Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiến Lược Cạnh Tranh

Khi “Chiến lược cạnh tranh” được xuất bản lần đầu tiên vào mười tám năm trước, tôi đã hy vọng rằng cuốn sách sẽ gây được ảnh hưởng nhất định. Có lý do để hy vọng vào điều này vì cuốn sách dựa trên những nghiên cứu đã trải qua sự kiểm định của các chuyên gia và các chương bản thảo đã được các sinh viên MBA và quản lý của tôi xem xét kỹ lưỡng. Tuy nhiên, sự đón nhận của độc giả đối với cuốn sách cũng như vai trò của nó trong việc hình thành nên một lĩnh vực mới đã vượt quá những kỳ vọng lạc quan nhất của tôi. Hầu hết sinh viên các trường kinh doanh ở khắp thế giới đã được tiếp cận những ý tưởng trong sách này qua những môn học cơ bản về chính sách và chiến lược, trong những khóa học lựa chọn chuyên sâu về chiến lược cạnh tranh và trong cả những lĩnh vực như kinh tế, marketing, quản lý công nghệ và công nghệ thông tin. Từ vô số những lá thư, các thảo luận cá nhân và qua email, tôi được biết nhiều chuyên gia trong các tập đoàn lớn và các doanh nghiệp nhỏ đã áp dụng những ý tưởng này vào nội bộ công ty của họ. Hầu hết các nhà tư vấn chiến lược sử dụng những ý tưởng trong sách và nhiều hãng tư vấn hoàn toàn mới đã ra đời chỉ để trợ giúp các công ty áp dụng chúng. Các nhà phân tích tài chính trẻ phải đọc cuốn sách này trước khi hành nghề. Chiến lược cạnh tranh và những bộ phận chính của nó gồm phân tích ngành, phân tích đối thủ cạnh tranh và định vị chiến lược hiện đang là một phần trong hoạt động quản lý. Khát vọng trong suốt sự nghiệp của tôi là tác động được đến những gì đang xảy ra trong thế giới thực tiễn và việc rất nhiều chuyên gia coi cuốn sách này như một cẩm nang đã thỏa mãn khát vọng đó. Chiến lược cạnh tranh bản thân nó cũng đã trở thành một lĩnh vực học thuật. Với nhiều ý tưởng cạnh tranh phong phú, đây hiện là một lĩnh vực nổi bật đối với các nhà nghiên cứu quản lý. Nó cũng trở thành một lĩnh vực được nhiều nhà kinh tế quan tâm. Số lượng và chất lượng các nghiên cứu có liên quan đến cuốn sách này, dù là ủng hộ hay phê phán, rất đáng khích lệ. Số lượng các nhà nghiên cứu nổi tiếng đang hoạt động trong lĩnh vực này - một vài trong số đó tôi có may mắn được giảng dạy, hướng dẫn và làm đồng tác giả - đã thỏa mãn mong muốn có được ảnh hưởng đến kiến thức học thuật của tôi. Việc tái bản cuốn sách này khiến tôi phải suy nghĩ về những nguyên nhân làm cho cuốn sách có được ảnh hưởng lớn như vậy. Qua thời gian, tôi đã hiểu rõ hơn về những nguyên nhân này. Cạnh tranh đã luôn đóng vị trí trung tâm trong hoạt động của công ty và cuốn sách đã ra đời vào thời điểm các công ty trên khắp thế giới đang vật lộn để đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng tăng. Thực tế, cạnh tranh đã trở thành một trong những chủ đề của thời đại chúng ta. Cường độ cạnh tranh đã liên tục tăng lên cho tới ngày nay và lan rộng ra ngày càng nhiều quốc gia. Việc bản dịch cuốn sách được xuất bản ở Trung Quốc (1997), Czech, Slovak, Hungary, Ba Lan hay Ukraina quả là không thể tưởng tượng được vào năm 1980. Cuốn sách đã bổ sung vào khoảng trống trong tư duy quản lý. Sau nhiều thập kỷ phát triển, vai trò của các nhà quản lý tổng hợp và các chuyên gia đã trở nên rõ ràng hơn. Hoạch định chiến lược đã được chấp nhận rộng rãi như một nhiệm vụ quan trọng để vạch ra hướng đi dài hạn cho một doanh nghiệp. Những người tiên phong trong lĩnh vực này như Kenneth Andrews và C. Roland Christensen đã nêu ra một số vấn đề quan trọng trong việc phát triển một chiến lược, như tôi đã ghi nhận trong lời giới thiệu ở lần xuất bản đầu tiên của cuốn sách. Tuy nhiên, chưa hề có những công cụ mạnh mẽ, có tính hệ thống để giải đáp những vấn đề này - tức là đánh giá ngành, hiểu các đối thủ cạnh tranh và lựa chọn vị trí cạnh tranh. Một số hãng tư vấn chiến lược mới thành lập đã cố lấp khoảng trống này, nhưng những ý tưởng mà họ nêu ra, chẳng hạn như đường kinh nghiệm, chỉ dựa trên một cơ sở giả định của cạnh tranh và chỉ một loại chiến lược. Cuốn sách “Chiến lược cạnh tranh” giới thiệu một khung phân tích chi tiết để hiểu những lực lượng ẩn giấu phía sau cạnh tranh trong các ngành, thể hiện trong “năm yếu tố”. Khung phân tích này cho thấy sự khác biệt quan trọng giữa các ngành, sự phát triển của ngành và giúp các công ty tìm ra vị trí hợp lý. Cuốn sách cung cấp những công cụ để nắm bắt sự phong phú và đa dạng của các ngành và các công ty trong khi đưa ra một cấu trúc chặt chẽ để xem xét chúng. Cuốn sách cũng cấu trúc hóa khái niệm lợi thế cạnh tranh bằng cách định nghĩa nó theo chi phí và tính khác biệt, đồng thời gắn nó trực tiếp với lợi nhuận. Các nhà quản lý đang tìm kiếm những phương pháp cụ thể để giải quyết những câu hỏi khó trong hoạch định chiến lược đã nhanh chóng nắm lấy những ý tưởng trong sách vì chúng có vẻ đúng đối với những nhà hoạt động thực tiễn. Cuốn sách cũng báo hiệu một hướng đi mới và cung cấp một động lực mới cho tư duy kinh tế. Lý thuyết kinh tế về cạnh tranh vào thời điểm đó đều mang tính cách điệu hóa cao. Các nhà kinh tế tập trung chủ yếu vào các ngành; các công ty được giả định là giống nhau hoặc chỉ khác nhau chủ yếu về quy mô hay hiệu suất. Quan điểm phổ biến về cấu trúc công nghiệp bao gồm việc tập trung hóa người bán và một số hàng rào ngăn cản gia nhập. Các nhà quản lý không hề xuất hiện trong các mô hình kinh tế và gần như không có ảnh hưởng đến kết quả cạnh tranh. Các nhà kinh tế chủ yếu quan tâm đến những hậu quả xã hội và công cộng của những cấu trúc công nghiệp thay thế và các hình mẫu cạnh tranh. Mục tiêu là làm giảm lợi nhuận “quá cao”. Một số nhà kinh tế thậm chí còn chưa từng nghĩ tới câu hỏi bản chất của cạnh tranh có ý nghĩa gì đối với hành vi của công ty hay làm thế nào để tăng lợi nhuận. Hơn thế, các nhà kinh tế cũng thiếu những công cụ để mô hình hóa cạnh tranh giữa một nhóm nhỏ các hãng có hành vi tác động qua lại lẫn nhau. Cuốn sách “Chiến lược cạnh tranh” chỉ ra hàng loạt những hiện tượng mà các nhà kinh tế, nhờ vào những kỹ thuật mới của lý thuyết trò chơi, lần đầu tiên bắt đầu khám phá bằng công cụ toán học. Quá trình học tập và công tác của tôi, đầu tiên là học MBA, rồi tiến sĩ, sau đó là thách thức của việc sử dụng phương pháp tình huống trong giảng dạy cho các nhà hoạt động thực tiễn tại trường kinh doanh Harvard đã cho cho thấy khoảng cách giữa cạnh tranh thực tế và các mô hình cách điệu. Chúng cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển các công cụ cho phép đưa ra những lựa chọn thực tế trong các thị trường thực tế. Với hiểu biết sâu sắc về các công ty và các ngành qua nhiều nghiên cứu tình huống, tôi có thể đưa ra một cách nhìn tinh vi hơn về cạnh tranh ngành và cấu trúc hóa câu trả lời cho câu hỏi tại sao một hãng lại có thể vượt trội so với các đối thủ của nó. Cơ cấu ngành bao gồm năm yếu tố, không phải hai. Vị trí cạnh tranh có thể được xem xét về mặt chi phí, tính khác biệt và phạm vi. Trong lý thuyết của tôi, các nhà quản lý có quyền lực quan trọng trong việc ảnh hưởng đến cơ cấu ngành và định vị công ty so với các đối thủ. Tín hiệu thị trường, chi phí chuyển đổi, rào cản rút khỏi thị trường, cạnh tranh nhờ chi phí so với cạnh tranh nhờ đặc trưng hóa và chiến lược rộng so với chiến lược trọng tâm chỉ là một số những khái niệm mới được khám phá trong sách này, những khái niệm đã chứng tỏ chúng là những mảnh đất màu mỡ cho nghiên cứu, bao gồm cả việc sử dụng lý thuyết trò chơi. Cách tiếp cận của tôi đã giúp mở ra một lĩnh vực mới để các nhà kinh tế khai phá; đồng thời cung cấp cho các nhà kinh tế ở các trường kinh doanh một phương pháp vượt lên khỏi việc giảng dạy những khái niệm và mô hình kinh tế chuẩn mực. Cuốn sách “Chiến lược cạnh tranh” không chỉ được sử dụng rộng rãi trong giảng dạy mà còn là động lực và là xuất phát điểm cho những nỗ lực khác nhằm đưa tư duy kinh tế gắn liền với thực tiễn.[1] Điều gì đã thay đổi kể từ khi cuốn sách được xuất bản? Nhìn theo cách nào đó, mọi thứ đều đã thay đổi. Công nghệ mới, các công cụ quản lý mới, các ngành mới và các chính sách chính phủ mới đã liên tục xuất hiện. Nhưng theo cách khác, chẳng có gì thay đổi cả. Cuốn sách cung cấp một khung phân tích cạnh tranh vượt qua được sự khác biệt của các ngành, các công nghệ hay các phương pháp quản lý cụ thể. Nó áp dụng vào cả các ngành công nghệ cao, công nghệ thấp và dịch vụ. Sự xuất hiện của internet có thể thay đổi, chẳng hạn, những rào cản gia nhập, tái định hình quyền lực của khách hàng hay tạo ra những hình mẫu thay thế mới, nhưng những sức mạnh nằm sau cạnh tranh ngành vẫn không thay đổi. Những thay đổi trong ngành làm cho những ý tưởng trong sách thậm chí còn quan trọng hơn, bởi vì cần phải tư duy lại về cơ cấu và ranh giới của các ngành. Trong khi các công ty trong thập kỷ 90 có thể nhìn rất khác với các công ty trong thập kỷ 80 hay 70, để có lợi nhuận vượt trội trong một ngành vẫn phải dựa vào chi phí tương đối và đặc trưng hóa khác biệt. Ai đó có thể tin rằng chu kỳ sản phẩm nhanh hơn hay chất lượng tổng thể là chìa khóa trong cạnh tranh, nhưng kiểm định về tác động của các yếu tố đến cạnh tranh ngành cho thấy chi phí tương đối của công ty hoặc khả năng tạo sự khác biệt và bán giá cao có ý nghĩa quyết định. Những ý tưởng trong sách này có giá trị lâu dài bởi chúng giải quyết được những vấn đề nền tảng trong cạnh tranh bằng một phương pháp độc lập với những những cách thức cạnh tranh cụ thể của các công ty. Nhiều cuốn sách về cạnh tranh khác đã xuất hiện và biến mất bởi vì chúng tập trung vào những trường hợp đặc biệt hoặc không dựa trên nền tảng những nguyên lý của chiến lược cạnh tranh mà vào các cách thức cạnh tranh cụ thể. Điều đó không có nghĩa là cuốn sách “Chiến lược cạnh tranh” là hoàn hảo. Ngược lại, đã có nhiều ý tưởng quan trọng phát triển thêm từ cuốn sách này và nhiều cải tiến nữa sẽ còn tiếp tục. Tuy nhiên, cuốn sách “Chiến lược cạnh tranh” vẫn là một nền tảng lâu dài và là xuất phát điểm để tư duy về cạnh tranh công nghiệp và định vị trong các ngành, trên cơ sở đó, các ý tưởng khác có thể được bổ sung hoặc tích hợp. Tôi sẽ sửa đổi hay cải tiến gì cuốn sách này? Đây là một câu hỏi khó cho bất cứ tác giả nào trả lời một cách khách quan. Cuốn sách “Chiến lược cạnh tranh” có thể được bổ sung thêm nhiều ví dụ mới, cả về các ngành cũ và các ngành mới. Những khái niệm của nó cũng có ý nghĩa trong các ngành dịch vụ cũng như các ngành sản xuất sản phẩm; và nhiều ví dụ về dịch vụ có thể được bổ sung thêm. Khung phân tích trong sách đã được áp dụng ở hầu hết các quốc gia quan trọng và việc đưa thêm các ví dụ quốc tế là rất cần thiết. Tuy nhiên, trong khi các ngành, các công ty và các quốc gia thay đổi, những khái niệm này vẫn còn ý nghĩa. Về các ý tưởng, tôi có thể thành thật nói rằng hiện vẫn chưa có ý tưởng nào mà tôi phải rút lại. Điều đó không có nghĩa là chúng tôi không tiếp tục nghiên cứu sâu hơn. Nhiều phần trong sách này đã được kiểm định, làm sâu sắc thêm và mở rộng bởi các tác giả khác, hầu hết là trong giới học thuật. Một điều đáng tự hào và cũng đôi khi hơi khó chịu là cuốn sách “Chiến lược cạnh tranh” thường được dùng để làm nền cho các tác giả khác. Không thể đánh giá hết những phát triển mới đó ở đây. Chẳng hạn, phần nhà cung cấp cũng như nhận thức của chúng tôi về những nền tảng lý thuyết của những rào cản gia nhập đã được bổ sung. Trong khi các hãng chắc chắn có mối quan hệ đặc biệt với nhà cung cấp và khách hàng, các hãng có thể nâng tổng giá trị bằng cách hợp tác với khách hàng, nhà cung cấp và nhà sản xuất các sản phẩm bổ sung. Điều này được phát triển trong cuốn sách sau này của tôi, cuốn “Lợi thế cạnh tranh” và trong những nghiên cứu sau này[2]. Cuối cùng, những nghiên cứu thực nghiệm đã khẳng định nhiều giả thuyết trong cuốn sách. Cuốn “Chiến lược cạnh tranh” chắc chắn đã khuấy động những tranh luận. Một số trong số đó gắn liền với những hiểu nhầm và gợi ý những phần của cuốn sách có thể được trình bày dễ hiểu hơn. Ví dụ, một số tác giả phê phán cuốn sách ám chỉ một khung phân tích tĩnh trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Chẳng có phần nào được coi là tĩnh trong sách này. Mỗi bộ phận của khung phân tích - phân tích ngành, phân tích đối thủ cạnh tranh, định vị cạnh tranh đều nhấn mạnh các điều kiện có khả năng thay đổi. Thực tế, khung phân tích này thể hiện những khía cạnh thay đổi đáng kể nhất. Phần lớn cuốn sách là về cách hiểu và đối phó với thay đổi, ví dụ sự thay đổi trong ngành (chương 8), những ngành mới nổi (chương 10), đối phó với sự bão hòa trong ngành (chương 11), các ngành đang suy thoái (chương 12) và toàn cầu hóa (chương 13). Các công ty có thể không ngừng tìm hiểu về ngành, đối thủ và cách thức để cải thiện vị thế cạnh tranh của họ. Một hiểu lầm khác xoay quanh sự cần thiết phải chọn lựa giữa chi phí thấp và đặc trưng khác biệt. Quan điểm của tôi là một nhà sản xuất chi phí thấp và một nhà sản xuất có sản phẩm đặc trưng khác biệt và bán giá cao hiếm khi có thể so sánh được với nhau. Các chiến lược thành công đòi hỏi phải lựa chọn; nếu không chúng sẽ dễ dàng bị bắt chước. “Chiến lược nửa vời” - từ mà tôi đã sử dụng - là công thức dẫn đến thảm họa. Đôi khi các công ty như Microsoft đã vượt đối thủ quá xa đến mức họ dường như tránh việc phải thực hiện các lựa chọn chiến lược. Nhưng chính điều đó cuối cùng lại là điểm dễ tổn thương của họ. Điều đó không có nghĩa là các công ty có thể bỏ qua chi phí để theo đuổi đặc trưng hóa hoặc bỏ qua đặc trưng hóa để theo đuổi chi phí thấp. Hay các công ty nên từ bỏ những cải tiến về một mặt mà không đòi hỏi hy sinh một mặt khác. Cuối cùng, dù theo đuổi chi phí thấp hay đặc trưng hóa, dù là phạm vi rộng hay tập trung trọng điểm thì đều cần phải liên tục cải tiến. Một vị trí chiến lược là một con đường, không phải một vị trí cố định. Gần đây, tôi đã trình bày sự khác biệt giữa hiệu quả hoạt động và vị trí chiến lược để giúp làm rõ một số hiểu nhầm này[3]. Tuy vậy, những tranh luận khác do cuốn sách tạo nên đã phản ánh sự khác biệt về quan điểm. Một trường phái tư tưởng nổi lên cho rằng các ngành không có vai trò quan trọng đối với chiến lược bởi vì cấu trúc và ranh giới ngành thay đổi rất nhanh hoặc vì lợi nhuận chủ yếu là dựa vào vị trí của cá nhân doanh nghiệp. Tôi luôn cho rằng cả ngành và cả vị trí đều quan trọng và rằng lờ đi bất kỳ cái nào cũng khiến doanh nghiệp gặp nguy hiểm. Sự khác biệt giữa các ngành về mức lợi nhuận bình quân là rất lớn và kéo dài. Những bằng chứng thống kê gần đây khẳng định tầm quan trọng của ngành trong việc giải thích cả lợi nhuận của doanh nghiệp và giá cổ phiếu trên thị trường tài chính. Nó cũng cho thấy sự khác biệt giữa lợi nhuận của các ngành rất ổn định ngay cả trong những năm 1990[4]. Nó cũng gợi ý rằng các đặc trưng của ngành có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thích sự khác biệt lợi nhuận giữa các ngành[5]. Rất khó tìm ra một logic để chứng minh rằng bản chất của ngành trong đó các doanh nghiệp cạnh tranh không có vai trò quan trọng đối với kết quả kinh doanh. Cơ cấu ngành, thể hiện trong năm yếu tố cạnh tranh, cung cấp một phương pháp tư duy về cách thức hình thành và phân phối giá trị giữa các thành viên hiện có và tiềm năng của ngành. Nó cũng nêu bật thực tế là cạnh tranh không chỉ là cạnh tranh giữa những đối thủ hiện có. Trong khi có thể có sự chưa thống nhất về ranh giới các ngành, một trong năm yếu tố luôn nắm bắt được những vấn đề trọng yếu trong sự phân chia giá trị. Một số người cho rằng nên bổ sung một yếu tố thứ sáu, thường là chính phủ hay công nghệ. Tôi vẫn tin rằng vai trò của chính phủ hay công nghệ không thể được hiểu một cách tách biệt mà phải hiểu thông qua năm yếu tố. Một trường phái khác cho rằng các điều kiện thị trường yếu tố đầu vào đóng vai trò quan trọng hơn cạnh tranh trong ngành trong việc quyết định kết quả kinh doanh của công ty. Chẳng có chứng cứ thực tế nào để bác bỏ những bằng chứng thuyết phục về vai trò của ngành và các điều kiện về nhà cung cấp là một bộ phận của cơ cấu ngành. Trong khi nguồn lực, năng lực hay các đặc tính khác liên quan đến các thị trường đầu vào có một vị trí trong hiểu biết về sự vận động của cạnh tranh, việc tách chúng ra khỏi cạnh tranh ngành và những vị trí mà các doanh nghiệp nắm giữ so với đối thủ là sai lầm nguy hiểm. Giá trị của các nguồn lực không thể tách rời khỏi chiến lược. Bất kể chúng ta biết nhiều bao nhiêu về những gì xảy ra bên trong các hãng, hiểu biết các ngành và các đối thủ cạnh tranh sẽ tiếp tục đóng vai trò thiết yếu trong việc định hướng những việc mà các hãng nên làm. Cuối cùng, trong những năm gần đây, có một số tác giả lập luận rằng các hãng không nên chọn vị trí cạnh tranh mà nên tập trung vào việc linh hoạt chiến lược, tích hợp những ý tưởng mới hoặc tích lũy những nguồn lực quan trọng hay những kiến thức cốt lõi, những thứ được mô tả như độc lập với vị trí cạnh tranh. Tôi không đồng ý với những ý kiến này. Linh hoạt về chiến lược sẽ không thể đạt được lợi thế cạnh tranh. Nhảy từ chiến lược này sang chiến lược khác sẽ khiến bạn không thể làm tốt bất kỳ chiến lược nào. Liên tục tích hợp ý tưởng mới rất quan trọng trong việc duy trì hiệu quả hoạt động. Nhưng điều này chẳng có gì mâu thuẫn với việc có một vị trí chiến lược nhất quán. Chỉ tập trung vào các nguồn lực hay các kiến thức và lờ đi vị trí cạnh tranh có nguy cơ biến thành “ếch ngồi đáy giếng”. Các nguồn lực hay các kiến thức sẽ có giá trị nhất đối với một vị trí hay một phương pháp cạnh tranh cụ thể, chứ không phải với mọi vị trí hay phương pháp. Trong khi cách nhìn theo nguồn lực hay kiến thức có thể có ích, nó không làm giảm sự cần thiết của việc doanh nghiệp phải hiểu cấu trúc ngành và vị trí cạnh tranh. Lại nữa, sự cần thiết phải gắn kết mục tiêu (vị trí của công ty trên thị trường) và phương tiện (những yếu tố cho phép công ty đạt được vị trí) không chỉ quan trọng mà còn thiết yếu. Cuốn “Chiến lược cạnh tranh” đã được viết khá lâu và đã kéo theo không chỉ những phát triển mở rộng mà cả những quan điểm khác biệt nhau. Tuy nhiên, tầm quan trọng của chiến lược ngày càng được đánh giá cao. Sự quan tâm tới những vấn đề nội bộ công ty trong thập kỉ qua gặp phải những giới hạn ngày càng rõ ràng và đang có một sự tái nhận thức về tầm quan trọng của chiến lược. Với tầm nhìn rộng hơn và sâu sắc hơn, tôi hy vọng giờ đây chúng ta có thể thấy được vị trí của chiến lược cạnh tranh trong quản lý rõ ràng hơn bao giờ hết và có một sự nhận thức mới về một quan điểm thống nhất về cạnh tranh. Michael E. Porter Brookline, Massachusetts Tháng 1, 1998 Mời các bạn đón đọc Chiến Lược Cạnh Tranh của tác giả Michael E. Porter.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Larry Page Và Google - Sắp Xếp Lại Hệ Thống Thông Tin Toàn Cầu - Nguyễn Ngọc Hoàn
Bộ sách  mà bạn đọc  đang cầm trên  tay là kết quả của  dự  án  nghiên  cứu  mang tên  Đi tìm Đạo  Kinh doanh của Việt Nam và Thế  giới do Tổ hợp Giáo dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua.   Chúng tôi đặt  tên  cho bộ sách   này  là Đạo  Kinh doanh Việt Nam và  Thế giới  với  mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc, đặc biệt là bạn  đọc  doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng  loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là  gì?”, “Doanh  nhân là  ai?”, “Đâu  là ‘đạo’   của  nghề kinh doanh?” và “Tại  sao kinh doanh là một  nghề cao quý và xứng  đáng  được  xã hội tôn vinh?”...   Đội ngũ chuyên  gia của PACE cùng  các cộng  sự đã nghiên cứu cuộc  đời và sự nghiệp của 25 doanh nhân huyền thoại,  đến  từ 25 tập đoàn kinh doanh dẫn đầu trong những bảng xếp hạng doanh nghiệp trên  toàn thế giới, nhằm tìm kiếm  “cái đạo”, cái triết  lý cốt lõi trong kinh doanh của họ. Mục đích  là để lý giải  xem vì sao họ là những người kiếm tiền nhanh nhất, kiếm tiền nhiều nhất  và kiếm  tiền bền vững nhất thế giới, đồng thời  họ lại được  xã hội  đặc  biệt kính trọng?   Phân tích  từng chặng đường,  từng mốc sự nghiệp, từng bước thăng trầm... của những huyền thoại doanh nhân này, chúng tôi đã đúc kết được  những  nét chung nhất, nói chính  xác hơn, là những yếu tố khiến họ trở nên vĩ đại, trở thành  những  doanh nhân huyền thoại. Đó  là sự khao khát,  là niềm đam mê một cách mãnh liệt để sáng tạo, để đem đến thật nhiều giá trị mới cho cuộc  sống và cho xã hội. Họ đã thực  hiện   được  điều đó bằng  việc cống hiến cả cuộc  đời  mình lẫn việc truyền đạt, dẫn đường cho hậu thế.   Trong lời đầu  này của bộ sách, chúng tôi cũng muốn kể lại với quý  vị một  vài câu chuyện và một  vài so sánh mà PACE luôn tự hào khi tìm  thấy  nó trong hành trình  Khát vọng Doanh trí của mình  trong suốt những năm vừa qua: Bà chủ một tiệm  tạp hóa suốt  ngày  không vui vì buôn bán ế ẩm.  Nhưng sau những ngày tháng nhìn vào “mắt” khách hàng, bà chợt nghĩ: “Sao tôi không là người giải quyết  vấn đề nhu yếu phẩm cho cả xóm?”. Và mọi  chuyện thay đổi.  Từ đó, nhiều gia đình chưa khá giả trong khu phố  có thể mua một, hai gói mì tôm (mà không cần phải mua cả thùng   mì),  một tép bột ngọt (mà không cần phải mua cả gói bột ngọt).   Bà có thể mở cửa lúc mờ sáng  hay nửa đêm, khi chẳng  còn nơi nào bán hàng nữa để đáp ứng nhu cầu “hết chanh đột xuất”  hoặc “nhà  không còn nước mắm”. Hay hơn nữa, mọi người chỉ “xẹt” một hai bước chân là có ngay những  vật phẩm cần thiết nhất cho gia đình.  Lại thêm chuyện giá  cả  của  bà  so với  chợ  và  siêu  thị  cũng chẳng chênh lệch là bao. Ai cũng đoán ra kết quả: cửa tiệm suốt ngày người ra kẻ vào,  bà thì  bán  hàng  luôn tay và cười nói luôn miệng. Không chỉ tiền lãi thu được tăng cao, mà bà còn  có “lợi nhuận” lớn nhất  là sự quý mến của mọi người  dành  cho một người  biết  kinh doanh như bà.   Câu chuyện   thứ hai về một cơ sở sản  xuất   tủ sắt. Người ta thường mua tủ của  cơ sở này  về để đựng hồ sơ. Một cơ sở  bé  xíu  rất đỗi  bình   thường   thì  liệu  có mang trong người “sứ mệnh  xã hội”?  Trong một thời gian dài, cơ sở hoạt   động   cầm chừng, cho đến  một ngày ông chủ  của  nó thay đổi cách nghĩ:  tôi không “bán tủ sắt” nữa,  mà  sẽ “bán giải pháp lưu trữ hồ sơ văn phòng”. Từ đó, ông và đồng sự tiến   hành   nghiên cứu để tạo ra những cái tủ sao cho có thể chống được mối, mọt, chống  thấm,  ngăn tủ này  thì  có khóa   kiên cố để đựng hồ sơ quan trọng, ngăn tủ khác   thì  không cần khóa để dễ kéo ra kéo vào... Ông cũng chịu  khó đi đến các văn phòng để nghiên cứu màu sơn,  thay đổi kích cỡ,  kiểu dáng... Thế là sản  phẩm của ông còn thêm tính năng làm đẹp cho cả văn phòng  của các công ty. Chỉ sau một thời gian ngắn, cơ sở của  ông đã lột xác và phát  triển rất nhanh.   Như vậy, doanh nghiệp lớn hay nhỏ tùy thuộc  vào vấn đề xã hội mà họ giải  quyết được. Bà chủ tạp hóa của khu phố nọ cùng  Sam Walton (ông chủ tập đoàn bán  lẻ lớn nhất thế giới Wal-Mart) đều giải quyết vấn đề mua sắm của  xã hội thông qua việc  mở cửa hàng bán  lẻ. Họ chỉ  khác  nhau về phạm vi: xã hội  của  bà chủ tiệm  tạp hóa là một  khu phố,  còn xã hội của Sam mang tầm cỡ  thế  giới.   Điều xã hội  quan tâm không phải  là doanh nghiệp đó kiếm được bao nhiêu mà  là họ đã mang lại gì cho cộng đồng.  Chẳng  hạn, trong khi tỉ phú Nhật,  Toyoda (“cha đẻ” của Toyota), với tinh thần ái quốc được người Nhật  xem như anh hùng  dân  tộc thì  tỉ  phú  Nga, Khodorkovsky (ông chủ của Yukos), ông ta là ai trong mắt dân Nga thì chỉ người Nga mới thấu  rõ. Sự khác nhau này   có lẽ do cách thức kiếm  tiền của họ.   Nghề kinh doanh, xưa nay vẫn  thường bị hiểu chỉ như là nghề “kiếm tiền”. Nhưng thực chất, không hề có  nghề kiếm tiền, bởi nghề nào thì cũng kiếm  tiền cả. Chẳng   hạn,  luật  sư kiếm tiền bằng  việc  hành nghề luật, bác sĩ kiếm  tiền bằng cách chữa bệnh cứu người... Và doanh nhân, người hành nghề kinh doanh, cũng kiếm tiền bằng cách lãnh đạo một doanh nghiệp và thông qua doanh nghiệp đó để giải quyết  vấn đề hay đáp ứng nhu cầu nào đó của xã hội. Nhưng điều khác  biệt  của nghề kinh doanh là  trong quá trình hành nghề của mình  doanh nhân không hành động một cách đơn lẻ mà biết  kiến  tạo ra các chuỗi giá trị. Cụ  thể hơn, họ nắm  lấy  một  doanh nghiệp và  tập hợp bên mình nhiều thành viên để cùng cộng hưởng lại nhằm  hình  thành  một sức mạnh  tổng  lực,  từ đó tạo ra nhiều giá trị hơn cho xã hội. Đó cũng  chính là lý  do mà nghề kinh doanh thường kiếm  được nhiều tiền hơn so với những  nghề khác và vẫn  được cộng đồng xã hội  ủng  hộ.   Nghiên cứu 25 huyền thoại doanh nhân thế giới cho thấy,   dù có quá  nhiều sự khác  biệt  nhưng họ đều có chung một tư tưởng chủ đạo: “Kinh doanh là phụng sự xã hội”.  Hay nói một cách đầy  đủ hơn, “Kinh doanh là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã hội,  bằng cách dùng sản  phẩm hay dịch  vụ như là  phương tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội và làm  cho cuộc sống trở nên tốt đẹp  hơn”.   Cái “đạo”  kinh doanh này  đã được  họ quán triệt ngay từ buổi  đầu  khởi nghiệp đầy gian khó cho tới lúc thành công. Và sự thật này cũng chính  là  lý do giúp họ kiếm  tiền nhanh nhất, nhiều nhất, bền nhất,  còn bản thân họ thì  được  xã hội tôn vinh, nể trọng,  và rồi họ đi vào lịch sử kinh doanh thế giới như những huyền thoại, doanh nghiệp của họ cũng  vĩ đại và trường tồn. Như vậy, với một tâm thế luôn hướng về cộng đồng, luôn khát khao làm cho xã hội quanh mình (có thể nhỏ gọn trong một ngôi làng  hoặc  rộng  lớn bằng  cả một hệ mặt trời) tốt đẹp hơn, chính họ, những doanh nhân (dù lớn hay nhỏ, dù “Tây” hay “Ta”, dù “cổ” hay “kim”) luôn được  xã hội  tôn vinh không phải   vì  số của  cải khổng lồ họ kiếm  được, mà vì những  đóng góp vô giá của họ vào  sự đổi  thay của thế  giới này.   Song song với những  doanh nhân lẫy lừng của thế giới, điều khác biệt ở bộ sách   này  là chúng tôi đã khởi sự hành  trình tìm kiếm những “huyền thoại doanh nhân Việt Nam” để, như một  cố gắng, “định vị” xem ông cha ta ngày xưa đã khởi  sự kinh doanh như thế nào. Và thật bất ngờ, trong lịch  sử Việt  Nam đã từng có những Lương Văn Can, Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Trịnh Văn Bô...  với những  tư tưởng kinh doanh có thể gây ngạc nhiên  cho đến  tận bây giờ.   Nhìn “Tây” sẽ thấy  “Đông”, soi “cổ” mà ngẫm   tới “kim”, đó là điều mà chúng  tôi, những người thực hiện bộ sách,  mong muốn được chia sẻ. Bộ sách này cũng là một  câu chuyện, một phác thảo cho bức tranh toàn cảnh sinh động  và đầy màu  sắc về doanh nhân thế giới - những doanh nhân làm thay đổi  thế  giới, và về một thế hệ doanh nhân tiền bối của Việt  Nam cách đây gần một trăm năm lịch  sử - một thế hệ doanh nhân mà đến  ngày nay chúng ta vẫn  có thể tự hào.  Từ đó, những  nỗ lực này sẽ góp  phần hình thành văn hóa doanh nhân Việt,  một bộ phận  quan trọng trong văn hóa Việt Nam.   Chúng tôi xin được  gửi lời tri ân trân trọng nhất đến những đồng nghiệp đã hỗ trợ tinh thần cho chúng tôi, đến  các cá nhân và đơn vị đã sẵn lòng hỗ trợ thông tin, tư liệu trong quá trình  nghiên cứu. Đặc biệt, chúng tôi muốn  gửi lời cám ơn chân thành  đến  các tập đoàn hàng đầu thế  giới do các  doanh nhân huyền thoại sáng lập, cám ơn gia tộc họ Lương, gia tộc họ Bạch,... - hậu duệ  của cụ Lương Văn Can, cụ Bạch Thái Bưởi... đã nhiệt  tâm giúp đỡ chúng  tôi trong suốt quá trình “đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt  Nam và Thế giới”. Việc triển khai dự án này  từ khâu nghiên cứu đến thể hiện thành sách trong một thời gian không dài, cùng những  khó khăn trong quá trình  đi tìm tư liệu lịch sử  về các  nhân vật,  chắc  hẳn  bộ sách   sẽ khó tránh khỏi những sai sót nhất định.  Do vậy, chúng tôi rất mong nhận  được  sự thông cảm cũng như những góp   ý chia sẻ của bạn đọc gần  xa về bộ sách  để lần tái bản tiếp  theo được hoàn thiện  hơn.   Chúng tôi, PACE và Nhà xuất  bản Trẻ, xin trân trọng giới thiệu  cùng bạn đọc bộ sách đầy  tâm huyết  này. Và chúng  tôi cũng tin rằng, qua bộ sách  này, bạn đọc sẽ có thêm kiến giải về “đạo kinh doanh”, để từ đó, tự mình đưa ra một định nghĩa  cho nghề kinh doanh và tự mình  khẳng định  rằng, kinh doanh là kiếm tiền hay phụng sự xã hội!   Thay mặt Nhóm   tác giả của bộ sách Giản Tư Trung - Người  Sáng lập PACE Sài Gòn,  Xuân Đinh Hợi, 2007 *** Bạn  có còn  tin trong cuộc  sống vẫn có  những huyền thoại?   Tôi mời  bạn  đọc  lá thư này  của  một  bé trai ở TP.HCM – một nơi cách xa nhân vật chính  trong cuốn  sách này hơn nửa  vòng  trái  đất.  Bé trai 16 tuổi,  gửi cho người   mẹ mà cậu  gọi là “người dẫn đường  vĩ đại”  của mình.   Con sẽ sống,   mẹ ơi!   Sinh ra, con đã mang trong người chứng bệnh hiểm nghèo. Khi cầm kết  quả chẩn đoán của bác sĩ với hội chứng   “xương thủy tinh”, tí nữa mẹ đã ngất xỉu.   Con chưa hiểu hết được cuộc chiến   đấu dữ dội của  mẹ để cho con được hòa nhập  cuộc sống, được đi học, được  vui chơi với mọi  người.  Với một  đứa  trẻ mang căn bệnh như con thì giữ được mạng sống đã là khó,  vậy  mà mẹ vẫn tin là  con còn  làm  nên  được  nhiều điều tốt  đẹp nữa,  dẫu   có lúc niềm tin của mẹ đã bị ông trời “phá đám”. Như năm trước (2005), chỉ  còn ba tháng nữa là  con thi tốt nghiệp  cấp II, vậy mà chỉ sau một  cú sượt  chân, tất  cả đã hóa  thành ác mộng:   xương đùi  con vỡ vụn  và bác  sĩ  đã nói: “Kiểu này thì  chỉ  bó cho liền chứ không còn cơ may đi lại nữa”.   Có  lẽ niềm tin của mẹ cuối cùng rồi cũng được đền đáp. Trong một lần lướt web, con đã  tình cờ phát  hiện   một loại biệt  dược  có thể giúp tình trạng  bệnh của  con khá  hơn. Tin  này  làm “chấn động” cả nhà  mình, giống như tìm thấy ánh sáng cuối đường  hầm. Cả nhà  tưng bừng hẳn lên...   Con thật  sự rất  lo lắng  về khoản chi phí điều trị tiếp theo và số nợ của  gia đình  nữa, nhưng mẹ đã truyền cho con một niềm tin rằng con sẽ sống,  sống  để trả  ơn ba mẹ, hòa nhập   cộng đồng   và để cảm ơn cuộc  đời vì cuộc  đời đã cho gia đình mình niềm tin, nghị lực  lạ kỳ...   Đỗ Minh Hội   Đó  là lá thư tràn ngập tình yêu và sự kỳ diệu  của cuộc  sống mà Đỗ Minh Hội, 16 tuổi, ở  quận Hóc Môn, TP Hồ Chí Minh, gửi đăng trên  báo Tuổi  Trẻ   15.09.2006. Hôm sau, bạn đọc  khắp nơi tìm đến chia sẻ  với Hội.   Còn đây là thư của Hội viết cho chúng tôi, những người  làm ra cuốn sách này, về điều kỳ diệu  của câu chuyện:   Em dùng Google vì thấy trên ti-vi nói về những điều kỳ diệu   từ trang web này. Em thử nhập  từ   khóa  “xương thủy  tinh” và tìm  ra thuốc biệt dược. Trong một thế  giới rộng lớn như Internet thì  có một người  dẫn   đường   là  cần  thiết lắm. Google đã  dẫn đường  giúp em xác  định mình cần  những  gì và tìm  kiếm  ở  đâu.   Và em cũng xin cám ơn một người  dẫn đường vĩ  đại:  Đó  là mẹ em. Mẹ đã giúp  em biết phân biệt   cái  gì  tốt  và  không tốt  để em không bị “nhiễm” khi vào Internet.   Minh Hội   Điều kỳ diệu  vẫn  còn đó trong cuộc đời này. Còn đây là kết  quả  của cuộc  khảo  sát do bệnh   viện Princess Alexandra ở  Brisbane, bên nước Úc: Google tỏ  ra khá hiệu  quả vì có thể chỉ ra đúng   58% các ca bệnh  khó. Một trong các  tác  giả của cuộc  khảo  sát này  là bác sĩ Hangwi Tang cho biết các bác sĩ tìm đến  Google vì họ không thể nhớ hết các triệu  chứng  của các căn bệnh trong khi chúng lại nằm  đâu đó trên  Internet. Theo kết quả được công bố vào  tháng   11.2006 thì   có 60% bác  sĩ dùng Google để tham khảo chẩn  bệnh.  Dĩ nhiên các nhà khảo sát cũng khẳng định  rằng không gì, kể cả  Google, có  thể thay thế được   các bác sĩ. Chắc chắn chúng  ta sẽ đồng ý  như vậy nhưng rõ ràng Google có giá trị  tham khảo  rất lớn trong nhiều lĩnh vực,  bao gồm  cả những  lĩnh vực  rất chuyên  khoa như y tế.   Nếu bạn là người làm ra cái máy tìm  kiếm  Google đó, bạn  có vui không với những  gì mà mình  giúp ích cho người bạn nhỏ “xương thủy tinh”? Và đột nhiên  bạn trở thành  người  giàu có của hành  tinh từ cái máy  chỉ  giúp  người  đó, bạn nghĩ gì?   Cuốn sách này đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi  như vậy,  nhằm   cố gắng làm  rõ một  huyền thoại  của đầu  kỷ nguyên của chúng ta: Larry Page, một thanh niên  người  Mỹ – linh hồn  của Google. Larry Page – người  đã đưa ra ý tưởng để rồi khởi đầu cho Google – chưa bao giờ gặp bạn nhỏ Minh Hội, chắc chắn vậy rồi.  Nhưng có lẽ họ đã gặp  đâu đó  trong một  kiểu quan hệ  mà chúng  ta gọi   là trách nhiệm  với người khác. Thoạt đầu,  chúng tôi muốn kể các bạn nghe về một  kỳ quan trong thế giới kinh doanh nhưng rồi các nguồn  tài liệu  đưa chúng tôi đi xa khỏi dự định  đó. Chỉ với góc nhìn kinh doanh, thật khó để chỉ ra một ranh giới   rõ ràng trong con người  của tỷ phú Larry Page. Có  lẽ người  thanh niên  chưa bao giờ  qua trường  lớp kinh doanh này  chỉ  bắt đầu kinh doanh khi nhận ra trách nhiệm  làm doanh nhân của mình. Trách nhiệm xuất hiện  khi Page nhận thấy người khác đang tin cậy mình  trong chính  trò chơi mà mình bày ra. Trách  nhiệm   với người khác đối với Page bắt đầu đơn giản thôi. Chỉ  có điều, trách nhiệm đó đôi khi thật mơ hồ vì người này cách người kia cả một địa  cầu.  Sự mơ hồ đó, thường  chỉ trở nên  rõ ràng khi nó trở thành  trách nhiệm   với tha nhân. Điều thú  vị  là Page đã xuất  phát  từ quan điểm nào và đã làm thế  nào để triển khai trách nhiệm đó trên quy mô toàn cầu,  với bàn tay trắng và với con đường chưa có dấu  chân người đi trước?   Và một  thanh niên  phải nhìn đời  như thế nào mới cắm được  một  cột mốc  quan trọng bậc nhất trong suốt lịch  sử truyền thông và chia sẻ  tri thức  của con người, kể từ ngày  con người biết lưu lại  tri thức của mình  trên vách hang động hàng vạn năm trước.   Tỷ phú  Larry Page khi về thăm trường   cũ, Đại học  Michigan đã  nói  với  sinh viên  đàn em: “Tôi muốn  nói với các kỹ sư Michigan rằng hãy cứu lấy thế  giới của bạn bằng việc  xây dựng  ước mơ của bạn”. Vấn đề là  xây dựng  ước mơ chứ không chỉ là bản  thân ước mơ đó.   Hồ  sơ bản  quyền Google có  mã   U.S. Patent 6.285.999, do Đại  học  Stanford đăng ký,  và  ghi tên  Lawrence Page là nhà  phát  minh. Larrry Page chính là cha đẻ của huyền thoại Google theo nghĩa phát  kiến đó. Cũng  chính Page trong quá  trình cùng hoàn thiện  thuật toán với Brin đã sáng tạo ra hàng  loạt  giải pháp  rất có giá trị  sử dụng,  giá trị xã hội  cho phát minh.   Bây giờ,  bạn  có thể bắt  đầu đọc  cuốn  sách  và nếu bạn muốn, hãy google để bổ sung cho những gì bạn muốn   biết thêm.  Và  biết đâu bạn   sẽ  bắt đầu  một ước mơ riêng nào đó của mình.  Bởi vì với ước mơ cho thế  giới và nỗ lực 110% sức lực, một người  trẻ tên là Larry Page ở  châu Mỹ đã nối được Text Box: P thông điệp hữu ích đến một bé trai ở Việt Nam bên kia bán cầu  trong mối quan hệ tha nhân. Nguyễn Ngọc Hoàng Mời các bạn đón đọc Larry Page Và Google - Sắp Xếp Lại Hệ Thống Thông Tin Toàn Cầu của tác giả Albatross.
Henry Ford và Ford - Đặt Thế Giới Lên Bốn Bánh Xe - Lê Minh Toàn
Đặt thế giới lên bốn bánh xe là cuốn sách do Tổ hợp Giáo dục PACE biên soạn tóm gọn những nét cơ bản về cuộc đời của Henry Ford – ông chủ hãng xe Ford lừng danh thế giới. Cuốn sách được chia làm bốn phần, trong đó: Phần 1 phác họa cho người đọc về cuộc sống của Henry Ford khi đã là một tỉ phú – một cuộc sống giản dị trong sinh hoạt, hăng say trong lao động sáng tạo. Phần 2 là những quyết định góp phần thay đổi thế giới của Henry Ford. Đó là tư duy trong công việc, không ngừng tư duy, không ngừng sáng tạo và cải tiến. Ông đã sáng tạo ra học thuyết Ford – tạo ra dây chuyền sản xuất đầu tiên trên thế giới. Phần 3 là quá trình học tập, rèn luyện của Henry Ford. Ông đã cho mọi người thấy tầm quan trọng của việc học tập – không chỉ từ sách vở mà còn từ kinh nghiệm đời sống, trải nghiệm lao động và từ những người thợ lành nghề, những người có kinh nghiệm… Phần 4 là di sản của Henry Ford, nói đến những bạn bè thân tín của ông cũng như những đối thủ lừng danh ông đối đầu, và người kế vị ông. Đồng thời cũng thể hiện mục tiêu của ông, đó là phụng sự xã hội chứ không chỉ là kiếm tiền. *** Cả thế giới đang di chuyển trên những chiếc xe bốn bánh có gắn động cơ. Không chỉ Mỹ hay Châu Âu - cái nôi của những sáng chế đầu tiên về xe hơi, mà ngay cả rất nhiều nước Châu Á, ôtô- đã trở thành một vật dụng quen thuộc của các gia đình. Có nhận định rằng, ôtô đã làm thay đổi rất lớn lối sống của người Mỹ tới mức kh1o có thể tưởng tượng rằng họ có thể sống mà không có nó. Ôtô cũng không phải là giấc mơ xa với với những người có thu nhập trung bình nữa. Nếu chúng ta đi ngược về quá khứ, vào những năm đầu thế kỷ XX, buổi đầu của nền công nghiệp xe hơi thì sẽ thấy một sự tương phản rất lớn. Thời đó, những chiếc xe hơi là cả một gia tài lớn đối với một người trung lưu ở Mỹ và Châu Âu. Xe hơi như một thứ đồ chơi của giới thượng lưu, một biểu tượng của sự xa hoa dành riêng cho giới quý tộc. Những hãng sản xuất xe hơi đã hốt bạc một cách “nhẹ nhàng” trên các sản phẩm dành cho nhà giàu. Chẳng ai dại dột phổ biến công nghệ hay tìm cách làm cho các sản phẩm phong phú hơn, vì như vậy họ sẽ phải bỏ ra nhiều công sưc hơn để làm ra một sản phẩm bằng cách lắm tiền là phương châm kinh doanh của các hãng xe hơi thời đó. Một cá nhân vĩ đại là người biết đặt lên vai mình một sứ mệnh đối với xã hội mà anh ta đang sống. Henry Ford đã đặt lên vai mình một sứ mênh cao cả: góp phần làm đại chúng hoá xe hơi trên toànthế giới. Đó không phải là giấc mơ xa xăm, mà nó đã được hiện thực hoá ngay sau khi Ford Motor ra đời trên thị trường chưa đầy 20 năm. Quả thực đó là một bước tiến kỳ diệu. Henry Ford, vị thánh ấy đã làm gì và đã làm như thế nào? Cuốn sách nhỏ bé này sẽ hé lộ về Ford, không phải là chân dung về ông, mà về những gì ông đã làm để giúp cho chiếc xeương tiện của đại chúng.   Mời các bạn đón đọc Henry Ford và Ford - Đặt Thế Giới Lên Bốn Bánh Xe của tác giả Lê Minh Toàn.
Bạch Thái Bưởi - Khẳng Định Doanh Tài Nước Việt - Lê Minh Quốc
Bộ sách  mà bạn đọc  đang cầm trên  tay là kết quả của  dự  án nghiên  cứu  mang tên  Đi tìm  Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế  giới do Tổ hợp Giáo dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua.   Chúng tôi đặt  tên  cho bộ sách  này  là Đạo  Kinh doanh Việt Nam và  Thế giới  với  mong muốn được chia sẻ cùng  bạn  đọc,  đặc biệt   là bạn  đọc  doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng  loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là  gì?”, “Doanh nhân là  ai?”, “Đâu  là ‘đạo’   của  nghề kinh doanh?” và “Tại  sao kinh doanh là một  nghề cao quý và xứng  đáng  được  xã hội tôn vinh?”...   Đội ngũ chuyên  gia của PACE cùng  các cộng  sự đã nghiên cứu cuộc  đời và sự nghiệp của 25 doanh nhân huyền thoại,  đến  từ 25 tập đoàn kinh doanh dẫn đầu trong những bảng xếp hạng doanh nghiệp trên toàn thế giới, nhằm  tìm kiếm  “cái đạo”,  cái triết  lý cốt lõi trong kinh doanh của họ. Mục đích  là để lý giải  xem vì sao họ  là những người kiếm tiền nhanh nhất, kiếm tiền nhiều nhất  và kiếm tiền bền vững nhất thế giới, đồng thời họ lại được  xã hội đặc biệt kính trọng?   Phân tích  từng chặng đường,  từng mốc sự nghiệp, từng bước thăng trầm... của những  huyền thoại doanh nhân này, chúng tôi đã đúc kết được  những  nét chung nhất, nói chính  xác hơn, là những yếu tố khiến họ trở nên vĩ đại, trở thành  những  doanh nhân huyền thoại. Đó  là sự khao khát,  là niềm đam mê một cách mãnh liệt để sáng tạo, để đem đến thật nhiều giá trị mới cho cuộc  sống  và cho xã hội.  Họ đã thực hiện được điều đó bằng việc  cống hiến  cả cuộc đời mình  lẫn việc truyền đạt, dẫn đường cho hậu thế.   Trong lời đầu  này của bộ sách, chúng tôi cũng muốn kể lại với quý  vị một  vài câu chuyện và một  vài so sánh mà PACE luôn tự hào khi tìm  thấy nó trong hành trình Khát vọng Doanh trí của mình  trong suốt những năm vừa qua:   Bà chủ một tiệm  tạp hóa suốt  ngày  không vui vì buôn bán ế ẩm.  Nhưng sau những ngày tháng nhìn vào “mắt” khách hàng, bà chợt nghĩ: “Sao tôi không là người giải quyết  vấn đề nhu yếu phẩm cho cả xóm?”. Và mọi  chuyện thay đổi.  Từ đó, nhiều gia đình chưa khá giả trong khu phố  có thể mua một, hai gói mì tôm (mà không cần phải mua cả thùng   mì),  một tép bột ngọt (mà không cần phải mua cả gói bột ngọt).   Bà có thể mở cửa lúc mờ sáng  hay nửa đêm, khi chẳng còn nơi nào bán hàng nữa để đáp ứng nhu cầu “hết chanh đột xuất”  hoặc “nhà  không còn nước mắm”.  Hay hơn nữa, mọi người chỉ “xẹt” một hai bước chân là có ngay những  vật phẩm cần thiết nhất cho gia đình.  Lại thêm chuyện giá  cả của  bà  so với  chợ  và  siêu  thị cũng chẳng chênh  lệch   là bao. Ai cũng đoán ra kết quả: cửa tiệm suốt ngày người ra kẻ vào,  bà thì bán hàng luôn tay và cười nói luôn miệng. Không chỉ tiền lãi thu được tăng cao, mà bà còn  có “lợi nhuận” lớn nhất   là sự quý mến   của mọi người  dành  cho một người biết kinh doanh như bà.  *** Có lẽ, Bạch  Thái  Bưởi  chưa phải  là nhà  tư sản giàu nhất trong lịch  sử Việt Nam. Nhưng ông lại chính là nhà  buôn nổi danh nhất  và được  nhiều người kính  trọng, ngưỡng  mộ lẫn công kích nhất.   Người ta chẳng truyền tụng nhiều về gia sản của ông, sử sách  cũng  chỉ  ghi chép  khá tản mạn  về những công ty, nhà xưởng  và công việc  của ông. Nhưng cho đến mãi tận ngày  nay, người ta vẫn tôn vinh Bạch Thái Bưởi vì ông chính là người đầu tiên khẳng định  vị thế của doanh nhân Việt, người làm kinh doanh với khát vọng to lớn  là cải tạo  xã hội,  mà  cụ thể là ước  vọng   có thể xây dựng một Hà Nội lung linh hoa lệ như Paris…   Khẳng  định doanh tài  nước   Việt từ  bàn   tay trắng, trong một thời kỳ đen tối của đất nước.  Quả thật,  đó là việc  đáng  tôn vinh.   Đó là một  thời  kỳ Việt   Nam sống trong chế  độ thuộc   địa  Pháp.  Đó cũng  là một  thời  kỳ đặc biệt, khi cánh  cửa mở ra, người Việt lần đầu tiên  đón nhận những tri thức mới, kinh nghiệm làm ăn mới của thế  giới. Một bộ phận  trí thức đã ý  thức được nhiệm   vụ tiên  phong của  họ là phất  lên  ngọn  cờ khai trí, kêu  gọi đồng  bào đổi mới để nỗ lực đưa dân tộc phát triển sánh ngang với các cường  quốc phương Tây.   Đó  là thời  kỳ mà  nghề buôn lần đầu tiên  trong lịch  sử được  xem trọng, được cổ súy nhiệt  liệt. Một phong trào thực nghiệp  rầm rộ cả nước.   Chính trong buổi đầu phát triển ngành kinh doanh tại Việt Nam đã xuất hiện  một lớp doanh nhân mới ưu tú – những doanh nhân kinh doanh thành đạt nhờ giải  quyết tốt những  nhu cầu   xã hội  và có một tinh thần  vì cộng đồng  rất cao.   Khi nói  tới lớp  doanh nhân ưu tú này,  cái  tên Bạch Thái Bưởi luôn được người đương thời   và cả hậu thế  nhắc đến  với niềm kính  trọng  lẫn  tự hào. Bạch  Thái  Bưởi  là ai? Xung quanh nhân vật này có rất nhiều huyền thoại. Khó ai có thể hình dung một người Việt Nam tay trắng  có thể làm nên một sự nghiệp  lẫy lừng dưới thời thuộc địa.   Từ một công chức làm trong một hãng thầu công chánh  của Pháp,  một ngày nọ Bạch  Thái  Bưởi  đã quyết chí mạo hiểm làm giàu. Chàng  trai ấy  đã từng xuất dương để học tập kinh nghiệm, để tiếp cận  với tri thức  thế  giới nhằm  có một  nền tảng vững  chắc trong kinh doanh.   Chính từ khát  vọng  làm  giàu  và những   kinh nghiệm từ sách vở, Bạch  Thái Bưởi đã thành  công trên  thương trường. Chỉ sau một thời gian ngắn Bạch Thái công ty đã vươn ra rất nhiều lĩnh vực, từ  nghề buôn gỗ, thầu  thuế  chợ đến kinh doanh thuyền bè trên sông nước, khai mỏ…   Dưới thời thuộc  địa, các nhà buôn của ta bước ra thương trường  cũng là bước  vào  một  cuộc  cạnh tranh với tư bản các nước  như tư bản Hoa kiều, Pháp kiều… Bạch Thái Bưởi đã thành  công không chỉ  nhờ sự nhạy  bén trong kinh doanh mà chính là từ quan niệm  của ông về việc kinh thương: kinh doanh là cách  để giải quyết  những nhu cầu trong xã hội,  để khẳng định  hình  ảnh của người Việt trên thương trường.   Nhà văn Lê Minh Quốc,  tác giả của tập sách này kể với chúng  tôi: “Một trong những khó khăn cần phải vượt qua là đánh   giá  như thế nào  về con người Bạch Thái Bưởi? Thực chất ông là người như thế  nào?  Có tư liệu cho rằng, trong đời thường ông là người keo kiệt,  bủn xỉn, làm giàu bằng nhiều thủ đoạn;  ngược  lại có tài liệu  ghi nhận ông như một nhà cách  mạng.  Cả hai thái độ đánh  giá như thế đều có gì đó  chưa xác đáng.  Không biết  dựa vào nguồn tư liệu nào,  có khá  nhiều bài  viết đề cập đến chi tiết “có lần lên  tiếng bênh vực cho quyền lợi của người  dân bị trị, trong Hội nghị kinh tế  lý tài, ông bị Toàn  quyền Robin đe dọa: “Nơi nào  có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi”,  ông đáp  lại: “Nước   này còn Bạch  Thái  Bưởi  thì  không còn Robin”. Do không tìm được, không tìm thấy trong tư liệu  gốc đề cập đến chuyện “giật gân” này nên tôi dứt khoát không sử dụng.  Hơn nữa Bạch Thái Bưởi qua các tư liệu  đã thu thập  và chọn lọc thì tôi ngờ rằng,  không bao giờ ông buột miệng  nói những câu “dại dột” như vậy.  Đó không phải là tính  cách của một người lão luyện,  bản lĩnh, nhiều kinh nghiệm trên  thương trường... như Bạch Thái Bưởi”.   Bạn đọc đang cầm trên tay tập sách viết về hành trình  đặc biệt của một con người kinh doanh vì xã hội, một hành trình  đầy ắp  gian nan, vất vả. Ông đã  để lại một  kinh nghiệm   sống còn trong kinh doanh, một  bài học quý báu cho đời sau là  cách xác lập mục  tiêu  làm giàu. Nếu chỉ bo bo thu vén để giàu nứt nố đổ vách,  thu vén cho riêng cá nhân mình như biết bao nhà tư sản khác, thì ngày nay không mấy ai buồn nhắc đến  tên tuổi của ông nữa, bởi cái giàu ấy nghĩ  cho cùng  cũng  chỉ  là “giàu như Thạch Sùng” mà thôi.   Hơn một trăm năm trôi qua, ngồi  ngẫm  lại để thấy người xưa đã thật  sự giong buồm ra biển lớn một  cách  tự tin, đàng  hoàng  và còn nguyên  vẹn những  bài học về thuật  xử thế,  phép  kinh thương cũng như một tấm lòng toàn vẹn với đồng  bào. ... Mời các bạn đón đọc Bạch Thái Bưởi - Khẳng Định Doanh Tài Nước Việt của tác giả Lê Minh Quốc.
Akio Morita và Sony Kiến Tạo Nền Giải Trí Tương Lai - Lê Nguyễn
Cùng bạn đọc: Kiếm tiền hay phụng sự xã hội? Bộ sách mà bạn đọc đang cầm trên tay là kết quả của dự án nghiên cứu mang tên “Đi tìm Đạo Kinh doanh của Việt Nam và Thế giới” do Tổ Hợp Giáo Dục PACE thực hiện trong suốt 14 tháng vừa qua. Chúng tôi đặt tên cho bộ sách này là “Đạo Kinh doanh Việt Nam và Thế giới” với mong muốn được chia sẻ cùng bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc doanh nhân và bạn đọc quan tâm đến kinh doanh, những kiến giải về hàng loạt các câu hỏi như: “Kinh doanh là gì?”, “Doanh nhân là ai?”, “Đâu là “đạo” của nghề kinh doanh?” và “Tại sao kinh doanh là một nghề cao quý và xứng đáng được xã hội tôn vinh?”... Từ câu chuyện của những huyền thoại doanh nhân thế giới *** Tôi gọi ông là một huyền thoại – một huyền thoại đã dành trọn cuộc đời mình, trọn sự nghiệp của mình để phục vụ nhân “Khi sinh ra, bạn khóc còn mọi người đều cười. Sống sao cho khi bạn qua đời, mọi người đều khóc trong khi mỗi mình bạn cười” – có một câu thành ngữ mà dẫu nhiều năm qua rồi, nhiều người dân Nhật vẫn thỉnh thoảng nhớ lại khi nhìn thấy một cái ti-vi mang nhãn hiệu Sony. Họ, những con người hết sức bình thường ấy, hầu hết chưa một lần gặp gỡ người cha của tập đoàn Sony Akio Morita. Nhưng với họ, ông chiếm một vị trí quan trọng, thật quan trọng trong lòng họ. Đơn giản, ông đã làm thay đổi cuộc sống của họ, làm thay đổi môi trường sống xung quanh họ bằng tài năng xuất chúng và tinh thần xã hội rộng lớn của mình. Một trong những người bạn của tôi, chị Miki Amorato, đang làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh đã kể cho tôi về những giọt nước mắt của bà nội mình khi nghe tin Akio Morita qua đời. Miki không khóc, nhưng giọng chị nghe nghèn nghẹn lúc nhớ lại khoảnh khắc chị theo dõi đám tang của ông cách đây đã nhiều năm... * * * Ngày 4.10.1999, một ngày thu ảm đạm ở đảo quốc mặt trời mọc, thanh âm những nhạc phẩm của Giacomo Puccini vang vọng khắp nơi. Những giai điệu opera đẫm chất Ý này lại chính là giai điệu đưa tang một huyền thoại của nước Nhật: Akio Morita – người sáng lập tập đoàn Sony. Đơn giản, vì đây là những giai điệu mà ông thích nhất khi còn sống. Ngày hôm ấy, nước Nhật khóc khi giã từ một người công dân tuyệt diệu của mình. Akio Morita ra đi ở tuổi 78 sau khi đã cống hiến cho nước Nhật và thế giới những giá trị vô cùng to lớn. Hơn 3.000 người, gồm nhiều chính khách và nhà ngoại giao, trong đó có các cựu Thủ tướng, các lãnh đạo những tập đoàn lớn tại Nhật Bản đã tập trung trước khách sạn Tokyo để tiễn đưa Morita về nơi an nghỉ cuối cùng. Mọi người đứng yên và cúi đầu trước chân dung của Morita trên màn hình khổ lớn cao 3m trong nhạc phẩm Ave Maria của nhà soạn nhạc Đức, Schubert do dàn nhạc Tokyo Philharmonic biểu diễn. Những thước phim video phát lại hình ảnh Morita khi còn trẻ đang bày tỏ niềm mong muốn làm chiếc cầu nối giữa Nhật Bản và phần còn lại của thế giới, những hình ảnh về chiếc ti-vi đầu tiên xuất hiện trên thị trường, niềm vui của lô hàng xuất khẩu đầu tiên... Khi chiếc xe chở quan tài Morita chạy ngang trụ sở của Sony, khoảng 3.000 công nhân viên của tập đoàn đã đứng sẵn hai bên đường, kính cẩn từ biệt người lãnh đạo, người thầy, người bạn lớn của họ, người  đã gắn bó cuộc đời mình với thương hiệu Totsuko và Sony suốt hơn 50 năm. 50 năm ấy, Akio Morita đã làm thay đổi xã hội Nhật Bản bằng những ý tưởng của mình. Hơn thế nữa, ông đã làm thay đổi cả cách nhìn của thế giới về đất nước bị bại trận trong chiến tranh với tàn tích của hai quả bom nguyên tử. Tôi gọi ông là một huyền thoại – một huyền thoại đã dành trọn cuộc đời mình, trọn sự nghiệp của mình để phục vụ nhân loại.   Mời các bạn đón đọc Akio Morita và Sony Kiến Tạo Nền Giải Trí Tương Lai của tác giả Lê Nguyễn.