Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mặt Nạ Hoàn Hảo - Sherry Thomas

Tình yêu nóng bỏng nhất trong bóng tối trước bình minh Elissande Edgerton là một cô gái tuyệt vọng, một tù nhân thực sự trong ngôi nhà của người chú bạo ngược. Chỉ có hôn nhân mới có thể giúp cô giành lấy sự tự do cô vẫn khao khát. Nhưng làm thế nào để bắt được một người đàn ông hoàn hảo? Ngài Vere đã quen thuộc với những cái bẫy hấp dẫn không thể cưỡng lại. Là một đặc vụ bí mật của chính quyền, anh săn lùng những tội phạm thủ đoạn nhất của London, cùng lúc khoác lên vỏ bọc là một chàng độc thân ngốc nghếch, và gần như vô hại nhất của Xã hội thượng lưu. Nhưng không có gì chuẩn bị cho anh trước vụ tai tiếng bị Elissande gài bẫy. Bị ép buộc vào một cuộc hôn nhân vụ lợi, Elissande và Vere dần khám phá ra rằng họ không phải là người duy nhất có một cuộc sống che giấu sau một chiếc mặt nạ. Sức quyến rũ là vũ khí duy nhất để họ chống lại lẫn nhau – và một bí mật đen tối của quá khứ đe dọa cuộc sống của cả hai người – liệu họ có thể học cách tin tưởng lẫn nhau ngay cả khi họ đầu hàng trước một đam mê không thể chối bỏ? *** Những lời khen tặng: Mặt nạ hòan hảo đoạt Giải thưởng RITA  năm 2011 dành cho Tiểu thuyết lãng mạn cổ điển hay nhất. “Thomas đã viện đến một sự hiểu lầm lớn (như bà đã làm trong Private arrangement năm 2008) để thúc đẩy cuốn tiểu thuyết lãng mạn thời Victoria này, và được hoàn chỉnh với văn phong mượt mà hoàn hảo. Thomas viết với trí thông minh và lòng thông cảm chân thực.” --Publishers Weekly “Khi cuộc càn quấy bí ẩn của lũ chuột khiến một nhóm hàng xóm với những anh chàng độc thân sáng giá phải chạy sang nhà Elissande Edgerton ở nhờ, Elissande tuyệt vọng nắm lấy cơ hội này để giải thoát mình và người dì nghiện cồn thuốc phiện khỏi sự khống chế của người chú bạo ngược bằng cách tìm một người chồng – trong vòng ba ngày tới. Tuy nhiên, kế hoạch quyến rũ của cô đã bắt không đúng người, và cô sẽ sớm kết hôn với Hầu tước của Vere ngốc nghếch đến ngọt ngào, người đàn ông mà dần dần cô nghi ngờ rằng không ngu đần như anh thể hiện. Nhưng những chiếc mặt nạ bề ngoài là để che giấu quá khứ của những tâm hồn nhiều sẹo, và khi Vere và Elissande chiến đấu để chống lại một kẻ côn đồ độc ác, những bí mật, hoài nghi và ý nghĩ hoang đường đe dọa mối quan hệ mong manh của họ. Nóng bỏng, cảm xúc sâu sắc, văn phong trữ tình và những tính cách hiện thực đến sắc sảo, Thomas đã mang đến một cuốn sách không thể nào quên.” -- Library Journal “Thomas không chỉ làm nổi bật thể loại lãng mạn cổ điển, cô còn làm nó phong phú với những nhân vật thông minh, đối thoại sắc bén, những cách xây dựng tình tiết mới mẻ và những câu chuyện tình yêu tuyệt vời. Đọc những cuốn tiểu thuyết của cô là một sự thích thú hiếm hoi – một cái nhìn sâu sắc vào trái tim và tâm trí của những con người mơ mộng.” — Romantic Times “Chắc chắn xứng đáng với sự mong đợi và tiếng vang nhận được. Nhân vật nam chính và nữ chính đều thú vị, mâu thuẫn đầy hấp dẫn và kích thích trí tò mò,  văn phong tuyệt vời. Đúng là một chiến thắng tuyệt đối.” — All Abuot Romane “Đây là một cuốn truyện rất hay và cuốn hút, khiến tôi phải khó khăn lắm mới đặt được nó xuống, ngay cả giữa một bữa tiệc dài trong tuần.” — Ramblings on Romane “Văn phong hay, nhân vật thú vị, cốt truyện phức tạp… tất cả những điều đó cộng dồn lại thành một lời đề cử chắc chắn từ chúng tôi.” — Romane Reviews Today “Nhàm chán với những quý ông gián điệp thời Nhiếp chính? Nếu bạn nói phải, hãy dành một ngoại lệ cho Mặt nạ hòan hảo, bởi vì nó không hề nhàm chán. Cuốn truyện này rất sống động và thú vị. Sherry Thomas đã mang đến cho dòng tiểu thuyết lãng mạn thời Nhiếp chính một sức sống mới tuyệt vời.” — Love Romane Passion “Tôi thích mọi thứ về cuốn truyện này. Khi đang đọc nó, tôi không bao giờ muốn nó kết thúc. Thích, thích và thích.” — The Trillionth Page “Niềm vui sướng thực sự, tất nhiên, là có mặt ở đó, quan sát điệu tango phức tạp và gợi tình mà Vere và Elissande biểu diễn. Có những màn khởi đầu vui nhộn, những cuộc trò chuyện tán tỉnh thú vị, và những cảnh quyến rũ tuyệt vời.” — The Literate Kitty “Cuốn sách này là một chuyến cưỡi ngựa trên một bờ biển cuồn cuộn sóng, tràn ngập cảm xúc khiến bạn luôn bất ngờ và thích thú.” *** Sherry Thomas là một tên tuổi khá mới ngay cả đối với làng tiểu thuyết Mỹ, tác phẩm đầu tiên của cô là Private arrangements đã ra mắt vào năm 2008 (đã được xuất bản tại Việt Nam  với tên tiếng Việt là Giao ước định mệnh ), và cho đến nay mới chỉ có bốn tác phẩm. Tuy nhiên, tất cả những tác phẩm của cô đều đạt được những thành công vang dội. Tác phẩm đầu tay Giao ước định mệnh ngay lập tức gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả và lọt vào danh sách đề cử chung cuộc cho giải thưởng RITA dành cho Tiểu thuyết đầu tay hay nhất và Tiểu thuyết lãng mạn cổ điển hay nhất năm 2009. Những tác phẩm tiếp theo: Delicious, Not quite a husband và His at night ( tên tiếng Việt là Mặt nạ hòan hảo)liên tục nằm trong danh sách những cuốn sách hay nhất của những tờ báo và trang web uy tín như New York Times, Library Journal, Publishers Weekly, Romantic Times, All about Romance, Dear Author, The Romane Reader... Đặc biệt, hai tác phẩm Not quite a husband và His at night liên tiếp nhận được giải thưởng RITA (giải thưởng uy tín nhất dành cho các tiểu thuyết gia lãng mạn Mỹ) ở hạng mục Tiểu thuyết lãng mạn cổ điển hay nhất lần lượt vào các năm 2010 và 2011, một thành công hiếm có, ngay cả đối với các tiểu thuyết gia đã thành danh. Sherry Thomas được đánh giá cao vì văn phong mới mẻ và sắc sảo, hài hước pha lẫn châm biếm; các nhân vật được khắc họa rất thật, rất người và hấp dẫn; mỗi câu chuyện đều được xây dựng có chiều sâu và ẩn chứa nhiều hàm ý sâu xa. Mỗi lần đọc lại đều có thể là một lần khám phá ra những tình tiết, những nét mới và thú vị khiến cho độc giả không thể nhàm chán cho dù đọc lại nhiều lần. Lisa Kleypas (một trong những tác giả bán chạy nhất của tạp chí New York Times) đánh giá cô là “Tác giả đang viết tiểu thuyết lãng mạn cổ điển hay nhất hiện nay”. *** “Pedicapo ego vos et irrumabo’ có nghĩa là gì?” Elissande hỏi, khi họ leo lên con dốc dẫn đến đỉnh vách đá Người treo cổ. Bình minh ngày hôm nay đầy nắng và xinh đẹp. Bờ biển phơi bày những mũi đất nguyên sơ và một bãi biển hoang dã. Cô bị cuốn hút ngay lập tức. Sau bữa sáng, họ thuê một cỗ xe và đánh xe đến Combe Martin, ngôi làng gần vách đá Người treo cổ nhất, và từ đó họ đi bộ, lang thang qua những đồng cỏ xanh rờn lác đác vài con dê trắng đáng kinh ngạc trên lối đi. Chồng cô đang uống nước từ bi đông nước mang theo. Trước câu hỏi của cô, anh sặc giống em trai mình vào cái buổi tối anh tuyên bố cụm từ đó là khẩu hiệu gia đình của nhà Edgerton ở Abingdon. Elissande phải đập mạnh vào lưng để giúp anh thoát khỏi cơn sặc. Anh vừa rên rỉ vừa cười. “Chúa tôi, em vẫn còn nhớ à?” “Tất nhiên em nhớ. Nó không phải khẩu hiệu của một gia đình nào đó, đúng không?” “Không!” Anh gập đôi người lại để cười. “Hay ít nhất, anh hy vọng là không”. Cô yêu tiếng cười của anh. Càng yêu nó nhiều hơn vì anh đã lê bước trên con đường dài, cô đơn để đến được với ngày này, ngày họ có thể tay trong tay thưởng lãm bờ biển của miền Tây đất nước. Cô nhặt chiếc mũ bị rơi xuống đường của anh lên. “Thế nó có nghĩa là gì?” Cô vuốt tóc và đặt lại chiếc mũ trên đầu anh, điều chỉnh góc độ cho đúng – cô vẫn còn chưa quen với những đồ dùng của đàn ông. “Nó được trích từ một bài thơ của Catullus, có lẽ là bài thơ bậy bạ nhất em không mong được đọc trong đời đâu”, anh hạ giọng xuống với vẻ bỡn cợt, “Bậy đến mức anh không nghĩ có bản dịch nào được xuất bản ở Anh”. “Ồ?” Cô phải nghe cái này. “Nói đi”. “Một quý bà trẻ tử tế giống như em không nên hỏi”, anh trêu. “Một quý ông trẻ tử tế như anh không nên giữ kín, hoặc là quý bà trẻ tử tế sẽ bị xúi giục đi hỏi em trai anh”. “Oái, đe dọa à. Anh thích đấy. Chà, nếu em phải biết, động từ đầu tiên liên quan đến thói thủ dâm”. Anh phá lên cười lần nữa, lần này là vì biểu hiện của cô. “Đừng sốc thế. Anh đã nói với em là bậy bạ mà”. “Rõ ràng em có một cuộc đời được bao bọc. Khái niệm về bậy bạ của em là gọi người khác là xấu xí và ngu ngốc. Có động từ thứ hai không?” “Đúng là có. Nó cũng liên quan đến một hành động tình dục, phần nào ít thô thiển hơn, nhưng vẫn khiến một phòng các quý cô kêu the thé đòi thuốc muối nếu nó được nhắc đến”. Cô há hốc miệng. “Em nghĩ em biết nó là gì rồi”. Anh lùi lại ngạc nhiên. “Không, em chắc chắn không biết nó là gì”. “Có, em biết”, cô tự mãn nói. “Cái đêm anh uống say bí tỉ, anh đã nhắc đến rút lui. Và anh nói nếu anh trong một tâm trạng đặc biệt tồi tệ, anh sẽ bắt em nuốt tinh trùng của anh”. Cằm anh trễ xuống. “Anh lấy lại lời nói đó. Thế là em biết nó là gì rồi. Lạy Chúa, đó là tất cả những gì anh nói với em rồi chứ?” Một người chăn cừu trẻ xuất hiện trên đường, ôm một đống lông đi về phía họ. ... Mời các bạn đón đọc Mặt Nạ Hoàn Hảo của tác giả Sherry Thomas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vinh Quang Và Quyền Năng - Graham Greene
Graham Greene, nhà văn Anh nổi tiếng được công chúng Việt Nam biết đến với tiểu thuyết The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) đã được dựng phim hai lần, ông được coi là người viết về chiến tranh Việt Nam ấn tượng nhất. Là người sống cuộc đời đầy phiêu lưu và mạo hiểm nên, Greene thích đưa các nhân vật người Anh dè dặt của mình vào những tình huống khắc nghiệt, ở những nơi chốn khác lạ. Trong thế kỷ 20, không nhà văn nào có được những nhìn nhận tinh tế hơn Graham Greene khi đưa ra sự so sánh giữa con người với con người. Khi mà ngày càng có ít các nhà văn cố gắng phân tích những đức tính tốt đẹp của con người rơi vào sự sa ngã, thì Greene là bậc thầy trong sự phân minh đầy tính phức tạp này. Nhân vật của ông tồn tại trong hệ thống phẩm hạnh được xác định rõ ràng… Với thành công đó, nhà văn nào cũng thèm muốn có được sức tưởng tượng chứa đầy sự đột phá vô cùng hấp dẫn như Greene - người không bao giờ thiếu chuyện để viết mà ngược lại, luôn ngập trong những áng văn không ngừng tuôn chảy trong mình. Greene từng nói rằng, thời niên thiếu không hạnh phúc là sự cân bằng vô cùng bổ ích cho ông. Tuổi thơ của ông là sự khổ cực ở trường học, những cuộc vật lộn với thầy hiệu trưởng lại là chính người cha của mình; tìm cách tự vẫn ở tuổi vị thành niên và rồi lại si tình đến mê muội người vợ của chuyên gia tâm thần học chữa bệnh cho mình; không đam mê thể thao và thường bỏ học để dành thời giờ đọc tiểu thuyết phiêu lưu của các nhà văn như Rider Haggard và R. M. Ballantyne… Chính những câu chuyện đó đã có ảnh hưởng sâu đậm tới Greene và giúp ông tạo được phong cách văn chương của mình. Graham Greene là người trầm lặng, kín đáo nhưng cuộc sống riêng tư của ông lại rối như tơ vò. Ông tự nhận mình là “một người chồng tồi và người yêu không kiên định” bởi có quan hệ với nhiều phụ nữ, chưa kể thú đam mê rượu đến mức trở thành huyền thoại. Năm 1925, khi mới 21 tuổi, Graham Greene phải lòng Vivienne Dayrell-Browning – một cô gái xinh đẹp theo đạo Công giáo. Nhà văn tương lai mất hai năm ròng với hàng trăm lá thư tình mùi mẫn mới chinh phục được người đẹp. Chưa hết, trước khi được Vivienne mở lời nói câu đồng ý trước bàn thờ Chúa, Greene còn phải cải đạo để vừa lòng ý trung nhân. Hai người kết hôn năm 1927. Họ đã có một thời gian khá mặn nồng, nhưng càng ngày, bất đồng giữa hai người càng lớn. Vivienne khá khắt khe và có cái nhìn cao đạo với vấn đề tình dục. Trong khi chồng cô lại là một người rất trần tục và luôn thẳng thắn thể hiện các nhu cầu bản năng. Họ có hai người con Lucy Caroline và Francis. Cuộc hôn nhân tan vỡ từ năm 1939 nhưng đến năm 1947, hai người mới chính thức chia tay. Cuốn “Vinh quang và quyền năng” có lẽ là một lời biện hộ muộn màng cho hôn nhân tan vỡ của mình. *** Là tài năng hiếm có trong thế giới văn chương ngày càng mang tính bản địa, một người theo chủ nghĩa quốc tế tài năng có nhận thức chính trị sắc bén, nhưng Graham Greene lại từ chối nhìn nhận mình là một nhà văn chính trị. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông, Thư viện Anh tổ chức một cuộc triển lãm các kỷ vật của Green; còn tại thành phố Berkhamstead quê bương ông thuộc Tây Bắc London diễn ra hội nghị kéo dài một tuần, trong đó bàn đến những đóng góp của Greene cho nền điện ảnh, món nợ văn chương của ông với Joseph Conrad và mối quan hệ với Vua hề Charlie Chaplin... Nếu còn sống, chắc chắn Graham Greene sẽ là người phản đối quyết liệt cuộc chiến của Mỹ ở Iraq, bởi ông từng lớn tiếng lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở VN: "Đây không chỉ là việc làm xấu xa mà là cuộc chiến xuẩn ngốc nhất...", Greene nói như vậy trong một cuộc phỏng vấn năm 1967. Ông còn chỉ trích về chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Greene từng nói rằng, nhiệm vụ của ông là mô tả "nỗi cam go của sự việc theo tâm lý, và đôi khi theo quan điểm chính trị". Đọc sách , độc giả nhận thấy phần lớn trong hơn hai chục tiểu thuyết của ông bộc lộ sự xung đột giữa lòng trung thành và khát vọng, sự giao thoa đầy khó khăn giữa chính trị và đạo đức. *** Tác phẩm của một tiểu thuyết gia công giáo người Anh, một người Anh giáo trở lại, như cuốn “Vinh Quang và Quyền Năng” trước hết mang lại cho tôi cảm giác bỡ ngỡ. Chắc chắn là tôi tìm được trong đó môi trường tâm linh quen thuộc, chính trong sâu thẳm của màu nhiệm quen thuộc mà Graham Greene đã đưa tôi vào. Nhưng mọi việc diễn ra cứ như thể tôi đi vào một khu nhà cổ qua một cánh cửa bị che khuất sau những dây leo, cành cây, mà tôi không biết, và bỗng chốc tôi nhận ra cái lối đi lớn trong vườn nơi ngày xưa tôi thường nô đùa, và tôi nhẩm đọc những chữ viết tắt mà tôi đã khắc lên thân cây sồi trong những kỳ nghỉ hè năm nào. Một người công giáo Pháp chỉ đi vào giáo hội qua cổng chính; họ bị chi phối bởi lịch sử chính thức của giáo hội Pháp; họ dự phần vào những cuộc tranh luận đã từng phân hoá giáo hội Pháp trong nhiều thế kỷ, người ta khám phá ra người nào đó thuộc phe Port Royal hay Dòng tên, họ về phe Bossuet chống lại Fenelon hay họ về phe với Lamenais và Lacordaire hay với Louis Veuillot. Không thể không liên tưởng đến tác phẩm của Bernanos khi đọc “Vinh quang và Quyền năng”. Những tranh luận của giới công giáo trong suốt bốn thế kỷ qua như được phác hoạ lại nơi đây. Sau cha xứ Donissan trong “Dưới ánh mặt trời của Satan” xuất hiện cha sở xứ Ars. Những vị thánh của Bernanos, những linh mục có khuynh hướng tự do, những giáo dân ngoan đạo mà ông mô tả với giọng điệu cay cú nói ngược lại sự tôn kính và sự gớm ghiếc của ông. Phần mình, Graham Greene đã lén lút đi vào vương quốc bí nhiệm, trong vương quốc của thiên nhiên và ân sủng. Không có thiên kiến nào làm vẩn đục cái nhìn của ông. Không có luồng tư tưởng nào làm ông rời xa phát hiện của ông, cái bí quyết mà ông đã đột nhiên tìm thấy. Ông không có một định kiến nào về cái mà chúng ta gọi là “linh mục tội lỗi”. Có thể nói rằng, ông không có trong đầu óc một mô hình đạo đức nào cả. Có bản tính tự nhiên hay hư nát và có Ân sủng quyền năng; có con người khốn khổ, không đáng giá gì sất, ngay cả để làm điều tội lỗi và cái tình yêu nhiệm màu bao trùm con người trong cái khốn nạn cũng như trong cái hổ nhục để biến họ thành thánh, một vị tử đạo. Vinh quang và quyền năng của Chúa Cha toả rạng nơi bản thân một linh mục Mexico nghiện rượu và đã có con với một nữ giáo dân của mình. Mô típ lố bịch, tầm thường và tội trọng của ông chỉ làm cho người ta cười nhạo hay nhún vai và ông linh mục tội lỗi nhận biết điều đó. Cái mà cuốn sách này muốn chứng minh cho chúng ta là, nếu tôi nói không quá, là việc thánh hoá tội lỗi nhờ ân sủng. Vị linh mục phản động, bị chính quyền kết án tử hình, đầu ông bị treo giá (cuốn truyện mượn khung cảnh một nước Mexico bị thao túng bởi những người cầm đầu chống đạo) đã tìm cách đi trốn, như những linh mục khác đã làm, ngay cả những vị thánh thiện nhất. Ông chạy trốn, đã vượt được qua biên giới, nhưng lại quay về khi có người hấp hối cần đến ông hay cả khi ông biết sự hiện diện của ông không mang lại gì hay cả khi ông biết đó là một cái bẫy, rằng người đến kêu cứu ông là người chỉ điểm. Vị linh mục nghiện rượu, tội lỗi, run sợ trước cái chết, đã hiến dâng mạng sống mình nhưng không bao giờ quên cái cảm giác hèn hạ, nhục nhã của mình. Ông ta sẽ cho là chuyện tiếu lâm nếu ai đó nói ông là Thánh. Ông được bảo vệ cách lạ lùng chống lại thói kiêu ngạo, sự tự mãn. Ông đi tử đạo nhưng luôn mang trong mình ý thức về sự sa đoạ, phạm thánh của một linh mục đang trong tình trạng tội trọng, đến nỗi ông hy sinh thân mình nhưng qui chiếu tất cả cho Thiên Chúa, cho quyền lực và vinh quang của Ngài nơi con người khốn nạn nhất trong những con người: chính bản thân ông ta. Và càng đi đến hồi kết, chúng ta càng thấy con người tội lỗi tầm thường này càng hoá thân nên giống Chúa Kitô để nên giống Ngài, nhưng chưa đủ: đến mức đồng hoá mình với Chúa của mình. Mầu nhiệm Thương khó tái hiện nơi tội nhân này, tội nhân được lựa chọn trong cặn bã của nhân loại và đã lặp lại điều Đức Kitô đã làm, không phải ở trên bàn thờ dưới hình bánh hình rượu và mình thì chẳng mất gì, nhưng là hiến tế chính máu và thịt mình trên Thánh giá. Ở nơi con người vị “linh mục tội lỗi” này, không phải là những nhân đức đã tỏ rạng để đối lập với tội lỗi, nhưng chính là đức tin - đức tin vào cái dấu ấn vô hình ông đã lãnh nhận ngày thụ phong, vào cái kho tàng mà chỉ có mình ông (bởi vì những linh mục khác đã bỏ trốn hay đã bị sát hại) còn mang trên đôi tay bất xứng nhưng đã được Thánh hiến. Vị linh mục cuối cùng còn lại trong vùng, ông không thể tin được rằng sau ông sẽ còn linh mục để cử hành thánh lễ, để giải tội, để giúp kẻ liệt trước ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu. Và dù sao đức tin của ông đã không lay chuyển dù ông không biết rằng, ngay khi ông vừa gục ngã dưới làn đạn, một linh mục khác đã đột ngột xuất hiện. Qua đó, chúng ta cảm nhận sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa trong một xã hội vô thần, cái giòng chảy ngầm của ân sủng đã làm Graham Greene choáng ngợp hơn là cái mặt tiền hoành tráng mà giáo hội trần thế trình ra trước mặt các dân tộc. Nếu có một ki tô hữu nào đó mà sự sụp đổ của giáo hội hữu hình không làm cho xao xuyến, chính là Graham Greene mà tôi nghe nói ở Bruxelles, trước mặt hàng ngàn tín hữu và sứ thần toà thánh, đã gợi lên hình ảnh vị giáo hoàng cuối cùng trong một Âu châu hoàn toàn mất đức tin, đứng xếp hàng trước quầy vé, mặc chiếc quần tây xoàng xĩnh, cầm trên tay, còn lấp lánh chiếc nhẫn của “người đánh cá”, cái cặp giấy carton. Có thể nói rằng, cuốn sách này là một thông điệp gởi đến thế hệ trong đó mọi cái đều bị xem là phi lý. Những người trẻ thời đại Jean Paul Sartre, Camus, những con mồi tuyệt vọng của cái tự do phù phiếm. Graham Greene hé lộ rằng, có thể, sự phi lý này thực ra chỉ là một tình yêu không bờ bến. Ông cũng gởi thông điệp cho những người ngoan đạo, những người chưa bao giờ nghi ngờ về những giá trị của chính mình và luôn mang trong đầu những mô thức thánh thiện, với những phương thế chuyên biệt để đạt được những mức độ đạo đức khác nhau. Ông đặc biệt nhắm tới những kitô hữu, linh mục và giáo dân, các tiểu thuyết gia đang rao giảng con đường thập giá nhưng phải nói là họ chưa chịu “đóng đinh” đủ. Bài học lớn cho những người bị ám ảnh bởi sự toàn thiện, những con người khốn khổ săm soi những khiếm khuyết của mình mà quên rằng ngày phán xét sau cùng, theo thánh Gioan Thánh giá, chính tiêu chuẩn tình yêu là tiêu chí phán xét. Cái đất nước ông mô tả truy lùng các linh mục và giết hại các ngài, đúng là cái đất nước mà chúng ta đang thấy hình thành trước mắt. Đây là giờ của “hoàng tử thế gian”, nhưng ông mô tả họ không chút hận thù: ngay với tên đao phủ, ông cảnh sát trưởng đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Họ tìm kiếm chân lý; họ tin đã tìm thấy chân lý và đang phục vụ chân lý, cái chân lý đòi phải hy sinh một số đồng loại. Bóng tối bao trùm vùng đất mà ông mô tả, nhưng có một tia sáng nào đó đang xuyên qua. Dù gì đi nữa, chúng ta không nên sợ hãi, tác giả đã nhắc cho chúng ta rằng điều bí ẩn sẽ được nhận biết, cũng còn những giá trị cho thế giới phi lý này. Cái tự do mà Sartre đề nghị cho con người có những giới hạn: chúng ta biết rằng, những tạo vật được yêu thương như chúng ta không có tự do nào khác ngoài cái tự do từ chối tình yêu đó… Francois Mauriac. Mời các bạn đón đọc Vinh Quang Và Quyền Năng của tác giả Graham Greene.
Bước Khẽ Tới Người Thương - Nhã Ca
H iền lại phạm thêm một lỗi lầm nữa, và ăn năn. Ai mượn Hiền leo lên chiếc xe xích lô đạpđã chớ. Khi vội, sao không gọi chiếc tắc xi. Nhưng Hiền tự chống chế: Mưa mù mịt thấy gì đâu.Xe cộ nào chạy đâu? Có chiếc xích lô, thà leo lên đại. Hiền muốn giục ông xích lô đạp nhanh chút nữa. Nhưng ngồi kín bít bung như thế này, có hét, ông cũng chẳng nghe ra đâu. Người ta đôi khi chậm một chút mà hỏng cả một đời đấy chứ. Ví dụ như Hiền tới không kịp. An chết trước vài phút, thì sẽ ra sao nhỉ? Hiền sẽ sốnh với ám ảnh ghê gớm lắm. Mưa gió thế này. An lại yếu như ngọn đèn sắp tắt. Thê thảm quá. Nghĩ tới An, nằm thoi thóp trong bệnh viện, phấn đấu với thần chết từng giây phút để chờ Hiền. Hiền muốn ứa nước mắt. Anh An Hiền đã đến với anh đây, đến để gật đầu cho anh thấy. Không phải vì nhân đạo, vì lương tâm hay cứu người gì hết, mà vì Hiền yêu An. Yêu thật. Yêu nặng. Ví dụ, lúc Hiền tới, cả nhà đang đông đủ ngồi bên An. Hiền cũng vào như thường. Tưởng tượng An nằm trên giường mặt trắng như sáp, và hơi thở mong manh. An chờ đợi ,An nuối Hiền. Và cả nhà khóc ơi là khóc. Hiền đẩy cửa đi vào. Hiền đẩy cửa thật nhẹ, và bước thật khẽ. Rồi Hiền tới bên giường An. Cả nhà thấy Hiền lại òa lên khóc. Họ phải biết An chờ Hiền chứ. Ðến phút này thì còn đấu diếm gì ai nữa. Hiền còn cần thẹng thùng xấu hổ gì nữa. Hiền dám công khai. Hiền cúi xuống gọi chớ sợgì:- Anh An ,An còn nghe được không? Chắc còn thở thì còn nghe được. Và An nhướng mắt lên. An trông thây Hiền rồi. Trong đôi mắt đang dại dần , ánh lên những tia sáng mừng vui. Miệng An mấp máy. Phải mấp máy chứ, vì An còn ngậm mãi câu hỏi trong miệng:- Hiền yêu An không? Hiền sẽ cầm tay An, và Hiền khóc. Hiền gật đầu, trả lời câu hỏi của An chỉ có Hiền hiểu:- An Hiền có, có thương An. Thương? Hẳn An chưa hài lòng câu trả lời đó. Và mặt An tái đi,An ho. Máu bắn ra dữ quá. Maú bắn lên cả áo Hiền nữa. Hiền gật đầu rối rít:- Anh An ,Hiền yêu anh. Ðó, Hiền trông rõ nụ cười của An. Nụ cười, chao ơi, suốt đời Hiền sẽ ghi nhớ. Và An khẽ đưa tay ra, khẽ cầm chặt tay Hiền úp lên ngực. Và với nụ cười cứ mơ hồ phảng phất trên môi, An đi rất nhẹ nhàng. Mọi người chung quanh sẽ khóc ghê lắm. Còn Hiền ,Hiền chỉ ngồi bên An, tay còn đặt lên trái tim đang lạnh dần của An, và nhỏ nước mắt. Mưa đã khóc dùm Hiền biết bao nhiêu lệ rồi. Hiền sẽ yêu cầu tắt hết điện, để chỉ thắp trong phòng An một ngọn nến. Rồi sau đó, Hiền trả cái xác của An cho gia đình chàng. Hiền với linh hồn An ra đi,trong mưa. Ði đâu nhỉ? Có lẽ phải trở lạinhà Huyên,và nói với Huyên: - Huyên ơi. Thế là hết. Không, phải tìm một câu nào cho thật văn hoa, để Huyên phải ứa nước mắt , phải khóc cho cuộc tình quá đẹp, lại quá mong manh, và tan vỡ. Có lẽ Hiền sẽ nói thế này: - Huyên ơi, tụi này đã mất nhau trong đời. *** Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Bước Khẽ Tới Người Thương của tác giả Nhã Ca.
Giai Điệu Của Annie - Catherine Anderson
Annie - một cô gái bị tất thảy mọi người coi là loạn trí sau một trận ốm lúc nhỏ. Cô lớn lên xinh đẹp như một bông hoa rừng nhưng bị mọi người xa lánh, cha mẹ coi như nỗi hổ thẹn của gia đình. Bất hạnh hơn nữa cô bị một gã trai nhà giàu vô tích sự cưỡng bức. Và kết quả là người anh trai gã phải lĩnh trách nhiệm lấy cô về để đảm bảo cho cháu mình sẽ không bị cho vào trại mồ côi. Cứ nghĩ câu chuyện sẽ đầy những dằn vặt, đau khổ, những đôi mắt đau đáu, những tội lỗi không gột rửa được, và đến hết truyện, cho dù tác giả có bảo hạnh phúc gì đó, vẫn gợn nỗi đau. Ấy thế mà không, với khả năng kể chuyện tài tình của tác giả khiến cho độc giả hoàn toàn bất ngờ. Khi Alex buồn bã mang Annie về như một gánh nặng, anh không ngờ mình mang về một kho báu, mà càng ngày, kho báu ấy càng cho thấy sự vô giá của nó. Khi Annie nghe Alex nói cô là vợ anh, cô đau khổ không hiểu sao mình làm đám cưới mà chẳng có quà, để rồi biết anh là món quà tuyệt vời nhất trong đời. Bạn sẽ chăm chú xem Alex vén dần bức màn bí mật quanh cô gái Annie như thế nào. Bạn sẽ bật cười khi được nhìn từ cái nhìn đầy ngây ngô của Annie với thế giới xung quanh. Bạn sẽ dõi theo sự lúng túng của Alex khi phải kiểm soát những cảm xúc đang dâng lên của mình với Annie - người vợ để đương đầu với Annie - đứa trẻ. Bạn sẽ thấy thú vị với bà quản gia thông thái và ông bác sĩ giàu lòng trắc ẩn, những nhân vật góp phần quan trọng để hai người tìm đến với nhau. *** Catherine Anderson sinh ngày 22 tháng 12 năm 1948 tại Hoa Kỳ, là một trong những nữ nhà văn ăn khách nhất trong thể loại truyện lãng mạn. Một số tác phẩm của bà: Điệu Waltz dưới ánh trăng, Gió mùa hè,... *** Ánh nắng tràn qua cửa sổ phòng ăn, tạo một quầng sáng vàng óng quanh Annie, cô đang ngồi bên bàn, đầu cúi xuống, ánh mắt chăm chú vào thứ gì đó trong lòng mình. Dù lấy nhau đã gần ba năm nhưng Alex chưa bao giờ hết biết ơn Chúa vì đã ban cho cuộc đời anh một người con gái yêu kiều, anh ngập ngừng ngay ngoài cửa ra vào để ngắm nhìn cô một lúc. Nhìn vào đĩa thức ăn của cô, thấy rằng cô đã bỏ bữa sáng suốt ba ngày nay rồi. Không khỏi lo âu, Alex sải bước vào phòng. Gabby, con chó lông xù trắng mà Alex đã tặng cô hai năm trước, chắc đã cảm nhận được bước chân của cậu chủ rung trên sàn, vì nó nhổm lên từ giấc ngủ rồi bắt đầu nhảy nhót quanh ghế Annie, sủa inh tai suốt cả lúc ấy. Nhận thấy âm thanh đó, Annie nhìn lên từ thứ mà giờ Alex mới thấy được đó là một mảnh khăn thêu. “Chào buổi sáng”, cô nói cùng nụ cười ấm áp. “Chào buổi sáng.” Mặt mũi nhăn nhó như đau đớn, Alex liếc xuống con chó om sòm. Vì tiếng sủa chói tai của loài động vật này là một trong số ít những âm thanh mà vợ mình nghe được, nên anh cố nén không phàn nàn. Dù khá vô dụng nhưng chú chó xù này vẫn đáng giá ngàn vàng khi luôn biết sủa lớn để báo cho Annie biết rằng bé Bart khóc. Gabby, cái tên rất phù hợp với nó, còn sủa để Annie biết nếu có ai đó gọi cô hay gõ cửa, giúp cô kịp phản ứng với các âm thanh khác mà cô có thể bỏ lỡ. Cười nhỏ nhẹ, Annie đặt mảnh khăn thêu sang một bên rồi cúi xuống chụp tay lên mõm con Gabby. “Đủ rồi”, cô nhẹ nhàng nói với nó. ... Mời các bạn đón đọc Giai Điệu Của Annie của tác giả Catherine Anderson.
Chai Thời Gian - Praphatsorn Seiwikun
Tác phẩm yêu thích nhất của thanh thiếu niên Thái Lan "Nếu cất được thời gian trong chai Điều đầu tiên tôi mong được làm Là chắt chiu dành dụm từng ngày Cho tới khi vĩnh hằng trôi qua Chỉ để dành trọn chúng bên em..." Chai thời gian, ca khúc xưa cũ đã cùng Fatso đi qua tuổi niên thiếu bỗng êm ả vang lên trong một quán cóc nhỏ, gọi về những kỷ niệm... Kỷ niệm mang bóng hình một mối tình đơn phương lặng lẽ, với con đường nhỏ rợp bóng cây kèn hồng còn vương tiếng cười của đám bạn sau giờ tan lớp. Fatso, em gái, những người bạn thân, đã tiến tới ngưỡng cửa trưởng thành trong niềm vui niên thiếu, với cú sốc đầu đời khi gia đình tan vỡ, với cả cần sa, với bao lựa chọn khó khăn, khi vô tình bị cuốn vào những biến cố xã hội. Để rồi khi nhìn lại, chợt thấy tuổi trẻ như một bức tranh ghép với những mảng sáng tối, gợi những nỗi niềm man mác... Chai thời gian, cuốn tiểu thuyết bestseller nổi bật với thế hệ học sinh sinh viên Thái thập niên 1970, khám phá khoảng cách thế hệ giữa cha mẹ và con cái trong một gia đình Bangkok trung lưu, những nhức nhối của hành trình trưởng thành, những giằng xé giữa tình bạn tình yêu trong trái tim tuổi mới lớn. Được khắc họa qua những khúc hồi tưởng đặc biệt ấn tượng và gần gũi, thế giới xúc cảm đó vừa thân thuộc vừa tươi mới, mang thời thanh xuân trở lại ngập tràn tâm hồn người đọc. "Tôi vẫn hay tự hỏi mình câu hỏi cũ ấy, rằng nếu tôi có thể giữ thời gian đứng yên, liệu tôi có thể có được tất cả những gì mình mong ước... Tôi vẫn còn nhớ những ngày chúng tôi đi bộ trên con đường rợp bóng cây kèn hồng; những ngày nắm tay nhau làm thành một đoạn xích để một đứa với ra rìa đầm lầy hái đài sen rồi chia nhau ăn; những ngày túm cặp của nhau không cho đứa nào lên xe buýt trước; và tất cả những ngày Jom cùng tôi sánh bước, khoác trên vai hộp đàn đến quán cóc, nơi mà chúng tôi sẽ nhét hàng đống xu vào máy hát nghe Chai thời gian hết lần này đến lần khác." *** Ca khúc “Chai thời gian” của Jim Croce phát ra từ chiếc máy hát tự động của một quán cà phê nhỏ ven đường khiến tôi dừng bước. Từ lâu, rất lâu rồi, tôi đã không nghe lại bài hát này, như thể nó đã biến mất khỏi kí ức của mọi người và bị ém nhẹm vào một xó xỉnh tối tăm nào đó. “Này Béo, đừng về vội.” Một giọng nói trong trẻo vang lên từ góc phòng. Tôi ngẩng đầu khỏi hộp đàn vĩ cầm, ngạc nhiên quay về phía người nói. “Chị chưa muốn về nhà.” Chủ nhân của giọng nói xách hộp đàn vĩ cầm đi về phía tôi. “Muốn đi loanh quanh một chút.” “Vậy đi cà phê đâu đó nhé?” tôi gợi ý, đoạn đưa tay gạt một lọn tóc dính trên trán. Chị gật đầu thay câu trả lời. “Tóc cậu lại dài ra rồi đấy.” Chị nhìn tôi. “Tốt nhất là đi tỉa đi.” “Vội gì,” tôi vừa đáp vừa chìa tay đỡ lấy hộp đàn của chị. “Để em cầm.” “Cảm ơn,” chị lầm bầm gỡ cặp khỏi vai tôi. “Bọn mình bỏ đám này vào ô tô đi, đỡ phải vác theo.” “Chị nói cứ như mấy thứ này nặng bằng cả trái đất ấy.” Tôi bật cười bước đi, hai tay duỗi thẳng, mỗi tay xách một hộp đàn vĩ cầm, chị đi đằng sau ôm cặp sách của tôi. “Chú Maen!” chị gọi người lái xe đang ngồi đợi trên ghế băng trước cửa phòng nhạc. “Chú cho cặp sách và hai cái đàn này vào xe đi.” “Vậy còn cô thì sao ạ, thưa cô?” Chú Maen đỡ lấy đàn và cặp, nhìn chị dò hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Chai Thời Gian của tác giả Praphatsorn Seiwikun.