Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Về Từ Cõi Chết

Lời tựa của Francois Mauriac: Các ký giả nước ngoài thường đến thăm tôi.  Tôi sợ những cuộc gặp gỡ ấy vì tôi bị dằng co giữa niềm ao ước thố lộ tất cả những gì trong lòng mình và nỗi kinh hãi là đặt vũ khí vào tay người phỏng vấn khi mình không hiểu chút nào thái độ của người đó đối với nước Pháp.  Tôi luôn luôn thận trọng trong những cuộc gặp gỡ thuộc loại ấy.   Sáng đó, người ký giả Do thái trẻ tuổi này đến phỏng vấn tôi cho một tờ báo xuất bản ở Tel Aviv, đã  tức khắc chinh phục được thiện cảm của tôi.  Cuộc đàm đạo của chúng tôi nhanh chóng trở thành trò chuyện tâm tình.  Nó đưa dẫn tôi trở lại những hồi tưởng Thời Bị Chiếm Đóng.  Không phải chỉ những biến cố dính líu trực tiếp tới chúng ta mới làm cho chúng ta có nhiều xúc động sâu xa.  Tôi tâm sự với người khách trẻ tuổi của mình rằng trong những năm ảm đạm ấy, không có gì tôi thấy mà để lại vết hằn sâu đậm trong lòng tôi cho bằng những toa tàu chất đầy ứ trẻ em Do thái đậu ở sân ga Austerlitz, tuy tôi chưa từng tận mắt  chứng kiến!  Khi vợ tôi mô tả cho tôi nghe về chúng, giọng bà vẫn ngập tràn kinh hãi.  Vào thời ấy, chúng tôi chẳng hiểu chút gì về những phương cách hủy diệt của Đức Quốc Xã.  Và ai mà có thể tưởng tượng ra nổi những phương cách đó!  Cho đến lúc ấy, cách mà những con cừu non ấy bị giựt khỏi mẹ chúng  cũng đã vượt quá những điều chúng tôi có thể nghĩ tưởng.  Tôi tin rằng vào ngày ấy, lần đầu tiên tôi chạm đến bí ẩn của tội ác mà sự phát hiện ra nó đã đánh dấu việc kết thúc một kỷ nguyên và mở đầu một kỷ nguyên khác.  Giấc mơ người phương Tây cưu mang suốt thế kỷ mười tám, buổi bình minh người ấy tưởng đã thấy vào năm 1789 và kéo dài đến tháng Tám 1914, giấc mơ ấy bền vững thêm nhờ những tiến bộ của trí tuệ và khám phá của khoa học - với tôi, giấc mơ ấy cuối cùng vỡ vụn trước những toa tàu đầy ứ trẻ con đó.  Tuy thế tôi vẫn còn xa vạn đặm mới với tới được ý nghĩ rằng những đứa trẻ đó là nhiên liệu cho phòng hơi ngạt và lò thiêu xác.   Lúc ấy, tôi bày tỏ điều đó với người ký giả trẻ tuổi này.  Và khi tôi nói trong tiếng thở dài, “Tôi thường nghĩ tới những đứa bé đó biết ngần nào!” thì anh đáp lại rằng “Tôi là một đứa trong chúng nó.”  Anh đã là một trong những đứa trẻ đó.  Anh đã nhìn mẹ mình, đứa em gái út yêu dấu của mình, và cả nhà, trừ cha anh, biến mất trong chiếc lò nướng được chụm bằng những tạo vật sống.  Về phần người cha thì ngày này sang ngày khác, đứa trẻ đó bị  buộc phải làm khán giả chứng kiến nỗi thống khổ, quằn quại và cái chết tuẫn nạn của cha mình.  Và chết mà lại chết như thế đó! Những tình cảnh của cái chết đó được đề cập tới trong cuốn sách này; và tôi muốn để dành sự khám phá về chúng và về phép lạ khiến bản thân cậu bé đã thoát ra được cho người đọc mà sẽ lên tới con số đông đảo như khối lượng độc giả của cuốn Nhật Ký Của Anne Frank.   Bản ghi nhận riêng tư này ra đời sau nhiều bản khác cùng loại mà sự mô tả của chúng làm tổn thương tính tự mãn của chúng ta, những người cứ tưởng mình đã hiểu tường tận những gì có thể hiểu, tuy nhiên, tôi xác nhận đây là một tường trình khác biệt, cá biệt, dị thường.  Số phận của người Do thái tại một thành phố nhỏ vùng Transylvania có tên là Sighet, mù lòa khi đối mặt với định mệnh trong lúc họ vẫn còn đủ thì giờ cao bay xa chạy; họ đã tự mình thụ động đầu hàng một cách ngoài sức tưởng tượng, tai lơ mắt điếc trước lời cảnh cáo van nài của một nhân chứng mà chính bản thân người ấy đã trốn thoát khỏi cuộc tàn sát, người ấy mang về cho họ tin tức anh thấy tận mắt, nhưng họ không chịu tin anh, đối xử với anh như với một người điên - những trạng huống đó, đối với tôi, hình như tự chúng đã đủ cảm hứng cho một cuốn sách mà chẳng cuốn sách nào khác có thể sánh bằng.   Tuy thế, tận cùng chốn sâu thẳm của lòng tôi đã bị cuốn hút bởi một khía cạnh khác của cuốn sách dị thường này.  Cậu bé, người  kể cho chúng ta nghe chuyện của cậu ở đây, là kẻ được Thượng đế chọn lựa.  Từ thuở lần đầu giác ngộ ý thức, cậu chỉ sống cho Thượng đế và lớn lên trong sách Talmud, khao khát được khởi sự làm quen với các bí pháp nhằm cắt nghĩa Kinh thánh Do thái giáo, tận hiến bản thân cho Thượng đế.  Chúng ta có bao giờ nghĩ tới hậu quả của sự khủng khiếp ấy, dù ít có tính cách hiển nhiên, ít có tính cách kích động hơn những sự phạm thượng khác, tuy thế nó lại là sự tệ hại nhất cho chúng ta, những kẻ có đức tin: cái chết của Thượng đế trong lòng một đứa bé khi nó đột nhiên khám phá ra tính chất tuyệt đối của cái ác.   Chúng ta thử tưởng tượng điều gì xảy ra trong lòng cậu bé ấy khi mắt cậu nhìn những cuộn khói đen tỏa ra trên bầu trời, từ những lò thiêu mà đứa em gái nhỏ và mẹ mình sắp bị ném vào cùng với hàng ngàn người khác:  “Sẽ không bao giờ tôi quên được đêm đó, đêm đầu tiên ở trại, đêm xoay chuyển đời tôi thành một đêm trường, bảy lần bị nguyền rủa và bảy lần bị đóng dấu.  Sẽ không bao giờ tôi quên được làn khói đó.  Sẽ không bao giờ tôi quên được khuôn mặt nhỏ nhắn của những đứa trẻ, mà da thịt chúng biến thành các luồng khói cuồn cuộn dưới bầu trời xanh thẳm lặng câm.   Sẽ không bao giờ tôi quên được những ngọn lửa đã thiêu rụi mãi mãi Đức tin của tôi. Sẽ không bao giờ tôi quên được sự yên lặng hoài cảm đó đã tước đoạt đến tận cùng thiên thu nỗi khát khao được sống của tôi.  Sẽ không bao giờ tôi quên được những khoảnh khắc lúc đó Thượng đế của tôi, linh hồn của tôi bị giết chết và biến những giấc mơ của tôi thành tro than.  Sẽ không bao giờ tôi quên được những điều đó cho dù tôi có bị kết án sống lâu như chính Bản thân Thượng đế.  Không bao giờ.”   Và lúc đó tôi hiểu ra cái đầu tiên kéo tôi tới với người Do thái trẻ tuổi này: ánh mắt đó, như của một La-da-rô chỗi dậy từ cõi chết, anh vẫn là người tù mà lòng còn giam giữ mãnh liệt hình ảnh những nơi anh đã lang thang, vấp ngã giữa những xác người bị ruồng bỏ.  Đối với anh, tiếng kêu trầm thống của Nietzsche biểu lộ một thực tại gần như có tính cách vật lý:  Thượng đế đã chết, đấng Thượng đế của tình thương, dịu dàng, ủi an, đấng Thượng đế của Áp-ra-ham, I-sa-ac, của Gia-cóp, đang biến mất vĩnh viễn, hơn nữa, dưới mắt nhìn đăm đăm của cậu bé này, trong làn khói của sự tàn sát con người hàng loạt chỉ vì lý do Chủng tộc, tiêu biểu cho sự phàm ăn nhất của tất cả các ngẫu tượng.  Và biết bao người Do thái ngoan đạo trải qua cái chết như thế!  Vào ngày đó, khủng khiếp ngay trong những ngày ghê rợn đó, khi nhìn một đứa bé khác mang nét mặt của một thiên thần u sầu, bị treo cổ (đúng!), thì lúc đó, một cậu bé khác, người kể cho chúng ta nghe chuyện này, đã nghe ai đó sau lưng mình kêu lên:  “Lúc này Thượng đế ở đâu?Và tôi nghe bên trong tôi có tiếng trả lời: Ở đâu ư?  Ngài ở đây - Ngài đang bị treo cổ ở đây, trên giá treo cổ này....”   Vào ngày cuối một năm theo lịch Do thái, cậu bé này có mặt tại buổi lễ trọng thể Rosh Hashanah.  Cậu nghe hàng ngàn người đang bị đày ải này cất lên cùng một giọng: “Vinh danh Thượng đế, Đấng Hằng sống.”  Trước đó không lâu, cậu cũng đã nằm sấp mặt xuống đất với lòng tôn sùng như thế, với nỗi kính sợ như thế, với tâm hồn yêu thương như thế!  Nhưng hôm nay, cậu không quì nữa.  Con người thụ tạo, bị thương tổn và bị lăng nhục vượt quá sức chịu đựng của tâm tư và tinh thần, đã chỉ rõ ra rằng kẻ được bái lạy kia là một kẻ vừa câm vừa điếc:  “Hôm nay tôi không còn nài xin.  Tôi không còn khả năng than khóc.  Trái lại, tôi cảm thấy mình mạnh mẽ.  Tôi là người lên án, Thượng đế là kẻ bị kết án.  Mắt tôi mở ra và tôi cô độc - cô độc kinh khủng trong một thế giới không Thượng đế và không con người.  Không tình yêu không ân sủng.  Tôi thôi không còn là gì ngoài tro than, tuy thế tôi cảm thấy mình mạnh mẽ hơn Đấng Toàn năng, kẻ mà đời tôi đã bị ràng buộc vào trong một thời gian quá dài.  Tôi đứng giữa cộng đoàn đang cầu nguyện, quan sát nó như thể mình là người lạ.”   Và tôi, kẻ tin rằng Thượng đế là tình yêu, tôi có thể có câu trả lời nào để trao cho người chất vấn trẻ tuổi này, kẻ mà đôi mắt đầy bóng tối vẫn giữ mãi ánh phản chiếu nỗi u sầu thiên thần đã xuất hiện trên nét mặt đứa bé bị treo cổ ngày nọ?  Tôi đã nói gì với anh?  Có phải tôi đã nói tới một người Do thái khác, anh em của anh, kẻ có lẽ giống như anh - Người Bị Đóng Đinh,  Thánh Giá của người đó đã và đang chinh phục thế giới?  Có phải tôi đã khẳng định rằng vật chướng ngại làm đức tin của anh vấp ngã cũng chính là hòn đá tảng của tôi, và rằng, trong sự phù hợp giữa Thánh Giá với những khổ đau con người, theo ý tôi, là chìa khoá mở vào sự mầu nhiệm không thể dò thấu được mà trên đó đã tàn lụi đức tin từ thời thơ ấu của anh?  Tuy thế, Sion đã thêm lần nữa chỗi dậy từ những lò thiêu và những nhà để hài cốt.  Quốc gia Do thái sống lại từ giữa hàng ngàn kẻ chết.  Quốc gia này hiện hữu qua họ và sẽ trường tồn.  Chúng ta không biết cái giá của từng giọt máu riêng rẽ, tường giọt nước mắt riêng rẽ.  Tất cả đều là ân sủng.  Nếu Thượng đế là đấng Vĩnh cửu thì lời cuối cùng dành cho mỗi người chúng ta đều thuộc vào Ngài.  Đấy là điều tôi nên nói với đứa con của dân tộc Do thái này.  Nhưng tôi chỉ có thể ôm anh trong vòng tay, nghẹn ngào. Mời các bạn đón đọc Về Từ Cõi Chết của tác giả Elie Wiesl.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 4
Từ lá thư mà A Bội Trọng Ma Lữ để lại, nhóm Không Hải biết được một sự thật. Đó là, khi hoàng đế Huyền Tông buộc phải xử tử Dương quý phi, ngài đã làm theo mưu kế của đạo sĩ Hoàng Hạc, thực hiện phép thi giải đưa Quý phi vào trạng thái chết giả để đợi hồi sinh, nhưng thật không may, họ đã thất bại. Cùng lúc ấy, Bạch Long, đệ tử cũ của Hoàng Hạc xuất hiện. Bạch Long nguyền rủa hoàng đế Thuận Tông, tìm cách hủy diệt cả triều đại nhà Đường. Chỉ còn chút sức tàn, Huệ Quả của Thanh Long Tự phải đứng ra đấu với Bạch Long, cứu hoàng đế, giải nguy cho vương triều. Về tác giả: Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Bộ tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường từng được đạo diễn Trần Khải Ca của Trung Quốc chuyển thể thành phim điện ảnh Yêu miêu truyện năm 2017. Ngoài ra nhiều tác phẩm khác của ông cũng được chuyển thể thành phim. Năm 2001: Âm Dương Sư (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Sanada Hiroyuki, Ito Hideaki, Koizumi Kyoko, Năm 2003: Âm Dương Sư 2 (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Ito Hideaki, Nakai Kiichi, Fukada Kyoko, Năm 2007: Thanh gươm của hoàng đế (Toei sản xuất) Đạo diễn: Tsutsumi Yukihiko / Diễn viên: Abe Hiroshi, Hasegawa Kyoko, Miyato Kankuro, Năm 2016: Everest: Đỉnh núi của thần (Toho sản xuất) Đạo diễn: Hirayama Hideyuki / Diễn viên: Okada Junichi , Abe Hiroshi , Ono Machiko, Các tác phẩm tiêu biểu: Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường (4 tập) Âm Dương Sư Thợ săn quỷ Sư tử ăn trăng khuyết ***   CÁC NHÂN VẬT CHÍNH   Từ đời Đức Tông hoàng đế đến đời Thuận Tông hoàng đế: Không Hải (âm Nhật là Kukai): Vị tăng trẻ sang Đường tìm học Mật Quất Dật Thế (âm Nhật là Tachibana-no-Hayanari): Nho sinh Nhật Bản tới Trường An theo đoàn thuyền Khiển Đường sứ. Bạn thân Không Hải. Đan Ông: Vị đạo sĩ luôn giúp rập và thoắt ẩn thoắt hiện xung quanh Không Hải. Lưu Vân Tiêu: Chức dịch Trường An, bị yêu miêu ám trong nhà và cướp mất người vợ yêu. Từ Văn Cường: Chủ nhân của cánh đồng trồng bông, nơi xảy ra vụ án có tiếng thì thầm bí ẩn. Trương Ngạn Cao: Chức dịch Trường An, người quen của Từ Văn Cường. Đại Hầu: Gã hộ pháp sinh ra ở Thiên Trúc. Ngọc Liên: Kỹ nữ của Hồ Ngọc Lâu. Lệ Hương: Kỹ nữ của Nhã Phong Lâu. Mohammed: Thương nhân người Ba Tư, có ba cô con gái là Trisnai, Tursungri, Griteken. Huệ Quả: Vị hòa thượng của Thanh Long Tự. Phụng Minh: Tăng môn của Thanh Long Tự. Người Tây Tạng. An Tát Bảo: Người coi giữ đền thờ Hiên giáo. Bạch Lạc Thiên: Một thi nhân lớn về sau. Đang ấp ủ bản trường ca về mối tình của Đường Huyền Tông và Dương quý phi. Vương Thúc Văn: Tể tướng dưới thời Thuận Tông hoàng đế. Liễu Tông Nguyên: Kẻ thân cận của Vương Thúc Văn. Văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Hàn Dũ: Đồng liêu của Liễu Tông Nguyên. Cũng là một văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Tử Anh: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Xích: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Chu Minh Đức: Phương sĩ. Thủ hạ của Druj. Druj*: Karapan (một kiểu pháp sư ở Ba Tư). Đời Huyền Tông hoàng đế A Bội Trọng Ma Lữ (âm Nhật là Abe-no-Nakamaro): Sang Đường vào đời Huyền Tông, sống ở Đường đến hết đời. Tên Trung Quốc là Triều Hành. Lý Bạch: Thi nhân tiêu biểu đời Đường. Được Huyền Tông sủng ái, nhưng về sau thì thất sủng. Huyền Tông: Hoàng đế nhà Đường. Mê đắm thiếp yêu là Dương quý phi. Dương quý phi: Thiếp yêu của Huyền Tông. Nhận được tất cả sự sủng ái của Huyền Tông, song đã phải chịu cái chết thê thảm bởi Loạn An Sử. An Lộc Sơn: Tướng nhà Đường. Được Quý phi yêu mến và nhận làm con nuôi, nhưng về sau làm phản và đuổi bọn Huyền Tông chạy khỏi Trường An. Cao Lực Sĩ: Hoạn quan hầu cận của Huyền Tồng. Hoàng Hạc: Đạo sĩ người Hồ. Kẻ đã hiến một kế về việc xử tử Dương quý phi. Đan Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bạch Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bất Không: Mật giáo tăng.   *** Câu chuyện của Bất Không Tam Tạng. Tôi sinh ra ở miền đất phía Bắc Thiên Trúc, có cha là Người Bà La Môn, mẹ là Người Khang Cư*. Tôi theo mẹ sang Đại Đường từ khi còn nhỏ. Chúng tôi vượt qua một vài quốc gia sa mạc, nhiều con sông và đến được đất nước này năm tôi lên mười tuổi. Tôi và mẹ ở lại Đôn Hoàng chừng ba tháng, lần đầu tiên tôi gặp Hoàng Hạc chính là ở Đôn Hoàng. Như ngài cũng biết, Đôn Hoàng là nơi giáp ranh giữa Đại Đường và nước Hồ, bóng dáng Người Hồ ở đây còn nhiều hơn cả Trường An. Ra chợ sẽ thấy bán rất nhiều món hàng của Hồ như thảm, bình lọ, quần áo. Bản thân là Người Thiên Trúc nên tôi cảm thấy tò mò với Người Đường và cảnh vật của nước Đường hơn là những món đồ mà Người Hồ buôn sang, nhưng tôi sẽ không nói kỹ về chuyện này. Ở chợ, ngoài hàng hóa còn có rất nhiều người diễn trò đường phố để kiếm tiền. Người nuốt lửa. Người nuốt kiếm. Người diễn trò ảo thuật. Người nhảy múa. Người bắt khỉ diễn trò để xin tiền. Người gảy nguyệt cầm năm dây và hát. Người Hồ có, người Đường có, chợ ở Đôn Hoàng là nơi kiếm tiền của những kẻ diễn trò đường phố ấy. Trong những kẻ diễn trò đường phố ấy có hai người: một chàng trai suýt soát ba mươi tuổi và một cô gái vừa qua tuổi hai mươi. Tôi ra chợ một mình và bắt gặp hai người ấy. Ban đầu tôi thấy có một đám đông hơn những chỗ khác, tò mò, tôi lách qua chân mọi người để lên phía trước thì thấy họ. Hai người đứng xây lưng về phía một cây hòe và quay mặt về phía đám đông. Có thể nhận ngay ra họ là người Hồ, nhờ màu mắt, màu da và sống mũi cao. Đó đều là những đặc trưng của người Hồ. Y phục trên mình, đôi giày cao cổ họ mang cũng là của người Hồ. Tôi nhớ rõ đến vậy là vì họ đang diễn một trò đáng sợ. Đầu tiên, chàng trai chào khán giả, cùng lúc đó cô gái đứng tựa lưng vào cây hòe. Thế rồi chàng trai lấy trong bọc áo ra mấy con dao găm. Tất cả là ba con. Chàng trai vừa mỉm cười vừa ném con dao găm đi bằng một động tác dứt khoát. Có nhiều tiếng thét lên từ đám đông đứng xem. Con dao găm rời khỏi tay chàng trai, cắm phập vào gốc cây ngay sát má trái của cô gái. Con dao găm tiếp theo cắm phập vào gốc cây ngay sát má phải của cô gái. Nếu chỉ trượt tay một li thôi thì con dao có thể sẽ cắm thẳng vào mặt cô gái. Khi diễn những trò như vậy, đa phần người diễn đều biểu lộ một nụ cười trên gương mặt, nhưng những nụ cười ấy thường chỉ là vẻ bề ngoài nên hầu hết đều gượng gạo. Tuy nhiên, nụ cười của chàng trai và cô gái này, thật không thể miêu tả nổi, như thể tỏ ra cực kỳ thích thú với việc họ đang làm. Trong tư thế bị kẹp bởi hai con dao găm bên hai má, cô gái cử động tay phải, lấy từ bọc áo ra một trái lê. Chắc hẳn lúc ấy ai cũng nghĩ rằng cô sẽ đặt nó lên đỉnh đầu. Phi con dao găm cho xuyên qua trái lê trên đỉnh đầu cô gái là một màn cao trào. Nhưng cô gái không đặt nó lên đỉnh đầu, mà xem kìa, cô ngậm nó ở trong miệng. Sau đó chàng trai cầm lấy lưỡi dao, chuẩn bị tư thế. Nghĩa là, anh ta sẽ phi con dao găm về phía quả lê trong miệng cô gái. Thật không thể tin được. Cứ cho là chệch sang hai bên thì không sao, nhưng nếu chệch lên trên hoặc xuống dưới, con dao sẽ găm vào mặt hoặc họng cô. Tay nghề của chàng trai thì như đã thể hiện, dẫu có lệch cũng chỉ lệch đi chút ít, chứ chắc chắn không thể chệch hẳn lên phần nửa trên mặt cô gái được. Vì vậy, trường hợp đáng sợ nhất là, mặc dù con dao trúng vào trái lê, nhưng nó lại xuyên qua trái lê vào thẳng cổ họng cô gái. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ những tiếng rú to từ trong đám đông đứng xem lúc chàng trai ném con dao đi. Chàng trai ra tay nhanh tới nỗi có thể nghe thấy tiếng xé gió, nhưng con dao lại không bay nhanh như động tác của cánh tay. Nó không bay thẳng, mà vẽ thành một đường cầu vồng trong không trung, lao chéo từ trên xuống và cắm phập vào quả lê trong miệng cô gái. Đám người đứng xem nhốn nháo hết cả lên. Kẻ thì hú hét, kẻ thì vỗ tay, kẻ thì tung tiền. Chứng kiến cảnh tượng ấy, tôi cũng thấy bội phần kinh ngạc. Hơn nữa, khi cô gái cầm lấy trái lê và đưa cho mọi người xem thì mũi dao chỉ thò mớm ra khỏi trái lê chút đỉnh, không đủ để gây thương tích cho vòm miệng cô. Cô gái rút con dao ra và ném trả chàng trai. Chàng trai bắt lấy con dao trong không trung, rồi lại đứng vào tư thế. Đám đông đứng xem đổ dồn ánh mắt về phía họ: tiếp theo là trò gì đây? Hành động của cô gái sau đó còn đáng kinh ngạc hơn nữa. Cô áp trái lê lên trán mình. Thật không thể tin nổi. Ở vị trí này, dù mũi dao trúng vào trái lê với một lực vừa phải như ban nãy thì cô gái cũng sẽ không tránh khỏi bị thương. Mũi dao dẫu chỉ xuyên qua chút đỉnh, song lần này không phải là trong khoang miệng rỗng, nên phần xuyên qua ấy có thể găm vào trán khiến cô bị thương, thậm chí còn giết chết cô. Sự nhốn nháo của đám đông lắng xuống một cách nhanh chóng. Như chỉ chờ có vậy, chàng trai liền ném con dao đi. Nhưng anh ta không làm động tác ra tay nhanh như ban nãy nữa, mà chỉ chu môi bật khẽ một tiếng gió lúc ném dao. Mời các bạn đón đọc Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 4 của tác giả Baku Yumemakura & Uyên Thiểm (dịch).
Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 3
Từ lá thư mà A Bội Trọng Ma Lữ để lại, nhóm Không Hải biết được một sự thật. Đó là, khi hoàng đế Huyền Tông buộc phải xử tử Dương quý phi, ngài đã làm theo mưu kế của đạo sĩ Hoàng Hạc, thực hiện phép thi giải đưa Quý phi vào trạng thái chết giả để đợi hồi sinh, nhưng thật không may, họ đã thất bại. Cùng lúc ấy, Bạch Long, đệ tử cũ của Hoàng Hạc xuất hiện. Bạch Long nguyền rủa hoàng đế Thuận Tông, tìm cách hủy diệt cả triều đại nhà Đường. Chỉ còn chút sức tàn, Huệ Quả của Thanh Long Tự phải đứng ra đấu với Bạch Long, cứu hoàng đế, giải nguy cho vương triều. Về tác giả: Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Bộ tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường từng được đạo diễn Trần Khải Ca của Trung Quốc chuyển thể thành phim điện ảnh Yêu miêu truyện năm 2017. Ngoài ra nhiều tác phẩm khác của ông cũng được chuyển thể thành phim. Năm 2001: Âm Dương Sư (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Sanada Hiroyuki, Ito Hideaki, Koizumi Kyoko, Năm 2003: Âm Dương Sư 2 (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Ito Hideaki, Nakai Kiichi, Fukada Kyoko, Năm 2007: Thanh gươm của hoàng đế (Toei sản xuất) Đạo diễn: Tsutsumi Yukihiko / Diễn viên: Abe Hiroshi, Hasegawa Kyoko, Miyato Kankuro, Năm 2016: Everest: Đỉnh núi của thần (Toho sản xuất) Đạo diễn: Hirayama Hideyuki / Diễn viên: Okada Junichi , Abe Hiroshi , Ono Machiko, Các tác phẩm tiêu biểu: Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường (4 tập) Âm Dương Sư Thợ săn quỷ Sư tử ăn trăng khuyết *** Họ đang ở trong phòng Không Hải… mà không, đúng ra là ở giữa một bông mẫu đơn đỏ. Nhưng chính xác hơn cả thì họ đang ở trong huyễn thuật của Đan Ông. Không Hải ngồi trên một cánh hoa mẫu đơn khổng lồ, kích thước của nó dễ bằng cả cái nhà. Quất Dật Thế ngồi kế bên, ngay cạnh nhụy hoa màu vàng to bằng cả cái cây, phía đối diện là Đan Ông. Không Hải vừa mới đọc xong câu chuyện dài được kể trong bức thư của A Bội Trọng Ma Lữ gửi cho Lý Bạch. Cậu vừa lướt mắt theo những dòng chữ bằng tiếng Oa vừa đọc to lên bằng tiếng Đường. Đó là cách Không Hải đọc cho Đan Ông nghe. Một câu chuyện kỳ lạ về Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi. Dật Thế không tìm được lời nào để nói. Đan Ông cũng vậy, chỉ ngồi yên lặng và ngước lên nhìn trời. “Đan Ông, ngài đang khóc có phải không?” Giọng Không Hải cất lên. Đúng lúc đó… Đột nhiên sắc đỏ xung quanh lạt dần, tỉnh ra thì đã là phòng của Không Hải. Ngọn đèn rung rinh, chỉ có duy nhất một bông mẫu đơn màu đỏ nằm chỏng chơ giữa ba người như tàn dư của một giấc mơ. Đan Ông đang ngửa cổ lên trời bỗng cúi mặt xuống, lấy ngón tay phải chùi mắt. “Chao ôi, ta vừa được nghe lại một câu chuyện thân thuộc làm sao…” Rồi Đan Ông ngẩng mặt lên. “Ngài Đan Ông. Chàng trai Đan Long được nhắc đến trong bức thư của Triều Hành có phải chính là ngài không?” Không Hải hỏi. “Đúng vậy…” “Vậy tức là tất cả những điều viết ra trong đây đều là sự thật?” “Ừm.” Đan Ông gật đầu, rồi lẩm bẩm bằng một giọng trầm thấp. “Ta không biết ngài Triều Hành đã để lại một bức thư như thế này…” Quyển trục chứa nội dung bức thư vẫn đang nằm trong tay Không Hải. “Ngài Đan Ông đã biết tất cả những gì được viết trong bức thư này phải không?” “Ta biết. Cả những chuyện được viết ra lẫn những chuyện không được viết ra.” “Bao gồm tung tích của ba người đã cùng nhau biến mất là Đan Long, Bạch Long và Dương Ngọc Hoàn, rồi cả người tiếp theo biến mất là Hoàng Hạc, cũng như những gì xảy ra sau đó nữa, có phải không ạ?” “Phải.” “Tại sao tất cả lại biến mất?” Không Hải hỏi, nhưng Đan Ông chỉ im lặng. “Ngài Đan Ông…” Không Hải định nhắc lại câu hỏi, thì Đan Ông nhìn sang Không Hải, nói: “Không Hải à, đây là chuyện bí mật của bọn ta.” “Ngài vừa nói là bọn ta?” “Ta đã nói như thế.” “Trong đó gồm những ai?” “Đan Ông ta và Bạch Long, rồi đạo sĩ Hoàng Hạc và Dương Ngọc Hoàn. Hoặc có thể thêm vào số đó tên của Huyền Tông hoàng đế và Cao Lực Sĩ cũng chẳng sao. Thậm chí là cả Thanh Long Tự…” “Trời ạ.” “Nhờ bức thư này mà cuối cùng ta cũng đã ngộ ra một điều. Đây là câu chuyện về giấc mơ đã xảy ra năm mươi năm trước. Nhưng nó vẫn đang tiếp tục. Ta ngộ ra, đã đến lúc tự tay bọn ta phải tận diệt cái hạt giống mà bọn ta gieo xuống ngày nào. Than ôi, thật là…” Đan Ông thốt ra những lời ấy như thở dài, môi khẽ mỉm nụ cười. “Không Hải này, dù mấy năm hay mấy chục năm trôi qua, thì con người rốt cuộc vẫn chẳng thể chạy trốn khỏi những điều do mình gây ra phải không…” “…” “Có thể nói ta đã lẩn trốn trong mấy chục năm qua, nhưng cuối cùng, ta không thể lẩn trốn thêm được nữa.” Đan Ông nói như thể vừa nuốt vào một cục đắng. “Đã đến lúc chấm dứt giấc mơ này rồi, Bạch Long ơi…” Đan Ông tự nói với chính mình, chứ không phải với Không Hải, cũng không phải với Dật Thế. “Giấc mơ nào?” “Giấc mơ diệu vợi ấy…” Đan Ông ngẩng lên trời, lẩm bẩm như vậy, rồi đưa mắt nhìn lại Không Hải. “Ngài vừa nhắc đến cái tên Bạch Long…” “Không Hải à, chuyện này là chuyện riêng của ta, không thể nói ra ngoài được.” “Cái bóng người đêm ấy ở cánh đồng bông của Từ Văn Cường có phải là người quen của ngài Đan Ông?” “Ừm.” “Đó phải chăng cũng là chuyện riêng?” “Phải. Không Hải, ta sẽ kể cho ngươi chuyện đó để đáp lại việc ngươi đọc cho ta nghe bức văn.” “Chuyện đó?” “Chuyện về những bức tượng dõng chui ra từ ruộng bông.” “Ngài Đan Ông có nói rằng chính ngài đã chôn chúng phải không?” “Đúng, ta đã nói như vậy.” “Có phải là một số lượng dõng rất kín?” “Không.” Đan Ông lặng lẽ lắc đầu. “Chỉ là mấy con đã chui ra mà thôi. Những bức tượng dõng chui ra vốn không được chôn ở đó từ đầu, mà do bọn ta làm phỏng theo những bức đã chôn ở đó từ trước.” “Ngài nói sao…” “Hãy nghe đi đã, Không Hải…” Nói đoạn, Đan Ông bắt đầu kể lại toàn bộ câu chuyện về những bức tượng dõng ấy. Mời các bạn đón đọc Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 3 của tác giả Baku Yumemakura & Uyên Thiểm (dịch).
Nhà Hàng Ở Tận Cùng Vũ Trụ
Bởi Trái Đất đã nổ tung, chúng ta hãy cứ tiếp tục lạc trôi trong Vũ Trụ cùng Bí kíp quá giang vào Ngân Hà và nhóm người ngoài hành tinh kỳ quặc: Arthur Dent người trái đất, Ford Prefect, bạn lâu năm kiêm biên tập viên kỳ cựu của Bí kíp; Zaphod Beeblebrox, cựu tổng thống Ngân Hà ba tay hai đầu; Tricia McMillan, cũng người trái đất; và Marvin, người máy hoang tưởng trầm uất. Và đích đến là đâu? Chính là địa điểm vừa để giải trí tận thế vừa ăn tối cực hot; nơi đồ ăn (thật sự) sẽ tự chúng lên tiếng mời bạn xơi... chúng. Nhưng liệu bọn họ có đến được nơi? Câu trả lời là: khó nói lắm. Song bạn hãy nhớ Bí kíp đã xóa luôn thời Tương lai Hoàn thành bởi cuốn sách đã khám phá ra rằng: Chẳng có tương lai nào hoàn thành cả! "Cái hài hước của cuốn sách vừa ngầu vừa đậm vẻ chán chường, nó không thẹn thùng mà thu hút ngay bất cứ ai thấy - cuộc đời quá ngắn để coi mọi chuyện là nghiêm túc." - Observer Colour Magazine *** TÁC GIẢ DOUGLAS ADAMS (1952 - 2001) Là nhà văn, nhà biên kịch người Anh. Tác phẩm nổi tiếng của ông, Bí kíp quá giang vào Ngân Hà, xuất phát điểm là vở hài kịch truyền thanh nhiều tập của BBC, sau đó được phát triển thành “bộ ba” tiểu thuyết gồm năm tập bán được tới hơn 15 triệu bản ngay từ lúc tác giả sinh thời, được chuyển thể thành phim truyền hình, kịch nói, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim điện ảnh. Ông cũng tham gia viết 3 tập trong series phim truyền hình nổi tiếng Doctor Who. Bởi Trái Đất đã nổ tung, chúng ta hãy cứ tiếp tục lạc trôi trong Vũ Trụ cùng Bí kíp quá giang vào Ngân Hà và nhóm người ngoài hành tinh kỳ quặc: Arthur Dent người trái đất, Ford Prefect, bạn lâu năm kiêm biên tập viên kỳ cựu của Bí kíp; Zaphod Beeblebrox, cựu tổng thống Ngân Hà ba tay hai đầu; Tricia McMillan, cũng người Trái đất; và Marvin, người máy hoang tưởng trầm uất. Và đích đến là đâu? Chính là địa điểm vừa để giải trí tận thế vừa ăn tối cực hot; nơi đồ ăn (thật sự) sẽ tự chúng lên tiếng mời bạn xơi… chúng. Nhưng liệu bọn họ có đến được nơi? Câu trả lời là: khó nói lắm. Song bạn hãy nhớ Bí kíp đã xóa luôn thời Tương lai Hoàn thành bởi cuốn sách đã khám phá ra rằng: Chẳng có tương lai nào hoàn thành cả! “Douglas Adams quả là nhà văn châm biếm cực kỳ xuất sắc!” WASHINGTON POST BOOK WORLD “Hài hước và hài hước đủ đường.” DAILY TELEGRAPH “Cái hài hước của cuốn sách vừa ngầu vừa đậm vẻ chán chường, nó không thẹn thùng mà thu hút ngay bất cứ ai thấy cuộc đời quá ngắn để coi mọi chuyện là nghiêm túc.” OBSERVER COLOUR MAGAZINE *** Câu chuyện từ đầu đến giờ là thế này: Trước tiên, Vũ Trụ được tạo ra. Việc này đã khiến nhiều người tức điên và luôn bị coi là một nước đi sai lầm. Nhiều chủng tộc tin rằng Vũ Trụ được tạo ra bởi một vị thần nào đó, tuy nhiên người Jatravartid trên hành tinh Viltvodle VI lại tin rằng thực ra cả Vũ Trụ đã được hắt hơi ra khỏi lỗ mũi một đấng có tên là Arkleseizure Xanh Vĩ Đại. Người Jatravartid, vốn sống với nỗi sợ thường trực cái ngày mà họ gọi là Khăn Tay Trắng Giáng Trần, là những sinh vật nhỏ màu xanh lơ có hơn năm mươi cánh tay, và vì vậy họ là chủng tộc có một không hai trong lịch sử đã phát minh ra chai xịt khử mùi trước cả bánh xe. Tuy nhiên, Thuyết Arkleseizure Xanh Vĩ Đại không được đón nhận rộng rãi bên ngoài Viltvodle VI, và vì thế, bởi Vũ Trụ là một nơi thật khó hiểu, nên luôn luôn có người tìm kiếm những lời giải thích khác. Ví dụ, một giống sinh vật siêu thông minh xuyên chiều đã tạo ra một chiếc siêu máy tính khổng lồ có tên Nghĩ Sâu để tính toán một lần dứt điểm Câu Trả Lời dành cho Câu Hỏi Tối Thượng về Sự Sống, Vũ Trụ và Vạn Vật. Suốt bảy triệu rưỡi năm, Nghĩ Sâu đã đo đạc và tính toán, và cuối cùng tuyên bố câu trả lời chính là Bốn mươi hai - và vì thế đã phải lắp một cái máy tính khác còn to hơn để khám phá xem câu hỏi thực ra là gì. Và cái máy tính này, có tên là Trái Đất, to đến nỗi nó hay bị nhầm là một hành tinh - nhất là bởi những sinh vật giống vượn kỳ lạ đi vơ vẩn trên bề mặt của nó, không hề hay biết rằng mình chỉ là một phần trong một chương trình máy tính khổng lồ. Và điều này thật kỳ lạ, vì nếu không có chút thông tin khá là đơn giản và dễ thấy đó, thì tất cả những gì đã xảy ra trên Trái Đất sẽ không thể có nghĩa gì cả. Đáng buồn thay, đúng trước thời điểm đưa ra kết quả quan trọng, Trái Đất đã bất ngờ bị san phẳng bởi một đội Vog để lấy chỗ - là chúng bảo thế - cho một đường cao tốc xuyên không gian, vì vậy chẳng còn hy vọng gì để khám phá ra ý nghĩa sự sống nữa. Hay ít ra là cũng có vẻ như vậy. Hai trong số những sinh vật giống vượn kỳ lạ đó đã sống sót. Arthur Dent thoát thân trong tích tắc chót chét vì một người bạn cũ, Ford Prefect, hóa ra lại đến từ một hành tinh nhỏ đâu đó cận biên sao Betelgeuse chứ không phải từ Guildford như trước nay anh ta vẫn nói; và, quan trọng hơn, anh ta biết cách quá giang đĩa bay. Tricia McMillan - hay còn gọi là Trillian - đã nhảy khởi hành tinh sáu tháng trước đó cùng Zaphod Beeblebrox, khi ấy là Tổng Thống Ngân Hà. Hai kẻ sống sót. Họ là tất cả những gì còn lại của thí nghiệm vĩ đại nhất - nhằm khám phá ra Câu Hỏi Tối Thượng và Câu Trả Lời Tối Thượng về Sự Sống, Vũ Trụ và Vạn Vật. Và, chưa đầy nửa triệu cây số cách nơi phi thuyền của họ đang biếng nhác trôi qua không gian đen thẳm như mực, một con tàu Vog đang từ từ tiến về phía họ. Mời các bạn đón đọc Nhà Hàng Ở Tận Cùng Vũ Trụ của tác giả Douglas Adams & Lê Minh Đức (dịch).
Ống Nhòm Hổ Phách (Vật Chất Tối của Ngài #3)
Ống nhòm hổ phách là phần thứ ba và cũng là phần cuối của bộ truyện VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI, một câu chuyện ba tập khởi đầu ở Bắc Cực Quang rồi nối tiếp bằng Con dao kì ảo. Tập cuối di chuyển giữa vài vũ trụ khác nhau. *** “Ví như giấc mơ tuyệt vời nhất, luôn đầy thuyết phục và cũng rất phức tạp, ngập tràn những ngạc nhiên, lo sợ và thích thú. Sức sáng tạo của Pullman dành cho nhân vật, cốt truyện và logic khiến người ta phải ghen tị với chất xám của ông.” - Telegraph “Những mạch truyện viễn tưởng, kinh dị và sự điên rồ khủng khiếp hoà lẫn với tài năng hiếm có đầy mê hoặc.” - The Times “Pullman là bậc thầy trong việc kết hợp tạo hình nhân vật hoàn hảo và xây dựng cốt truyện mạch lạc, duy trì một nhịp độ nhanh khi tạo các cảnh chồng nối lên nhau với áp lực khó cưỡng. Viên ngọc lấp lánh này sẽ khiến độc giả thuộc mọi lứa tuổi phải ngóng đợi hồi tiếp theo về những cuộc phiêu lưu của Lyra.” - Publishers Weekly “Một câu chuyện viễn tưởng đầy kinh ngạc, một bộ trinh thám nảy lửa và một sự phản ánh đáng suy ngẫm về tình trạng của loài người. Đây là một cuốn sách có thể được thưởng thức ở nhiều cấp độ.” - Guardian *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (His Dark Materials), cũng giống như Chúa tể của những chiếc nhẫn - tải eBook, Biên niên sử Narnia - tải eBook và Harry Potter - tải eBook, là một trong những bộ truyện giả tưởng Anh ngữ dành cho trẻ em đã được đánh giá cao của thời đại. Hai tập sau của truyện lần lượt là Kỳ Ảo Đao hay Thanh Gươm Huyền Bí (The Subtle Knife) và Hổ Phách Kính (The Amber Spyglass). Ánh Sáng Phương Bắc đã được hãng phim Hollywood New Line Cinema chuyển thể thành phim "The Golden Compass", đã khởi chiếu vào ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Anh (7 tháng 12 tại Mỹ và 26 tháng 12 tại Úc). Phim là sản phẩm có kinh phí cao nhất của hãng này kể từ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Ánh Sáng Phương Bắc miêu tả một vũ trụ giả tưởng, nơi mà có phù thủy bay, chiến binh gấu Bắc cực, linh hồn của con người trong dạng thú và một chế độ tăng lữ độc tài. Nhân vật chính của truyện là một bé gái mồ côi 11 tuổi tên Lyra Belacqua. Cô bé được nuôi nấng bởi một khoa học gia, Ngài Asriel. Ngài Asriel bị giáo hội bỏ tù vì nghiên cứu Bụi, một vật chất tối được cho là ẩn chứa đầy tội lỗi. Người bạn thân của Lyra là Roger bị bắt cóc bởi tổ chức Những Kẻ Nuốt Chửng (The Gobblers) và cô bé quyết định lên đường giải cứu bạn mình. Một người phụ nữ quyền lực tên Marisa Coulter đã đề nghị giúp Lyra. Trước khi đi, hiệu trưởng trường Jordan tặng cho cô bé Chân La Bàn (Alethiometer), một dụng cụ thần kỳ chỉ đến sự thật. Tuy nhiên, khi Lyra phát hiện ra bà Coulter là người xấu, cô bé chạy trốn, thoát khỏi sự truy đuổi và được một nhóm người Gypsy cưu mang. Họ tiết lộ Ngài Asriel và bà Coulter chính là cha mẹ ruột của cô bé. Lyra cùng họ vượt biển tiến về Bắc Cực, theo chỉ dẫn của Chân La Bàn. Trên đường, họ bị tấn công và Lyra bị bắt về Bolvangar, nơi giam giữ những đứa trẻ bị bắt cóc. Lyra dùng chiếc Chân La Bàn và trí thông minh của mình vượt ngục cùng những đứa trẻ khác. Chúng được phi hành gia Lee Scoresby, nữ hoàng ma thuật Serafina Pekkala và chiến binh gấu Iorek Byrnison cứu thoát. Sau đó, Lyra đi cứu Lord Asriel. Ông vừa thành công trong việc khám phá ra nguyên lý của Bụi và cầu nối với một vũ trụ song song. Truyện kết thúc khi linh thú của Roger bị té xuống vực, làm cậu bé chết theo. Lyra và Lord Asriel bước qua thế giới mới. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (Philip Pullman) là series Fantasy kinh điển và đồ sộ đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Huân chương Carnegie!! Tác phẩm kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry – hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Chúng sẽ gặp các phù thuỷ và gấu mặc giáp, thiên thần sa ngã cùng loài quỷ ăn linh hồn. Và cuối cùng, số phận của tất cả những người đang sống - và những người đã chết - sẽ phụ thuộc vào chúng... *** Khi lũ thú săn mồi, Từ hang tối sâu thẳm, Nhìn cô hầu say giấc. William Blake Trong một thung lũng rợp bóng đỗ quyên, sát với đường băng vĩnh cửu, nơi dòng sông mang màu trắng đục do nước từ băng tan tung bọt và nơi bồ câu cùng khổng tước bay giữa những rặng thông bạt ngàn, lấp ló một hang động bị che khuất gần hết bởi vách núi cheo leo phía trên và đám lá cứng đờ nặng nề túm tụm bên dưới. Khu rừng tràn ngập âm thanh: dòng nước chảy giữa các khe đá, gió luồn qua đám lá kim trên những cành thông, côn trùng rả rích, thú có vú nhỏ sống trên cây gọi bạn, và chim chóc líu lo. Cứ chốc chốc, một đợt gió mạnh sẽ khiến các cành tuyết tùng hay linh sam cọ vào nhau rồi rền rĩ kêu như tiếng đàn cello. Đó là một nơi ánh nắng chan hòa , không bao giờ ngừng lung linh; những tia sáng màu vàng chanh chói lọi đâm xuyên xuống nền rừng giữa những vệt và mảng râm màu xanh nâu; ánh sáng đó cũng không bao giờ chịu đứng yên, không bao giờ ổn định, do sương mù trôi dạt thường xuyên lơ lửng giữa những ngọn cây, lọc toàn bộ ánh nắng thành bảy sắc cầu vồng long lanh như ngọc trai và quét lên mọi quả thông một lớp nước ẩm khiến chúng lấp lánh khi sương tan. Đôi khi, không khí ẩm trong những đám mây cô đọng lại thành các hạt bé tin hin nửa sương mù nửa mưa, chúng lơ lửng hạ xuống chứ không phải rơi, tạo ra tiếng lộp độp rất khẽ giữa hàng triệu chiếc lá nhọn. Bên cạnh dòng sông có một lối đi nhỏ dẫn từ một ngôi làng - chỉ đông hơn một tổ hợp nhà ở của những người chăn gia súc chút ít - dưới chân thung lũng, đến một ngôi đền hầu như đã hoang tàn gần phía đầu của dòng nước, một nơi có những ngọn cờ lụa bạc phếch tung bay trong luồng gió không ngừng thổi tới từ rặng núi cao, nơi bánh lúa mạch và trà khô được các dân làng ngoan đạo cúng tế. Một hiệu ứng kì lạ của ánh sáng, băng giá và hơi nước bao lấy đỉnh thung lũng bằng những dải cầu vồng không bao giờ tan. Hang động nằm phía trên lối đi một chút. Nhiều năm trước, một người sùng đạo đã sống ở đó, thiền định, nhịn ăn và cầu nguyện. Người ta tỏ lòng tôn kính với nơi này vì kí ức gắn với ông. Nó sâu khoảng mười mét, sàn khô: Hang ổ lí tưởng cho một con gấu hoặc một con sói, tuy vậy những sinh vật duy nhất sống trong đó nhiều năm trời lại là chim chóc và dơi. Nhưng hình hài đang co quắp bên trong lối vào, đôi mắt đen láo liên quan sát mọi hướng, đôi tai thính nhạy vểnh lên, lại chẳng phải là chim hay dơi. Ánh nắng phả mạnh xuống bộ lông vàng óng ả của nó, đôi tay khỉ xoay một quả thông hết hướng này lại sang hướng kia, bẻ gãy từng nhánh bằng những ngón tay thoăn thoắt rồi cào lấy quả hạch ngọt lịm bên trong. Đằng sau nó, ngay bên trong vạch nắng chiếu tới, Phu nhân Coulter đang đun nước trong một cái xoong nhỏ trên bếp dầu. Khi con linh thú khẽ rên lên cảnh báo, bà liền ngước nhìn. Bước theo lối mòn trong rừng là một cô gái nhỏ trong làng. Phu nhân Coulter biết cô là ai: Đã vài ngày rồi Ama luôn mang đồ ăn tới cho bà. Lúc mới đến, Phu nhân Coulter đã loan tin rộng rãi rằng bà là một người sùng đạo đang thực hiện thiền định và cầu nguyện, kèm theo lời thề không bao giờ nói chuyện với đàn ông. Ama là người duy nhất bà cho phép ghé qua. Tuy nhiên lần này cô bé không đi một mình. Cha cô đi cùng, đứng đợi cách đó không xa, trong lúc Ama trèo lên hang động. Ama tới cửa động rồi cúi chào. “Cha cử con đến cùng với lời cầu nguyện cho thiện chí của bà,” cô bé lên tiếng. “Chào cháu gái,” Phu nhân Coulter nói. Cô bé đặt cái bọc quấn trong vải cotton đã bạc màu mình đang ôm xuống chân của Phu nhân Coulter. Sau đó cô chìa ra một bó hoa nhỏ, khoảng một tá cỏ chân ngỗng được buộc lại bằng một dải cotton, rồi bắt đầu nói bằng giọng liến thoắng đầy căng thẳng. Phu nhân Coulter hiểu được chút ít thứ ngôn ngữ của những cư dân vùng núi này, nhưng không bao giờ để cho họ biết chút ít đó là ngần nào. Vì vậy bà mỉm cười ra hiệu cho cô mím môi lại, rồi quan sát linh thú của hai người. Con khỉ vàng đang chìa ra bàn tay đen đúa nhỏ xíu của mình, con linh thú bươm bướm của Ama liền rập rờn bay lại gần, gần nữa cho đến khi nó đậu lên ngón tay trỏ chai sạn. Con khỉ từ tốn nâng nó lên tai mình, Phu nhân Coulter lập tức cảm thấy một luồng thấu hiểu nhỏ xíu tuôn vào tâm trí mình, khiến cho những lời của cô bé trở nên rõ ràng. Dân làng lấy làm mừng khi một nữ sĩ sùng đạo như bà tìm chỗ ẩn trú trong hang động, nhưng người ta đồn thổi rằng bà có người đi cùng, một người về mặt nào đó rất nguy hiểm và hùng mạnh. Đó là điều khiến dân làng e sợ. Nhân vật còn lại này liệu là chủ nhân của Phu nhân Coulter, hay là bầy tôi của bà ta? Liệu bà ta có ác ý gì không? Bà ta đến đây với mục đích gì? Họ có định ở lâu không? Ama truyền tải những câu hỏi này cùng với vô vàn mối lo ngại. Một câu trả lời khác lạ nảy ra trong đầu Phu nhân Coulter khi sự thấu hiểu của con linh thú thấm vào bà. Bà có thể nói sự thật. Không phải tất cả, hẳn nhiên rồi, mà là một vài điều. Bà cảm thấy người khẽ run lên khoái trá trước ý tưởng đó, nhưng lại không để lộ ra trong giọng nói khi giải thích: “Phải, có một người đang ở cùng với ta. Nhưng không có gì phải sợ cả. Đó là con gái ta, nó đang chịu một lời nguyền khiến nó say ngủ. Chúng ta phải đến đây để trốn kẻ đã bỏ bùa con bé, trong lúc ta cố gắng chữa trị cho nó và bảo vệ nó khỏi nguy hiểm. Đến nhìn nó đi, nếu cháu muốn.” Ama đã dịu đi phần nào nhờ giọng nói nhẹ nhàng của Phu nhân Coulter, nhưng vẫn còn lo sợ một phần; nhắc đến kẻ bỏ bùa và lời nguyền lại càng khiến cô kinh hãi hơn. Nhưng con khỉ vàng lại đang ôm linh thú của cô hết mực dịu dàng, bên cạnh đó, bản thân cô cũng tò mò, vậy là cô theo chân Phu nhân Coulter vào trong động. Cha cô bé ở con đường bên dưới bước tới trước một bước, con linh thú quạ của ông vung cánh lên vài lần, nhưng ông vẫn giữ nguyên vị trí. Phu nhân Coulter thắp một ngọn nến vì ánh sáng đang yếu đi nhanh chóng, rồi dẫn Ama vào phía sau hang động. Đôi mắt của cô gái nhỏ long lanh trong bóng tối, hai bàn tay cô cùng cử động theo động tác lặp đi lặp lại của một ngón tay trên ngón cái, rồi lại một ngón tay trên ngón cái, để xua đi hiểm nguy hay khiến các linh hồn xấu xa bị rối loạn. “Cháu thấy không?” Phu nhân Coulter nói. “Con bé không làm hại được ai đâu. Không có gì phải sợ hãi cả.” Mời các bạn đón đọc Ống Nhòm Hổ Phách (Vật Chất Tối của Ngài #3) của tác giả Philip Pullman & Trang Rose (dịch).