông Năm Tảo vẫn tiếp tục nghề xem mạch hốt thuốc. Bà Năm Tảo ngoàiviệc nội trợ, thương viếng thăm hai cô con gái và hai chàng rể để có dịp hủ hỉ với lũ cháu ngoại. Ông Chín Thẹo qua đời. Bà Chín Thẹo tuy cóbuồn đôi chút nhưng rất hãnh diện vì lũ con trai mình ăn nên làm ra, còn cô con gái út của bà được làm vợ một bực ăn học, trở nên ngươi đàn bàtrung lưu có tư cách. Bà Mười Thiệp và ông bà Mười Hai cất am bên bờrạch Tân Giai tu hành, ra công giúp đỡ người trong làng, trong xóm.

Cô Út Ngọc An sanh cho chồng một trai hai gái. Cô càng sanh đẻ, máuhuyết càng thay đổi, càng lồ lộ vẻ tươi mát nuột nà. Ông Đốc học Hạnhxoay qua viết biên khảo về kinh điển Phương Đẳng Đại thừa. Cô Hai TúyNgọc sanh cho chồng ba cậu con trai. Vóc vó cô vẫn thanh cảnh, thần thái cô vẫn giữa vẻ xán lạn tươi tỉnh. Ông Huyện Khải vẫn trẻ trung và dẻodai. Ông giữ vẹn nếp thanh liêm cho nên lương bổng ông không đủ trangtrải những nghi thức hào nhoáng cần thiết. Mấy năm sau này, song songvới việc làm quan, hễ rảnh rang là ông viết tiểu thuyết loại nghiêng vềgiải trí, rất ăn khách, riết rồi cô Hai Túy Nguyệt coi sóc luôn việcxuất bản sách cho chồng. Ông bác vật Cảnh dắt vợ lên Sài gòn cư ngụ, lập trường tư thục Kiến Thiết, chủ trương tờ Khuyến Nông nguyệt báo nhắmmục đích khuyến khích nông nghiệp và cổ võ việc canh tân nếp sống mớicho dân quê. Cô Ba Túy Nguyệt sanh cho chồng một trai hai gái. Cô đượcngười chồng cô truyền dạy các món môn bánh xưa, nghệ thuật thêu xưa. Rồi cô còn được dì phước Marie vốn là chị con nhà bác bên chồng dạy các Ônthêu đan kiểu Tây và các món bánh nay. Sau đó cô mở nữ công học hiệu đểdạy các lương gia nữ tử các món nữ công phụ xảo. Cô cũng xin bà MườiThiệp cho hai cô Kim Liên và Kim Huệ lên Sài gòn theo học trường cô đểrồi sau này hai cô trở thành giáo sư nữ công trẻ tuổi, được hai thầygiáo lớp nhứt tiểu học Cầu Kho cầu hôn.

Cô Thiệt Nguyện từ khi làm vợ bác sĩ Lê Thạnh Mậu rồi thì được chồng cưng như trứng mỏng. Cô tận tụy săn sóc chồng, coi sóc mọi việc trongnhà châu đáo. Hễ có thời giờ rảnh rang là cô đi săn sóc trẻ em mồ côi,đi làm công quả cho chùa, lo việc đúc tượng in kinh. Cô sanh cho chồnghai cô con gái xinh như mộng, đẹp như tranh. Tìm mua: Bãi Gió Cồn Trăng TiKi Lazada Shopee

Hai cô Agnès Thuận và Isabelle Định thỉnh thoảng có về thăm cô BaCẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ. Họ đã đứng tuổi, tuy chưa phấn lạt hương phainhưng họ sớm lo liệu trước. Cô Agnès Thuận làm vợ kế một thương gia HuêKiều ở Tân An, đối xử với lũ con chồng tử tế nên chiếm được cảm tình của họ. Còn cô Isabelle Định lấy thầy giáo góa vợ dạy lớp nhứt cở Gò Đen.Cô sanh cho chồng một cậu con trai xinh đẹp.

Hai Dần cưới cô Sáu Bạch Huệ, cọn về chợ Phú Quới cách chợ tỉnh sáu cây số. Cô sanh cho chồng cặp hổ bôn hổ bịch kháu khỉnh.

Đã liếc qua gia đạo kẻ hiền lương hoặc bình thường, thì chúng ta nên ghé mắt nhìn qua gia đạo những kẻ vì vô minh mà gây ác nghiệp... chocông bình.

Cậu Hai Luyện tuy trở thành phế nhơn nhưng không vì vậy mà tráchtrời oán đất và giận ghét người đời. Hồi tưởng lại bao chặng đời dĩvảng, cùng ngắm nhìn thói tham lam tán ác của gia đình mình, cậu giựtmình kính sợ cho lẽ thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cho nên cậu ăn nănlung lắm. Cậu tìm kiếm cô Ba Hưởng, giúp đỡ đứa con rơi của cậu ăn học.Cậu cũng tìm cô Hai Thiều, cất am cho cô ở gần nhà tía má cô để cô có kẻ săn sóc. Cậu ăn chay trường, làm nhiều công quả và Phật sự cho các chùa chiền. Cậu cộng tác với cô Thiệt Nuyện giúp đỡ trẻ mồ côi, đóng góptiền cho trường mù, cho nhà thương cùi ở cù lao Rồng, Mỹ Tho. Đều đềucậu tụng kinh cầu siêu cho vong linh cha mẹ sớm thác sanh vào cõi Anbang Tịnh độ.

Hơn lúc nào hết, ba anh em cậu Hai Luyện sát cánh nương tựa nhau sau bao tai biến. Trong năm đầu chịu tàn phế, cậu Hai Luyện có cho người dò la tin tức Bửu. Mãi tới ba năm sau cậu mới nhận được tin tức về ngườiem cùng cha khác mẹ kia. Bửu tu hành trên núi Cô Tô, dưới mái hảo am của pháp sư Chơn Huệ, bên Điện kín, pháp danh Thiệt Tánh. Trong thư viếtcho cậu Hai, sư Thiệt Tánh cho biết năm tới sư sẽ đi Anh Quốc để diễnthuyết tại các cơ sở và các trung tâm Phật giáo cùng với Paul Carlson,một ký giả người Anh rất am tường Phật pháp.

Cậu Hai Luyện bảo hai cô Cẩm:

- Dòng họ mình chỉ có ba người đáng kể. Đó là pháp sư Chơn Huệ, anh Đốc học Hạnh và sư Thiệt Tánh.

Cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ nhìn nhau dửng dưng. Thiệt tình hai côcũng sợ quả báo, nhưng không vì lẽ đó mà họ thích chuyện tu tâm dưỡngtính, bởi nghiệp tham dục của họ còn nặng lắm. Tuy thương yêu anh mình,sát cánh với đương sự để chống chỏi với hoạn nạn tai ương, nhưng làm sao họ bỏ được chuyện làm giàu cùng thú vui nhục dục! Năm nay cô Ba Cẩm Túđã ba mươi lăm tuổi, còn cô Tư Cẩm Lệ đã ba mươi bốn. Cô Ba chuyền từtay ông Chánh tham biện Leblond qua ông Cò mi Carrière khi ông Chánhtham biện về Pháp. Còn cô Tư ăn ở với ông Biện lý Beauregard được bốnđứa con, đứa nào cũng chưa đầy ba tuổi là vong mạng.

Mỗi khi cấn thai, cô đi xin bùa phép trừ tà ếm quỉ để đứa con trongbụng cô không phải là con ranh, nhưng làm sao cô cải được cái ác nghiệphiện hành! Khi đứa con thứ hai chết đi, trước khi chôn, cô thử lấy mựcđỏ vẽ một vết nhỏ cỡ hột đậu ở háng nó. Đứa con thứ ba vừa chui ra khỏibụng mẹ đã có vết son đó. Rồi khi đứa con thứ ba từ trần, cô vẽ thêm một chữ thập nhỏ bằng mực đen trên mông nó. Thế là đứa con thứ tư chẳngnhững mang vết son ở háng mà còn mang chữ thập đen trên mông. Rõ ràngđây là đứa con ranh đầu thai qua năm kiếp.

Đau đớn vì trải qua năm lần chửa đẻ con ranh con lộn nên lần có chửa thứ sáu, cô Tư Cẩm Lệ đi phá thai trong căn nhà một mụ xẩm già có nhàđâu đít với trường học Huê kiều, giáp với miễu Quốc công. Mụ dùng chiếcđũa sắt bọc dây thun ở đầu, bôi lên đầu một chút dầu cho trơn rồi thọcsâu vào tử cung cô. Dây thun quấn vào bào thai vừa tượng hình trong bụng mẹ, bị rút ra khỏi cơ thể của mẹ nó. Cuộc phá thai không quá đau đớnnhư cô tưởng. Cô thầm mong rằng từ đây về sau, bởi trận phá thai kia côsẽ bặt luôn đường chửa đẻ. Nhưng hai ngày sau, trong cơn chiêm bao côthấy Cô Tư Thục hiện về, mắng:

- Đồ khốn nạn! Mầy tưởng đâu phá thai là hết chuyện sao! Thai nhi dù có chết đi thì cũng kể như mầy đã sanh lần thứ sáu rồi vậy. Còn thêm ba lần sanh nữa là đủ chín lần, đứa con ranh con lộn kia sẽ vật mầy chếttươi. Khi nó vừa ra đời là mầy sẽ bị băng huyết sối xả, đố ai cứu được!!

Cô Tư Cẩm Lệ sầu não lắm, thường cùng chị thì thầm than thở rồi khóc sụt sùi. Cậu Hai Luyện khuyên dứt cô em út:

- Nấu mầy sợ sanh đẻ thì cữ kiêng việc chung chạ với chồng. Mầy đãgây ác nghiệp thì chi bằng lo tụng kinh sám hối, dứt chuyện tham dục,bình tĩnh mà trả quả. Có lý đâu mầy cứ huê kia nguyệt nọ hà rầm, lo chạy áp phe chơn không bén đất. Mầy cũng đã trải qua hai tên bạn chăn gối,thôi thì dứt hết nợ phong tình nguyệt trái đi cho khỏe thân...

Và cậu quay qua trách cô Ba Cẩm Tú:

- Còn em, em đã dùng đủ mưu đen chước đỏ đẻ kiếm được người chồngthuộc hạng thượng lưu trong xã hội, vậy mà em không chịu giữ vững hạnhphúc, để rồi giờ trở thành thứ vợ ngày vợ bữa cho bọn ngoại kiều! Em cứcoi cặp chơn cụt của anh đây mà hành xử sao cho khỏi vướng vào vòng taikia họa nọ.

Cô Ba khóc lóc:

- Ai cũng muốn đẹp mặt nở mày chớ ai có muốn làm bia cho miệng đờichê cười sỉ nhục đâu! Bởi em dại dột, nên giờ có muốn kiếm một ông chồng tử tế cũng như mò kim đáy biển mà thôi!

Cô Tư Cẩm Lệ tuy đồng ý với anh mình, nhưng cô đang độ trẻ trungsung sức, lẽ nào cô chịu cảnh cám treo để heo nhịn đói cho được! Bởi đóphá thai chưa trót năm mà cô đã có chửa lần thứ bảy. Cô sợ quá, thỉnhkinh Từ Bi Thũy Sám và Lưng Hoàng Sám Pháp về tụng ra rả.

Một sáng kia, cô Ba Cẩm Tú và cô Tư Cẩm Lệ, kẻ từ nhà ông Cò mi,người từ nhà ông Biện lý, không hẹn mà cùng về Câu Đào để thăm anh. BàNăm Đặng dọn lên bàn bữa đểm tâm ê hề, nào bánh canh giò heo, nào bánhđúc tôm khô, nào cà phê sữa, nào khoai luộc, bắp luộc.

Giũa lúc đó, một tăng sĩ mặt mũi thanh tú, dáng dấp oai nghi, từngoài cửa thung dung bước vào. Ba anh em chưng hửng, ngờ ngợ là ai rồi.Tăng sĩ chiếu cặp mắt sáng như sao nhìn họ, sang sảng bảo:

- Chắc anh chị không nhận ra em. Bửu đây mà. Bây giờ em là Đại đức Thiệt Tánh rồi.

Cậu Hai Luyện cảm động:

- Mừng thầy về thăm nhà sau tám năm tầm sư học đạo.

Cô Ba Cẩm Tú cảm xúc quá, vừa khóc vừa bệu bạo:

- Thầy ôi, gia đình mình tai nạn cứ tới dập dồn. Thầy về đây thăm nhà và ở chơi được bao lâu?Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Hồ Trường An":Bãi Gió Cồn TrăngLớp Sóng Phế HưngTruyện Ngắn - Hồ Trường AnTruyện Ngắn 2 - Hồ Trường An

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bãi Gió Cồn Trăng PDF của tác giả Hồ Trường An nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám (Toan Ánh)
Muốn tìm về quá khứ, đã có Nếp cũ. Còn bạn muốn Toan Ánh có chút "phù phiếm" và rộn ràng, hãy đến với Hội hè đình đám. Tiếp tục hành trình khai quật "lối cũ lề xưa" trong đời sống của người Việt Nam, trong Hội hè đình đám, Toan Ánh sẽ nói về những niềm vui của một thời đơn sơ, những ý niệm tôn giáo lẫn những nỗi niềm khao khát gửi gắm, những nỗi sợ hãi và cả những sự ghi ơn,... Người nông dân cày cấy ròng rã một năm trời để mong đến mùa xuân, để hội làng lại "về" cho gái trai gặp gỡ, cho những cụ già xúng xính áo hoa... Dù là một tác phẩm mang nhiều tính nghiên cứu và thu nhập, tập sách vẫn rộn rã không khí hân hoan của buổi "hội hè". Vừa mang tính tâm linh trang nghiêm vừa là chốn vui chơi trần tục, hội hè là sự phản chiếu thú vị và đa chiều nhất về văn hóa người Việt Nam xưa. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một cách tiếp cận thi vị với Hội hè đình đám.*** Chúng ta phải trở lại thời tiền-đệ-nhị thế-chiến, hay gần nhất cũng phải từ đầu năm Ất-Dậu (1945) trở về trước, cái thời mà phong tục tập quán của dân ta chưa chịu nhiều sự biến-đổi trước áp-lực của thời cuộc, với những sinh hoạt cổ truyền theo tổ-chức xã-hội trong một nếp sống nông nghiệp của tiền-nhân. Những phong-tục tập-quán này biểu-lộ dân-tộc tính Việt Nam với nhiều cái hay cái đẹp, nhiều điều cao-khiết lành-mạnh ngày nay đã dần phai mờ trước cuộc hưng-vong của đất nước. Muốn tìm lại tất cả những cái hay đẹp cao-khiết lành-mạnh ấy, tuy chỉ mới trải qua mấy chục năm, mà sao coi như xa-xôi lắm, và do đó cũng không phải là dễ dàng. Tìm mua: Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám TiKi Lazada Shopee Trong tập sách này, chúng tôi muốn nói tới những Hội-hè Đình-đám của dân ta, những hội-hè đã từng mua vui cho người dân, đã từng chứng tỏ ý niệm thiêng-liêng tôn-giáo của người dân qua lễ-nghi, đã từng nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bực anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị thần-linh, nhất là các vị Thành Hoàng đã che chở phù-hộ cho dân mỗi xã, và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ-nghi, nhớ lại phong-tục. Những Hội-hè đình-đám lại là những dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa dân làng, và có khi giữa dân các làng lân-cận bởi những tục giao-hảo hoặc bởi hội-hè đình-đám làng này đã kéo dân làng khác tới chung vui. Ngày nay ở miền Trung và miền Nam, một đôi nơi, nhân những ngày thần kỵ vẫn còn tổ-chức những cuộc tế-lễ, những trò vui, tuy về mọi phương-diện lễ-nghi, du-hí cũng đã tỉnh-giảm nhiều. Được hân hạnh sống những năm đầu hiểu biết ở một vùng quê, thời đó, mặc dầu là dưới thời Pháp-thuộc, người dân Việt-Nam còn căm-hờn người Pháp đang thống-trị đất nước, người ta vẫn không bỏ qua hội hè, chúng tôi đã được dịp đi dự nhiều hội quê, nhất là những hội ở các tỉnh Bắc-Ninh, Bắc-Giang, Vĩnh-Yên, Phúc-Yên, Hà-Đông, Nam-Định và Thái-Bình, thời đó cách đây tuy xa, nhưng ngày nay hồi tưởng lại có lúc chúng tôi tưởng như mình đang đứng trước một cây đu, đang nghe kể hạnh trong chùa, đang xem một đám vật, đang dự một đám hát quan-họ… Nhớ lại các hội quê, tất cả cái phong-vị hội-hè đình-đám như trở lại trong đầu óc chúng tôi. Và giờ đây, viết những dòng chữ này, chúng tôi muốn bạn đọc cùng thấy với chúng tôi cái không khí của làng xóm quê-hương thuở xưa với bóng cờ ngũ sắc, với những tiếng trống thờ, với đám trai gái vùng quê, quần áo mới màu Tết lũ-lượt dắt-dìu tới những hội làng, vẻ mặt hớn hở, vừa đi vừa nói cười hân-hoan. Hội quê có hội Xuân và hội Thu, hai thời gian mà người dân quê được nghỉ-ngơi rảnh-rỗi, Xuân sau khi đã cấy chiêm và Thu sau khi đã thoát vụ lụt con nước mã và công việc cày cấy vụ lúa tháng Mười cũng đã xong. Trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM, chúng tôi đã trình bầy về đạo thờ Thần, chúng tôi coi như một tôn-giáo hoàn-toàn Việt Nam, và chính do ở sự thờ-phụng thần-linh mà có HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM. Nếu các bạn không lấy làm trở ngại, chúng tôi xin phép coi tập sách này như tập Phụ lục của Bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM. Về Hội-hè đình-đám mùa Xuân, ca-dao ta có câu: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà, Tháng Hai cờ bạc, Tháng Ba hội hè. Câu ca-dao này đã nói lên đủ sự nhàn-rỗi của người dân quê, nhất là người dân quê miền Bác trong ba tháng Xuân. Lúc ấy là lúc cấy chiêm đã xong, mùa gặt tháng Năm lại chưa tới, người dân quê có thì giờ giải-lao, ăn Tết và hội hè. Sống ở một nơi đất hẹp dân đông, riêng ở miền Bắc và miền Trung lại thêm lắm đồi nhiều núi, kỹ-nghệ không có gì, suốt năm người dân quê vất-vả với nông-nghiệp, đầu tắt mặt tối, làm buổi hôm lo buổi mai, hết công việc đồng áng đến công việc vườn tược, rất ít dịp nghỉ ngơi để cùng nhau vui chơi ca hát, ăn uống. Hàng năm chỉ có dịp Xuân là công việc đồng-áng nhàn-rỗi, công việc vườn-tược thưa-thớt, người dân quê có thể cùng nhau chia vui để hưởng thú thanh-bình. Hơn nữa, Xuân tới nghĩa là Đông đã qua, cái mùa rét mướt đã hết, tiết Xuân ấm-áp đã khiến con người hết phải lo vì mưa phùn gió bấc, hết phải lo vì trời lạnh đêm dài, và với mưa Xuân, người ta cũng hết lo đất nẻ ruộng khô, hết lo gió lạnh làm cho cây mạ héo vàng. Người ta có thể nghỉ-ngơi để hưởng thụ mừng xuân, mừng năm mới. Hơn nữa từ ngàn xưa, người Việt-Nam lấy gia-đình làm trọng, lấy quây-quần đoàn-tụ làm hơn, nên trong những dịp giải-lao hưởng thụ, người ta không nghỉ-ngơi riêng-rẽ, và trong lúc vui, người ta muốn được vui chung cùng bạn hữu, cùng họ hàng thân thuộc, cùng mọi kẻ quen người biết ở làng trên xã dưới. Bởi vậy nhân dịp Tết với mùa Xuân, nơi nơi, người ta đều kéo hội để cho dân chúng trong thôn ngoài xã hàng tổng và có khi hàng huyện được cùng nhau chung vui gặp-gỡ. Trong các hội Xuân có hai loại: hội đình và hội chùa. Xin kể gộp cả vào hội đình các hội ở đền, miếu, là những hội tổ chức ở ngay những nơi thờ tự này hoặc ở những khoảng đất chung quanh, nhân dịp khánh-tiết tân-xuân hoặc nhân dịp kỵ-nhật các vị Thành-hoàng, có thể có những trò vui được tổ-chức vào dịp hội, không ở gần các nơi thờ-tự trên, ở một chỗ khác trong làng. Hội chùa tổ-chức tại Chùa làng nhân dịp tân xuân hoặc vào ngày giỗ các vị sư tổ. Ngày hội tuỳ theo mỗi làng thay đổi, có làng mở hội sớm, có làng mở hội muộn, có làng bắt đầu mở hội từ trong năm cho đến ngoài giêng mới hết, có làng sang tháng ba mới mở hội, nhưng thường tháng giêng là nhiều hội-hè hơn cả. Dù trong hội Đình hay hội Chùa, dù hội kéo trong năm hay ngoài Xuân, bao giờ ở hội cũng có rất nhiều trò vui để dân làng và khách trẩy hội giải-trí. Có những trò vui chung thông thường cho mọi hội như: rún đu, cờ bỏi, đốt pháo… lại có những trò vui riêng của từng địa phương: đánh phết, hát quan-họ, kéo co, bơi chải… Trong các thú vui chung có những thú dành riêng cho người già như tổ-tôm điếm, cờ bỏi, thi thơ,… và cũng có những trò vui riêng cho bạn trẻ nam nữ thanh niên, những trò vui này rất nhiều và rất thú vị: đánh phết, đánh trung-bình-tiên, hát quan-họ, hát đúm, thổi cơm thi, nấu cô thi, bơi thuyền, đánh vật… Các cụ bà trong ngày hội, dù là hội đình, có thú đi chùa, nghe kể hạnh… Đấy là chúng tôi không nhắc tới những cuộc tế lễ rước xách chúng tôi đã trình bày trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM, trong chương ĐẠO THỜ THẦN. Về hội hè đình đám mùa thu, thì đây là thời gian dân quê vừa thắng trận phòng đê tháng bảy với con nước Mã nguy-hiểm hàng năm. Vả lại tiết thu mát-mẻ, trời thu trong sáng, tháng tám lại nhằm vào thu-tế, các làng xã mở hội, vào đám dường như muốn ăn mừng đã tránh được nạn lụt, và để tạ ơn thần-linh đã bảo hộ dân làng, mùa tháng mười sẽ được bội thu. Đã vất-vả suốt từ tháng năm, sau vụ gặt chiêm, nay được dịp cấy mùa đã xong, công việc đồng áng đã vơi, người dân quê cũng như dịp xuân tới, phải nghỉ-ngơi và phải hưởng những ngày nghỉ-ngơi. Trời thu đẹp báo hiệu một vụ lúa mùa tốt đẹp, gió thu mát, trăng thu trong như tăng sự hân-hoan của con người trước viễn-ảnh thóc lúa đầy bồ, người người no ấm. Mùa Xuân người ta đã hội-hè, mùa thu người lại hội-hè. Hoặc giả có làng nào, mùa Xuân chưa đình đám ăn chơi, thì mùa thu nhất là tháng tám, là dịp để làng vào đám, dân làng nghỉ ngơi hội-hè. Cũng những cuộc tế lễ rước xách như mùa Xuân, với những trò vui thay đổi tuỳ theo mỗi địa-phương. Trình bày về hội-hè đình-đám của mùa Xuân cũng như mùa Thu, chúng tôi chỉ nói tới những hội-hè chúng tôi biết, lẽ tất nhiên không là bao nhiêu so với số hội hè hằng có xưa ở vùng quê suốt từ Nam tới Bắc. Biết tới đâu chúng tôi nói tới đó, còn những điều không biết, chúng tôi xin nhường lại cho những bậc biết hơn. Ngoài những hội hè đình đám mùa Xuân và Thu, rải rác quanh năm cũng vẫn có những hội làng ở một số các xã thôn, như hội đền Phù-Đổng Thiên vương ở làng Phù-Đổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc-Ninh vào ngày mồng 9 tháng 4; Hội bơi thuyền trên sông Tiểu Đáy của làng Yên-Hạ, tục gọi là làng Me tỉnh Vĩnh Yên vào thượng tuần tháng 5, hội đền Tả quận Lê-văn-Duyệt xã Bình-Hoà, Tỉnh Gia-Định vào ngày 30 tháng 7 v.v… Những ngày tháng của hội này theo kỵ-nhật của vị thần linh được dân làng thờ-phụng. Trong các hội quê, chúng ta có thể phân biệt: - Các hội về lịch-sử liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử được dân làng thờ-phụng làm thần-linh, hoặc liên-quan tới một sự-kiện lịch-sử được dân chúng kỷ-niệm. Hội đền Hai Bà, Hội đền Đức Hưng-Đạo-Vương là những hội liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử, giỗ Trận Đống-Đa là hội liên-quan tới sự kiện lịch sử, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh của Tôn-Sĩ-Nghị. - Các hội về Tôn-giáo. Trong các hội này thường là hội Chùa như hội Chùa Thầy, tỉnh Sơn-Tây, hội Chùa Hương, tỉnh Hà-Đông. Lễ vía bà núi Sam, tỉnh Châu-Đốc, lễ kỷ niệm đức Huỳnh Giáo-Chủ ở Thánh-Địa Hòa-hảo cũng là những hội-hè về tôn giáo. - Các hội hè về phong-tục. Đây có thể là một hội tại một làng thờ một nhân vật lịch-sử không mấy quan trọng, hoặc ở một ngôi chùa làng có những tục lạ của dân chúng từng địa phương. Tất cả những hội nào, không xếp vào hai loại hội trên chúng tôi đều xếp vào loại thứ ba này. Viết về mỗi hội, chúng tôi sẽ cố gắng lần-lượt trình bày: - Nơi và ngày có hội - Thân-tích - Các trò vui trong ngày hội, ngoại trừ những cuộc tế lễ và rước xách thông thường đã có nói trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM. Chúng tôi cũng hiểu, với sự hiểu-biết nông cạn của chúng tôi, tất-nhiên có những điều thiếu sót và có cả những sự sai lầm, nhưng dù sao chúng tôi cũng cố gắng đem hết thiện-chí để mong đạt được tối đa những điều đáng viết về mỗi hội. Để bớt những sự thiếu sót chúng tôi đã tham khảo xem tài liệu ghi trong các sách báo chúng tôi đã được dịp đọc qua, ngoài những điều tai nghe mắt thấy xưa kia ở các hội quê. Saigon, ngày 17 tháng 5 năm 1969 TOAN ÁNHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc ViệtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám (Toan Ánh)
Muốn tìm về quá khứ, đã có Nếp cũ. Còn bạn muốn Toan Ánh có chút "phù phiếm" và rộn ràng, hãy đến với Hội hè đình đám. Tiếp tục hành trình khai quật "lối cũ lề xưa" trong đời sống của người Việt Nam, trong Hội hè đình đám, Toan Ánh sẽ nói về những niềm vui của một thời đơn sơ, những ý niệm tôn giáo lẫn những nỗi niềm khao khát gửi gắm, những nỗi sợ hãi và cả những sự ghi ơn,... Người nông dân cày cấy ròng rã một năm trời để mong đến mùa xuân, để hội làng lại "về" cho gái trai gặp gỡ, cho những cụ già xúng xính áo hoa... Dù là một tác phẩm mang nhiều tính nghiên cứu và thu nhập, tập sách vẫn rộn rã không khí hân hoan của buổi "hội hè". Vừa mang tính tâm linh trang nghiêm vừa là chốn vui chơi trần tục, hội hè là sự phản chiếu thú vị và đa chiều nhất về văn hóa người Việt Nam xưa. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một cách tiếp cận thi vị với Hội hè đình đám.*** Chúng ta phải trở lại thời tiền-đệ-nhị thế-chiến, hay gần nhất cũng phải từ đầu năm Ất-Dậu (1945) trở về trước, cái thời mà phong tục tập quán của dân ta chưa chịu nhiều sự biến-đổi trước áp-lực của thời cuộc, với những sinh hoạt cổ truyền theo tổ-chức xã-hội trong một nếp sống nông nghiệp của tiền-nhân. Những phong-tục tập-quán này biểu-lộ dân-tộc tính Việt Nam với nhiều cái hay cái đẹp, nhiều điều cao-khiết lành-mạnh ngày nay đã dần phai mờ trước cuộc hưng-vong của đất nước. Muốn tìm lại tất cả những cái hay đẹp cao-khiết lành-mạnh ấy, tuy chỉ mới trải qua mấy chục năm, mà sao coi như xa-xôi lắm, và do đó cũng không phải là dễ dàng. Tìm mua: Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám TiKi Lazada Shopee Trong tập sách này, chúng tôi muốn nói tới những Hội-hè Đình-đám của dân ta, những hội-hè đã từng mua vui cho người dân, đã từng chứng tỏ ý niệm thiêng-liêng tôn-giáo của người dân qua lễ-nghi, đã từng nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bực anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị thần-linh, nhất là các vị Thành Hoàng đã che chở phù-hộ cho dân mỗi xã, và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ-nghi, nhớ lại phong-tục. Những Hội-hè đình-đám lại là những dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa dân làng, và có khi giữa dân các làng lân-cận bởi những tục giao-hảo hoặc bởi hội-hè đình-đám làng này đã kéo dân làng khác tới chung vui. Ngày nay ở miền Trung và miền Nam, một đôi nơi, nhân những ngày thần kỵ vẫn còn tổ-chức những cuộc tế-lễ, những trò vui, tuy về mọi phương-diện lễ-nghi, du-hí cũng đã tỉnh-giảm nhiều. Được hân hạnh sống những năm đầu hiểu biết ở một vùng quê, thời đó, mặc dầu là dưới thời Pháp-thuộc, người dân Việt-Nam còn căm-hờn người Pháp đang thống-trị đất nước, người ta vẫn không bỏ qua hội hè, chúng tôi đã được dịp đi dự nhiều hội quê, nhất là những hội ở các tỉnh Bắc-Ninh, Bắc-Giang, Vĩnh-Yên, Phúc-Yên, Hà-Đông, Nam-Định và Thái-Bình, thời đó cách đây tuy xa, nhưng ngày nay hồi tưởng lại có lúc chúng tôi tưởng như mình đang đứng trước một cây đu, đang nghe kể hạnh trong chùa, đang xem một đám vật, đang dự một đám hát quan-họ… Nhớ lại các hội quê, tất cả cái phong-vị hội-hè đình-đám như trở lại trong đầu óc chúng tôi. Và giờ đây, viết những dòng chữ này, chúng tôi muốn bạn đọc cùng thấy với chúng tôi cái không khí của làng xóm quê-hương thuở xưa với bóng cờ ngũ sắc, với những tiếng trống thờ, với đám trai gái vùng quê, quần áo mới màu Tết lũ-lượt dắt-dìu tới những hội làng, vẻ mặt hớn hở, vừa đi vừa nói cười hân-hoan. Hội quê có hội Xuân và hội Thu, hai thời gian mà người dân quê được nghỉ-ngơi rảnh-rỗi, Xuân sau khi đã cấy chiêm và Thu sau khi đã thoát vụ lụt con nước mã và công việc cày cấy vụ lúa tháng Mười cũng đã xong. Trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM, chúng tôi đã trình bầy về đạo thờ Thần, chúng tôi coi như một tôn-giáo hoàn-toàn Việt Nam, và chính do ở sự thờ-phụng thần-linh mà có HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM. Nếu các bạn không lấy làm trở ngại, chúng tôi xin phép coi tập sách này như tập Phụ lục của Bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM. Về Hội-hè đình-đám mùa Xuân, ca-dao ta có câu: Tháng Giêng ăn Tết ở nhà, Tháng Hai cờ bạc, Tháng Ba hội hè. Câu ca-dao này đã nói lên đủ sự nhàn-rỗi của người dân quê, nhất là người dân quê miền Bác trong ba tháng Xuân. Lúc ấy là lúc cấy chiêm đã xong, mùa gặt tháng Năm lại chưa tới, người dân quê có thì giờ giải-lao, ăn Tết và hội hè. Sống ở một nơi đất hẹp dân đông, riêng ở miền Bắc và miền Trung lại thêm lắm đồi nhiều núi, kỹ-nghệ không có gì, suốt năm người dân quê vất-vả với nông-nghiệp, đầu tắt mặt tối, làm buổi hôm lo buổi mai, hết công việc đồng áng đến công việc vườn tược, rất ít dịp nghỉ ngơi để cùng nhau vui chơi ca hát, ăn uống. Hàng năm chỉ có dịp Xuân là công việc đồng-áng nhàn-rỗi, công việc vườn-tược thưa-thớt, người dân quê có thể cùng nhau chia vui để hưởng thú thanh-bình. Hơn nữa, Xuân tới nghĩa là Đông đã qua, cái mùa rét mướt đã hết, tiết Xuân ấm-áp đã khiến con người hết phải lo vì mưa phùn gió bấc, hết phải lo vì trời lạnh đêm dài, và với mưa Xuân, người ta cũng hết lo đất nẻ ruộng khô, hết lo gió lạnh làm cho cây mạ héo vàng. Người ta có thể nghỉ-ngơi để hưởng thụ mừng xuân, mừng năm mới. Hơn nữa từ ngàn xưa, người Việt-Nam lấy gia-đình làm trọng, lấy quây-quần đoàn-tụ làm hơn, nên trong những dịp giải-lao hưởng thụ, người ta không nghỉ-ngơi riêng-rẽ, và trong lúc vui, người ta muốn được vui chung cùng bạn hữu, cùng họ hàng thân thuộc, cùng mọi kẻ quen người biết ở làng trên xã dưới. Bởi vậy nhân dịp Tết với mùa Xuân, nơi nơi, người ta đều kéo hội để cho dân chúng trong thôn ngoài xã hàng tổng và có khi hàng huyện được cùng nhau chung vui gặp-gỡ. Trong các hội Xuân có hai loại: hội đình và hội chùa. Xin kể gộp cả vào hội đình các hội ở đền, miếu, là những hội tổ chức ở ngay những nơi thờ tự này hoặc ở những khoảng đất chung quanh, nhân dịp khánh-tiết tân-xuân hoặc nhân dịp kỵ-nhật các vị Thành-hoàng, có thể có những trò vui được tổ-chức vào dịp hội, không ở gần các nơi thờ-tự trên, ở một chỗ khác trong làng. Hội chùa tổ-chức tại Chùa làng nhân dịp tân xuân hoặc vào ngày giỗ các vị sư tổ. Ngày hội tuỳ theo mỗi làng thay đổi, có làng mở hội sớm, có làng mở hội muộn, có làng bắt đầu mở hội từ trong năm cho đến ngoài giêng mới hết, có làng sang tháng ba mới mở hội, nhưng thường tháng giêng là nhiều hội-hè hơn cả. Dù trong hội Đình hay hội Chùa, dù hội kéo trong năm hay ngoài Xuân, bao giờ ở hội cũng có rất nhiều trò vui để dân làng và khách trẩy hội giải-trí. Có những trò vui chung thông thường cho mọi hội như: rún đu, cờ bỏi, đốt pháo… lại có những trò vui riêng của từng địa phương: đánh phết, hát quan-họ, kéo co, bơi chải… Trong các thú vui chung có những thú dành riêng cho người già như tổ-tôm điếm, cờ bỏi, thi thơ,… và cũng có những trò vui riêng cho bạn trẻ nam nữ thanh niên, những trò vui này rất nhiều và rất thú vị: đánh phết, đánh trung-bình-tiên, hát quan-họ, hát đúm, thổi cơm thi, nấu cô thi, bơi thuyền, đánh vật… Các cụ bà trong ngày hội, dù là hội đình, có thú đi chùa, nghe kể hạnh… Đấy là chúng tôi không nhắc tới những cuộc tế lễ rước xách chúng tôi đã trình bày trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM, trong chương ĐẠO THỜ THẦN. Về hội hè đình đám mùa thu, thì đây là thời gian dân quê vừa thắng trận phòng đê tháng bảy với con nước Mã nguy-hiểm hàng năm. Vả lại tiết thu mát-mẻ, trời thu trong sáng, tháng tám lại nhằm vào thu-tế, các làng xã mở hội, vào đám dường như muốn ăn mừng đã tránh được nạn lụt, và để tạ ơn thần-linh đã bảo hộ dân làng, mùa tháng mười sẽ được bội thu. Đã vất-vả suốt từ tháng năm, sau vụ gặt chiêm, nay được dịp cấy mùa đã xong, công việc đồng áng đã vơi, người dân quê cũng như dịp xuân tới, phải nghỉ-ngơi và phải hưởng những ngày nghỉ-ngơi. Trời thu đẹp báo hiệu một vụ lúa mùa tốt đẹp, gió thu mát, trăng thu trong như tăng sự hân-hoan của con người trước viễn-ảnh thóc lúa đầy bồ, người người no ấm. Mùa Xuân người ta đã hội-hè, mùa thu người lại hội-hè. Hoặc giả có làng nào, mùa Xuân chưa đình đám ăn chơi, thì mùa thu nhất là tháng tám, là dịp để làng vào đám, dân làng nghỉ ngơi hội-hè. Cũng những cuộc tế lễ rước xách như mùa Xuân, với những trò vui thay đổi tuỳ theo mỗi địa-phương. Trình bày về hội-hè đình-đám của mùa Xuân cũng như mùa Thu, chúng tôi chỉ nói tới những hội-hè chúng tôi biết, lẽ tất nhiên không là bao nhiêu so với số hội hè hằng có xưa ở vùng quê suốt từ Nam tới Bắc. Biết tới đâu chúng tôi nói tới đó, còn những điều không biết, chúng tôi xin nhường lại cho những bậc biết hơn. Ngoài những hội hè đình đám mùa Xuân và Thu, rải rác quanh năm cũng vẫn có những hội làng ở một số các xã thôn, như hội đền Phù-Đổng Thiên vương ở làng Phù-Đổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc-Ninh vào ngày mồng 9 tháng 4; Hội bơi thuyền trên sông Tiểu Đáy của làng Yên-Hạ, tục gọi là làng Me tỉnh Vĩnh Yên vào thượng tuần tháng 5, hội đền Tả quận Lê-văn-Duyệt xã Bình-Hoà, Tỉnh Gia-Định vào ngày 30 tháng 7 v.v… Những ngày tháng của hội này theo kỵ-nhật của vị thần linh được dân làng thờ-phụng. Trong các hội quê, chúng ta có thể phân biệt: - Các hội về lịch-sử liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử được dân làng thờ-phụng làm thần-linh, hoặc liên-quan tới một sự-kiện lịch-sử được dân chúng kỷ-niệm. Hội đền Hai Bà, Hội đền Đức Hưng-Đạo-Vương là những hội liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử, giỗ Trận Đống-Đa là hội liên-quan tới sự kiện lịch sử, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh của Tôn-Sĩ-Nghị. - Các hội về Tôn-giáo. Trong các hội này thường là hội Chùa như hội Chùa Thầy, tỉnh Sơn-Tây, hội Chùa Hương, tỉnh Hà-Đông. Lễ vía bà núi Sam, tỉnh Châu-Đốc, lễ kỷ niệm đức Huỳnh Giáo-Chủ ở Thánh-Địa Hòa-hảo cũng là những hội-hè về tôn giáo. - Các hội hè về phong-tục. Đây có thể là một hội tại một làng thờ một nhân vật lịch-sử không mấy quan trọng, hoặc ở một ngôi chùa làng có những tục lạ của dân chúng từng địa phương. Tất cả những hội nào, không xếp vào hai loại hội trên chúng tôi đều xếp vào loại thứ ba này. Viết về mỗi hội, chúng tôi sẽ cố gắng lần-lượt trình bày: - Nơi và ngày có hội - Thân-tích - Các trò vui trong ngày hội, ngoại trừ những cuộc tế lễ và rước xách thông thường đã có nói trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM. Chúng tôi cũng hiểu, với sự hiểu-biết nông cạn của chúng tôi, tất-nhiên có những điều thiếu sót và có cả những sự sai lầm, nhưng dù sao chúng tôi cũng cố gắng đem hết thiện-chí để mong đạt được tối đa những điều đáng viết về mỗi hội. Để bớt những sự thiếu sót chúng tôi đã tham khảo xem tài liệu ghi trong các sách báo chúng tôi đã được dịp đọc qua, ngoài những điều tai nghe mắt thấy xưa kia ở các hội quê. Saigon, ngày 17 tháng 5 năm 1969 TOAN ÁNHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc ViệtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần)
Trong lịch sử văn học Trung Quốc. Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó(1), sáng tác về nó đến nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!” (Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn thấy Trung Quốc in chuyên san “Hồng Lâu Mộng nghiên cứu”. Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là có một vinh dự lớn lao như thế, vì có “Shakespeare học”. Cái gì làm người Trung Quốc say Hồng lâu mộng “như điếu đổ” vậy? Trước hết, đó là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại. Thời nhà Thanh, dưới thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là thời kinh tế phồn vinh, chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác mỏ, thương nghiệp...cũng phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất là những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Hồng Lâu Mộng được đánh giá là "tuyệt thế kì thư" phản ánh toàn diện và sâu sắc xã hội, con người Trung Hoa giai đoạn mạt Thanh khi đứng bên bờ vực suy vong, sụp đổ. Tác phẩm được Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa thế kỉ 18 khi triều đại phong kiến đã bắt đầu mục ruỗng và đi tới hồi kết. 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc hoàn thành. Hồng lâu mộng miêu tả quá trình hình thành, phát triển và cuối cùng tan vỡ của thế giới lí tưởng Đại Quan Viên. Thế giới lí tưởng đó ngay từ đầu đã không tách rời khỏi thế giới hiện thực: Đại Quan Viên hoa thanh quả khiết vốn được xây trên cái nền bẩn thỉu Hội Phương Viên. Trong suốt quá trình 12 chị em thanh nữ vun đắp phát triển khu vườn, hoa thanh quả khiết của họ cũng không ngừng bị rình rập, bẻ phá bởi bàn tay nhớp nhúa từ bên ngoài. Thanh khiết mọc lên từ ô uế, sau cùng cũng đành rơi rụng giữa ô uế. Đó chính là ý nghĩa trung tâm của bi kịch Hồng lâu mộng. Đó là sự bế tắc của những con người trẻ tuổi, khát khao lý tưởng sống mới nhưng cuối cùng đành bị khuất phục bởi họ đang ở trong bóng đêm suy tàn của ngày cũ, chưa thể đứng trong áng sáng ban mai của ngày mới, đó là yếu tố bi kịch của lịch sử trùm lên bi kịch cuộc đời của tất cả các nhân vật. Tìm mua: Hồng Lâu Mộng TiKi Lazada Shopee Tiểu thuyết được dựng thành phim, ngay khi ra mắt bộ phim Hồng lâu mộng đã gây tiếng vang ở khắp Trung Quốc và nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hồng Lâu Mộng PDF của tác giả Tào Tuyết Cần nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần)
Trong lịch sử văn học Trung Quốc. Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó(1), sáng tác về nó đến nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!” (Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn thấy Trung Quốc in chuyên san “Hồng Lâu Mộng nghiên cứu”. Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là có một vinh dự lớn lao như thế, vì có “Shakespeare học”. Cái gì làm người Trung Quốc say Hồng lâu mộng “như điếu đổ” vậy? Trước hết, đó là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại. Thời nhà Thanh, dưới thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là thời kinh tế phồn vinh, chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác mỏ, thương nghiệp...cũng phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất là những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Hồng Lâu Mộng được đánh giá là "tuyệt thế kì thư" phản ánh toàn diện và sâu sắc xã hội, con người Trung Hoa giai đoạn mạt Thanh khi đứng bên bờ vực suy vong, sụp đổ. Tác phẩm được Tào Tuyết Cần sáng tác trong khoảng thời gian giữa thế kỉ 18 khi triều đại phong kiến đã bắt đầu mục ruỗng và đi tới hồi kết. 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc hoàn thành. Hồng lâu mộng miêu tả quá trình hình thành, phát triển và cuối cùng tan vỡ của thế giới lí tưởng Đại Quan Viên. Thế giới lí tưởng đó ngay từ đầu đã không tách rời khỏi thế giới hiện thực: Đại Quan Viên hoa thanh quả khiết vốn được xây trên cái nền bẩn thỉu Hội Phương Viên. Trong suốt quá trình 12 chị em thanh nữ vun đắp phát triển khu vườn, hoa thanh quả khiết của họ cũng không ngừng bị rình rập, bẻ phá bởi bàn tay nhớp nhúa từ bên ngoài. Thanh khiết mọc lên từ ô uế, sau cùng cũng đành rơi rụng giữa ô uế. Đó chính là ý nghĩa trung tâm của bi kịch Hồng lâu mộng. Đó là sự bế tắc của những con người trẻ tuổi, khát khao lý tưởng sống mới nhưng cuối cùng đành bị khuất phục bởi họ đang ở trong bóng đêm suy tàn của ngày cũ, chưa thể đứng trong áng sáng ban mai của ngày mới, đó là yếu tố bi kịch của lịch sử trùm lên bi kịch cuộc đời của tất cả các nhân vật. Tìm mua: Hồng Lâu Mộng TiKi Lazada Shopee Tiểu thuyết được dựng thành phim, ngay khi ra mắt bộ phim Hồng lâu mộng đã gây tiếng vang ở khắp Trung Quốc và nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hồng Lâu Mộng PDF của tác giả Tào Tuyết Cần nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.