Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miếng Da Lừa - Honore de Balzac

Tiểu thuyết Miếng da lừa (1831) là một trong những tác phẩm xuất sắc đầu tiên của Honoré de Balzac, tiếp sau cuốn tiểu thuyết lịch sử Những người Suăng (1829), chấm dứt giai đoạn những tiểu thuyết ly kỳ, kỳ quặc mà sau này tác giả tự mình gọi là thứ "Văn chương con lợn", và mở đầu bước phát triển mới trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn sau mười năm tìm tòi, mò mẫm, gian khổ, lâu dài. Từ nay Balzac đi hẳn vào con đường lớn của chủ nghĩa hiện thực mà Miếng da lừa là một trong những mốc đầu tiên. Khi viết Miếng da lừa, Balzac chưa nghĩ tới việc xây dựng cả pho Tấn trò đời vĩ đại của ông, nhưng ông đã có ý kiến phải đi sát hiện thực xã hội đương thời, mô tả toàn diện xã hội và tính quy luật trong sự phát triển của nó, nâng sáng tác của ông lên trình độ khái quát hóa rộng rãi. Cũng vì vậy, Miếng da lừa nghiễm nhiên trở thành một bước mở đầu, mà đã già dặn, cho cả công trình lớn lao sáng tạo pho Tấn trò đời tương lai. Tiểu thuyết Miếng da lừa mà Balzac sẽ xếp vào phần Khảo cứu triết học của Tấn trò đời, đã đặt ra cả một loạt vấn đề triết lý và xã hội, nêu lên cả một loạt chủ đề mà sau này nhà văn sẽ đề cập tới cụ thể và đầy đủ hơn trong nhiều tác phẩm khác của Tấn trò đời. o O o Tóm tắt nội dung tiểu thuyết Miếng da lừa như sau: Raphaël de Valentin là một thanh niên quý tộc phá sản, có tài năng và chí hướng. Ban đầu anh cam chịu sống cảnh nghèo nàn trong một gian gác xép để cần cù học tập nghiên cứu và viết sách. Nhưng anh lại khao khát tình yêu và mơ ước một cảnh yêu đương trong nhung lụa, cho nên anh không quan tâm đến mối tình của Pauline, con gái bà chủ nhà nơi anh trọ, mặc dầu họ ân cần chăm sóc anh rất chu đáo. Rồi một bữa, không kiên trì được, anh nghe theo bạn là de Rastignac từ bỏ cuộc đời lao động nghèo khổ để chạy theo cuộc sống phóng đãng, phù hoa của xã hội thượng lưu. Anh yêu say mê nữ bá tước Foedora, người đàn bà thời thượng có sắc đẹp và tiền của nhưng lại vô tình, thiếu thốn trái tim để hưởng ứng mối tình chân thành và nồng nhiệt của Raphaël. Cuối cùng anh bị Foedora cự tuyệt và anh lăn mình vào những cuộc hành lạc cho tới khi hết nhẵn tiền, anh định ra sông tự tử. Nhưng vừa lúc đó, Raphaël được một lão già bán đồ cổ cho một miếng da lừa có phép màu làm thỏa mãn mọi ước nguyện của anh, nhưng mỗi lần được toại nguyện thì miếng da lừa co lại và tuổi đời anh lại giảm đi. Nhờ tấm bùa thiêng, Raphaël trở nên triệu phú và khi gặp lại Pauline cũng trở nên giàu có, anh định kết hôn với nàng. Song, được toại nguyện thì miếng da lừa cứ co lại mãi mà bản thân anh thì mang bệnh nặng. Lo sợ trước cái chết và không làm sao phá được phép thiêng của tấm bùa, anh định hoàn toàn lánh xa xã hội, sống một cuộc đời như cây cỏ, không ước vọng, nhưng uổng công. Cuối cùng, bệnh càng ngày càng trầm trọng, trong một cơn điên, anh ước mơ ân ái với Pauline và chết trong tay nàng. o O o Balzac bắt đầu viết Miếng da lừa vào mùa thu năm 1830, nghĩa là khi cuộc Cách mạng tháng Bảy vừa nổ ra, đánh gục hẳn giai cấp quý tộc ngóc đầu dậy dưới thời Trùng hưng (1815 - 1830), và đưa tầng lớp tư sản tài chính, ngân hàng Pháp lên nắm chính quyền. Nền Quân chủ tháng Bảy được thiết lập (1830 - 1848) thực chất là "triều đại của bọn chủ nhà băng" với khẩu hiệu nổi tiếng mà một viên thủ tướng đương thời là Ghozau đã vạch ra: "Hãy làm giàu". Làm giàu, chạy theo đồng tiền, tôn thờ con Bê vàng, đó là lý tưởng duy nhất ngự trị xã hội đương thời, nó chà đạp lên tất cả mọi thứ, từ danh dự, đạo đức cho đến tư tưởng, tình cảm... và cả đời sống con người nói chung. Xuất hiện trong hoàn cảnh xã hội đó, tiểu thuyết của Balzac, cả pho Tấn trò đời của ông nói lên cái số phận bi thảm của con người trong xã hội đương thời, xã hội tư sản ở đó đồng tiền thống trị, ở đó diễn tiến "cuộc đấu tranh khốc liệt của tất thảy chống lại tất thảy", ở đó con người bị biến chất, con người trở thành thù địch với con người. Tiểu thuyết Miếng da lừa chính là tác phẩm đầu tiên trong đó, Honoré de Balzac bày tỏ thái độ phủ nhận của ông, đối với cái thực tại tư sản đó, đối với giai cấp tư sản, cụ thể là bọn tư sản tài chính, ngân hàng vừa nhảy lên nắm chính quyền. Nhân vật trung tâm số một của Miếng da lừa là Raphaël de Valentin. Anh xuất thân từ một gia đình quý tộc bị phá sản, và là một thanh niên có tài năng, có thiện ý và mang một lý tưởng cao cả. Anh say mê khoa học, nghệ thuật và có hoài bão sáng tạo những tác phẩm phục vụ nhân loại. Để thực hiện ý đồ đó, Raphaël sẵn sàng cam chịu một cuộc đời nghèo khổ, thiếu thốn, hy sinh cả những thứ tối thiểu cẩn thiết. Và náu mình trong một gian gác xép trơ trụi, anh mê mải viết tác phẩm Luận về ý chí, trong đó, với tuổi trẻ nồng nhiệt, anh tỏ lòng tin tưởng ở con người. Ở quyền năng của lý chí và ý chí. Nhưng rồi, chẳng bao lâu, Raphaël cay đắng nhận thấy sự lãnh đạm ghê gớm, tàn nhẫn của xã hội đối với công việc của anh cũng như đối với bản thân anh. Anh mau chóng nhận thức được rằng trong xã hội quý tộc - tư sản, trí tuệ, nghị lực tài năng chẳng đáng giá là bao, những thứ đó dường như chẳng cần thiết vì không lợi ích cho ai, chẳng ai trục lợi được tác phẩm của anh cho nên chẳng ai quan tâm đến anh. Sống giữa kinh thành Paris náo nhiệt mà anh cảm thấy trơ trọi như sống giữa bãi sa mạc kinh khủng nhất, nghĩa là giữa sự lạnh nhạt của mọi người! Raphaël chỉ gặp một ít người tốt có thiện cảm với anh trong đám những người nghèo như anh, nhưng họ lại chẳng giúp đỡ anh nhiều. Và, thế là bao nhiêu hy vọng và mơ tưởng tan vỡ ở người thanh niên ban đầu có thiện chí đó. Số phận của Raphaël cũng như của bao nhiêu thanh niên khác như anh, quả thật là bi đát: họ hoàn toàn không có khả năng thi thố tài năng trong cái xã hội đầy những tham lam, ích kỷ, tính toán quyền lợi, tiền bạc. Quả thật trong cái xã hội đó, con đường nghiên cứu khoa học, nghệ thuật không vụ lợi vì một mục đích cao cả, là một con đường đầy gian nan, trở ngại. Thế mà, chàng thanh niên Raphaël lại không có đầy đủ nghị lực và quyết tâm để theo đuổi đến cùng chí hướng của mình. Chẳng bao lâu, anh chán ngán với cuộc sống nghèo nàn, trơ trọi trên gác xép của anh, anh muốn tìm một con đường thành công dễ dàng và một cuộc sống đầy đủ hưởng lạc trong xã hội thượng lưu. Và một bữa, gặp tay bạn cũ là de Rastignac rủ rê lôi kéo, anh từ bỏ mọi ước vọng cao cả để lăn mình vào cuộc sống ăn chơi phóng đãng; anh tìm cách len lỏi vào xã hội thượng lưu hào nhoáng; chạy theo những thú vui trụy lạc: anh say mê cô gái Foedora kiều diễm nhưng phù phiếm, đỏm dáng mà vị kỷ, không tâm hồn, thiếu một trái tim. Nếu giữa Raphaël de Valentin và xã hội đương thời có mâu thuẫn tạo nên tấn bi kịch về số phận của người thanh niên thì trái lại, những nhân vật như de Rastignac, Foedora hay như gã tư sản Taillefer... lại chính là hiện thân của cái xã hội đó... Thật ra, de Rastignac cũng là một thanh niên quý tộc nghèo như Raphaël, và trước kia, khi còn là sinh viên mới ở tỉnh nhỏ lên Paris trọ học, anh ta cũng từng mang trong đầu một lý tưởng cao cả và có một tâm hồn trong trắng thanh cao[1]. Nhưng rồi, do ảnh hưởng của xã hội quý tộc tư sản Paris, hắn đã trở thành một công tử Paris ăn chơi sành sỏi mất hết tư cách đạo đức với "chủ nghĩa phóng đãng" mà hắn muốn truyền thụ cho Raphaël. Rastignac thật sự là con đẻ của xã hội tư sản, là "nhân vật anh hùng" của nó. Hắn trắng trợn, tính toán, mưu thành công và địa vị trong xã hội bằng cái giá khá đắt là sự sa đọa hoàn toàn về đạo đức và tâm hồn. Ở một cuốn tiểu thuyết khác về sau của Balzac[2], hắn đã leo lên tới ghế thượng thư trong chính quyền tư sản và qua cả pho Tấn trò đời mà hắn là một nhân vật trung tâm và xuất hiện nhiều lần, trong hình tượng de Rastignac, Balzac đã khái quát rõ ràng và đầy đủ cái chủ nghĩa vị kỷ và hãnh tiến tư sản. Đi đôi với Rastignac là nữ bá tước Foedora, người đàn bà thời thượng của xã hội thượng lưu quý tộc - tư sản Paris. Nàng có sắc đẹp và có tiền của, nhưng lại không có một trái tim. Ở con người kiều diễm mà vô tình đó không thể có những xúc động hồn nhiên, cao thượng khả dĩ đáp lại mối tình nồng thắm chân thành của Raphaël. Nàng phối hợp trong mình nàng cái lịch sự phù hoa của kẻ phong lưu quý tộc và cái tính toán vị kỷ của tay doanh thương tư sản, cho nên Balzac nói rất đúng: "Foedora, chính là cái xã hội này". Đến như lão tư sản Taillefer, tay chủ nhà băng giàu sụ, thì rõ ràng hắn là hiện thân số một của trật tự đương thời. Tất cả mọi quyền hành, thế lực trong xã hội đó đều tập trung trong tay bọn chủ nhà băng, bọn người có vàng như Taillefer. Xưa kia bọn chúng làm giàu bằng tội ác và ngày nay bọn chúng là chủ nhân thật sự của xã hội, bọn chúng đứng trên cả pháp luật và quyền lực quốc gia. Hãy nghe Taillefer trắng trợn tuyên bố trong một bữa tiệc đế vương mà hẳn là chủ nhân: "Thưa các ngài, xin nâng cốc chúc cho quyền lực của vàng. Ông de Valentin trở thành sáu lần triệu phú là nắm được quyền hành. Từ nay, đối với ông lời ghi trên đầu Pháp điển: "Mọi người Pháp đều bình đẳng trước pháp luật" là một lời nói láo. Ông ấy sẽ không tuân theo pháp luật, pháp luật sẽ tuân theo ông ấy. Đối với bậc triệu phú thì không có đoạn đầu đài không có đao phủ". Thật không còn lời nói nào điển hình hơn để khái quát bản chất của xã hội tư sản do đồng tiền ngự trị! Cái xã hội quý tộc tư sản đó còn được thể hiện ở một khía cạnh khác trong hình tượng đám người thượng lưu sống nhàn hạ bên suối nước nóng, nơi mà Raphaël tới để dưỡng bệnh. Cuộc xung đột giữa Raphaël và bọn người đó nói lên một cách sắc nhọn cái luật thú rừng man rợ chi phối mọi quan hệ giữa người với người, Balzac viết: "Cái xã hội hào hoa trục xuất ra khỏi nó những kẻ đau khổ, như một người tráng kiện tống ra khỏi thân thể mình một nguyên tố bệnh tật. Xã hội thượng lưu kinh hãi những đau thương và bất hạnh, nó sợ chúng như bệnh lây, nó không bao giờ do dự giữa chúng và thói hư, thói hư là một xa xỉ phẩm..., nó không bao giờ buông tha kẻ đấu sĩ bị ngã gục: nó sống trên tiền bạc và sự nhạo báng... Yếu thì chết! Đó là lời nguyền của cái thứ giai cấp kỵ sĩ được thiết lập ở hết thảy các dân tộc trên quả đất vì ở đâu đâu kẻ giàu có cũng ngoi lên và câu châm ngôn đó được ghi trong đáy những quả tim do giàu có nhào nặn, hay do giai cấp quý tộc nuôi dưỡng... Trung thành với bản hiến chương của chủ nghĩa vị kỷ đó, xã hội rất mực khắc nghiệt đối với những kẻ nghèo khổ dám táo bạo đến làm ngăn trở những hội hè của nó, làm phiền nhiễu những lạc thú của nó. Kẻ nào đau khổ về thể xác hay tâm hồn, không tiền của hay quyền hành là một tên cùng đinh...". o O o Đối lập với bọn thượng lưu ích kỷ và đồi bại của xã hội quý tộc - tư sản, Balzac, với cảm tình rõ rệt, vẽ lên hình ảnh trong sáng, thanh cao của những người nghèo khổ, những người yếu thế như mẹ con Pauline, như người lão bộc Jonathas, giáo sư Porriquet hay như những người nông dân ở miền suối nước. Không phải ngẫu nhiên mà những con người hiền lành, chất phác, đôn hậu lại có thiện cảm với Raphaël de Valentin và giúp đỡ anh một cách vô tư. Nhưng trước mối tham vọng cá nhân vô hạn của Raphaël, sự giúp đỡ có hạn của họ trở thành bất lực cả khi anh còn sống nghèo khổ trong gian gác xép, cho tới lúc anh đã trở thành giàu có nhưng lại mang bệnh tật hiểm nghèo. Nổi bật lên trên đám người nghèo mà có tấm lòng vàng đó là hình ảnh cô gái Pauline ngây thơ, chân thật, khiêm tốn, cần cù, và cũng trung hậu, nồng thắm. Pauline, tương phản với Foedora, là tượng trưng cho mối tình chân chính thắm thiết và lòng xả kỷ cao quý. Nhưng trong xã hội tư sản đồi bại, hình tượng nàng mang tính chất một ước mơ lý tưởng đối với Raphaël, và trên thực tế, sự giúp đỡ hy sinh của nàng cho Raphaël đã không có hiệu quả cả khi nàng còn nghèo khổ lẫn khi nàng đã trở thành giàu có. Không phải không có lý do mà ở phần kết thúc tác phẩm, Balzac trình bày hình tượng Pauline như một chiếc bóng, một nàng tiên, một thiên thần khi ẩn, khi hiện, vô hình, trái lại, Foedora kia, Foedora phù hoa và tính toán, vị kỷ và vô tình, mới là sự thật trăm phần trăm, cái sự thật sờ sờ mà người ta bắt gặp ở bất cứ nơi nào trong xã hội đương thời. o O o Raphaël de Valentin với lòng đầy tham vọng nhưng tinh thần yếu đuối không đủ can đảm kiên trì một cuộc sống trong sạch nhưng nghèo nàn thiếu thốn. Cố nhiên anh không đáp lại mối tình ngây thơ, chân thật, thắm thiết của một nàng Pauline nghèo khổ. Bị cám dỗ bởi lối sống phóng đãng của Rastignac, và khát khao chia sẻ với Foedora mối tình trong nhung lụa, anh hăm hở lăn mình vào xã hội thượng lưu để rồi hứng lấy biết bao nỗi đau khổ, đắng cay mà một kẻ nghèo như anh tất nhiên phải chịu đựng, kể từ việc thiếu vài hào đi xe để tới nhà tình nhân cho đến việc xoay tiền mua vé lô đi xem hát với người yêu. Rút cục, khi hết đường xoay tiền mà tình yêu thì bị cự tuyệt, anh quyết định trẫm mình để kết liễu đời. Nhưng ở đây, Honoré de Balzac mượn một yếu tố quái dị để nhấn mạnh và làm nổi bật hơn nữa chủ đề tiểu thuyết của ông: đó là sự xuất hiện của lão già bán đồ cổ và miếng da lừa thần bí. Cần chú ý rằng việc sử dụng yếu tố quái dị, thần bí ở đây không hề làm giảm sút tính hiện thực của tác phẩm, vì tựu trung cái đó không phải là cái quyết định sự phát triển của chủ đề, mà nó cũng không tách rời nhân vật chính ra khỏi hoàn cảnh xã hội thực tại với tính quy luật trong sự phát triển của nó. Xét cho kỹ, những gì xảy ra cho Raphaël sau khi anh thăm cửa hàng đồ cổ và chiếm hữu miếng da lừa vẫn có thể giải thích được một cách rất tự nhiên: từ việc anh được các bạn giới thiệu để tham dự bữa tiệc đế vương của tay tư bản Taillefer đến việc anh được hưởng một món gia tài kếch xù của người họ ngoại, cho tới cái chết của anh vì bệnh lao, hậu quả của cuộc đời trác táng theo sau một thời gian sống thiếu thốn kham khổ. Trái lại, yếu tố kỳ ảo ở đây chính là một phương tiện nghệ thuật được nhà văn xử lý một cách tài tình để phóng đại, để khái quát hóa, chỉ rõ đầy đủ và sâu xa hơn bản chất của xã hội, của cuộc sống đương thời, do đó mà cuốn tiểu thuyết càng có sức thuyết phục mạnh hơn. Lão già bán đồ cổ tập trung trong tay hắn bao nhiêu của báu thế gian là tượng trưng hùng hồn cho cái thế lực vạn năng, cái quyền hành phi thường của đồng tiền, còn miếng da lừa là hình ảnh cụ thể, là sự khái quát hóa triết lý cái số phận bi thảm của con người bị hủy hoại, phá phách, bị xén cắt về nhân phẩm, tư cách cũng như về thể xác, tuổi đời trong cuộc sống cá nhân vị kỷ chạy theo đồng tiền, chạy theo làm giàu và hưởng lạc nó là lý tưởng duy nhất của xã hội tư sản. Điều đáng chú ý là tính cách nhân vật Raphaël de Valentin vẫn tiếp tục phát triển một cách logic, theo quy luật, sau khi trở nên giàu có cũng như trước kia. Con người đầy tham vọng cá nhân đó sau khi tiếp xúc với Rastignac, Foedora, với xã hội thượng lưu nói chung, không tránh khỏi tiêm nhiễm phải cái nọc độc, bệnh hủi của chủ nghĩa vị kỷ tư sản. Và giàu có không làm cho anh sống cởi mở, khoáng đạt, rộng rãi hơn, trái lại, với tính vị kỷ làm khô héo, cằn cỗi tâm hồn con người, anh lại càng co mình thêm vào cái vỏ cứng của chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa vị kỷ lên đến tuyệt đỉnh khi Raphaël trở nên giàu có mà lại biết mình mang bệnh tật hiểm nghèo không tránh khỏi cái chết. Anh chỉ còn biết bằng bất cứ giá nào cứu sống cái tính mạng của anh, đến mức anh chỉ còn nhìn thấy duy nhất bản thân mình, và tự coi mình, là tất cả vũ trụ: "Đối với anh không còn vũ trụ nữa, cả vũ trụ nằm trong con người anh". Và Raphaël, trên thực tế, đã chết về tâm hồn từ trước khi anh chết về thể xác! o O o Tiểu thuyết Miếng da lừa cùng với một loạt tác phẩm khác xuất hiện khoảng những năm 1830 - 1831 thật sự đã đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trong phương pháp sáng tác của Honoré de Balzac. Ở Miếng da lừa, người ta thấy rõ ràng hơn hết những dấu hiệu chuyển biến của nhà văn từ phong cách lãng mạn ban đầu sang bước trưởng thành, già dặn của một nhà hiện thực chủ nghĩa lớn. Yếu tố kỳ ảo còn giữ một vị trí quan trọng ở đây sẽ ít dùng đến trong những tác phẩm sau này. Nhưng đối với độc giả Pháp vào năm 1831, ngay trong Miếng da lừa cái căn bản nổi bật, vẫn là bức tranh toàn diện xã hội Pháp dưới thời Louis - Philippe được khái quát hóa với những tính cách điển hình của xã hội quý tộc - tư sản Pháp đương thời và do bao nhiêu chi tiết chân thực sinh động, sắc nhọn tạo nên. Từ quang cảnh sòng bạc ảm đạm bi đát ngay trong những trang đầu tiên đến quang cảnh gian hàng đồ cổ đồ sộ uy nghiêm, huyền ảo tiếp theo sau, từ không khí náo nhiệt, phức tạp và hỗn độn của phòng tiệc nhà Taillefer, hết sức huy hoàng mà cũng nhơ nhớp đến cực độ, với bao nhiêu khách ăn đủ hạng, mỗi người nói một thứ ngôn ngữ riêng thể hiện rõ rệt tính cách và cá tính của từng người, cho đến những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa Raphaël với các nhà bác học, các thầy thuốc, mỗi người tiêu biểu cho một xu hướng tư tưởng khác nhau, có khi đối lập, của nền khoa học và học thuật đương thời... tất cả là những chi tiết hết sức phong phú tạo nên cái môi trường xã hội hiện thực một cách sắc nét để hình thành và phát triển có quy luật tính cách của những nhân vật chủ yếu kể trên, đặc biệt là của Raphaël de Valentin. Cho nên không lấy làm lạ rằng tiểu thuyết Miếng da lừa là tác phẩm đầu tiên làm cho Balzac nổi tiếng bước lên địa vị một nhà văn lớn. Cũng không lạ rằng nó đã được các văn hào thế giới cỡ lớn hết sức hâm mộ kể từ Goëthe cho đến M. Gorki. Và cho tới nay, nó vẫn là một tác phẩm được rất nhiều độc giả khắp các nước hoan nghênh. TRỌNG ĐỨC *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. Cuộc đời Honoré de Balzac sinh ngày 20 tháng 5 năm 1799 ở Tours. Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828): Hai lần ứng cử vào Hàn lâm viện Pháp đều thất bại. Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao. Thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Sự nghiệp Giai đoạn 1829-1841 Sau tiểu thuyết lịch sử Les Chouans (Những người Chouans, 1829), Balzac cho ra đời liên tiếp nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong nhiều cảm hứng và chủ đề khác nhau: La Peau de chagrin (Miếng da lừa, 1831), Le Médecin de campagne (Người thầy thuốc nông thôn, 1833), La Recherche de l'absolu (Đi tìm tuyệt đối, 1833), Eugénie Grandet (1833), Le Père Goriot (Lão Goriot, 1834). Trong sự nghiệp sáng tác Balzac đã viết về nhiều đề tài và mỗi vấn đề đều có một số tác phẩm, tạo nên sự đa dạng trong tư tưởng cũng như trong nghệ thuật của ông. Balzac đã lần lượt đi qua nhiều phong cách trữ tình, châm biếm, triết lý và dần dần thiết lập một hệ thống cho các sáng tác của mình, bao gồm các chủ đề: nghiên cứu triết học (như các tác phẩm Miếng da lừa, Đi tìm tuyệt đối, Kiệt tác vô danh...), cảm hứng thần bí (như: Louis Lambert, Séraphita), nghiên cứu phong tục (trong đó ông thiết lập một hệ thống các đề tài mà ông gọi là các "cảnh đời" vì cuộc đời được ông ví như một tấn hài kịch lớn). Giai đoạn 1841-1850 Balzac đã bắt đầu công việc tập hợp lại các tác phẩm theo chủ đề và thống kê sắp đặt lại trong một hệ thống có tên chung là Tấn trò đời. Tư tưởng và tài năng nghệ thuật Balzac là nhà văn sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô".[1] Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Phê phán hay chất phủ định cao là khía cạnh được chú ý khi nói về tiểu thuyết Balzac: qua sự nghiệp sáng tác của Balzac cả một xã hội và con người dưới thể chế tư sản bị phơi bày với tất cả xấu xa tiêu cực, cũng từ đây những nỗi khổ đau, những tấn bi kịch xảy ra cho nhiều người, ở nhiều hoàn cảnh trong một xã hội mà đồng tiền là chân lý. Vì sở trường của Balzac là việc miêu tả cái xấu, cái ác trong xã hội tư sản một cách thấu đáo và sắc sảo qua hệ thống ngôn từ và phong cách thích hợp, và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra mối ác cảm của giới phê bình đương thời đối với Balzac. Nên những nhân vật gây ấn tượng mạnh nhất và thành công nhất của Balzac là những nhân vật phản diện, thường được tác giả cho xuất hiện nhiều lần trong nhiều tác phẩm để người đọc theo dõi chặng đường phát triển tính cách, số phận, những bước thăng trầm trong cuộc chen chân trong thế giới đồng tiền, âm mưu và tội ác (Rastignac xuất hiện trong ba quyển: Lão Goriot, Bước thăng trầm của kỹ nữ, Miếng da lừa, hay Lucien Chardon xuất hiện trong Vỡ mộng, Bước thăng trầm của kỹ nữ, và Vautrin trong Lão Goriot. Ngược lại, khía cạnh khẳng định cái đẹp trong các tác phẩm của Balzac bị cho là yếu: "Những nhân vật đức hạnh trong tiểu thuyết Balzac khá mờ nhạt..."[2]. hoặc: "Những nhân vật trong tiểu thuyết Balzac đều có cử chỉ tình cảm và phong cách thông tục. Khi muốn diễn tả sự thanh lịch quý phái, hào hiệp thì Balzac thường khoa trương một cách cầu kỳ: người phụ nữ đức hạnh và các cô thiếu nữ được khắc họa một cách ngượng nghịu..."[3]. Vd: Trong tác phẩm "Những quý bà cầu kỳ rởm", thì một số nhân vật đã bảo gia nhân mang ra "một thứ chất lỏng cần thiết cho cuộc sống" (nước) để mời khách. Tiểu thuyết của Balzac phản ánh hiện thực xã hội không mấy tốt đẹp, nhưng chính Balzac lại từng khẳng định:" Xã hội đã tự tách ra hoặc xích lại gần hơn với những quy tắc vĩnh cửu, với cái chân thực, cái đẹp, tiểu thuyết phải là một thế giới tốt lành hơn..." (Lời tựa Tấn trò đời) Như vậy, thế giới nghệ thuật của Tấn trò đời không đơn thuần là phản ánh cái thiện, cái ác trong xã hội, mà điều Balzac mong mỏi chính là cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Nghệ thuật của Balzac cũng là vấn đề đã từng gây tranh cãi, khi vẫn có ý kiến cho rằng "ông có một bút pháp thiếu thoải mái, thiếu sự thuần chất, nhưng vững vàng cụ thể đầy cá tính thể hiện một khí chất mạnh mẽ", "lối văn tối tăm hỗn độn" (confus), "sự thông tục" (vulgaire)... Đứng trước những biểu hiện đó nhiều nhà phê bình thời trước như: nhà lý luận lãng mạn Sainte Beuve không thích lối thể hiện (văn phong) của Balzac, nhà hiện thực duy mỹ - nhà văn Gustave Flaubert đã "cau mày" nhận xét "giá như Balzac biết viết văn". Và đến thế kỷ XX nhà văn André Gide cho rằng Balzac đã làm cho tác phẩm của ông trở nên cồng kềnh bằng "những yếu tố hỗn tạp, hoàn toàn không thể đồng hóa được bằng tiểu thuyết". Còn Marcel Proust lưỡng lự trước câu hỏi "nghệ thuật của Balzac có hay không?". Đồng thời André Gide và Marcel Proust cũng thừa nhận rằng "có những nhược điểm không thể tách rời khỏi những tác phẩm của ông". ... Mời các bạn đón đọc Miếng Da Lừa của tác giả Honore de Balzac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kira Kira (Cynthia Kadohata)
Cuốn sách có thể dễ dàng được đọc bởi một người 41 tuổi hay một đứa bé 14 tuổi. Nó thật xuất sắc và lay động lòng người. Đó là những lời mà báo chí Mỹ dành cho Kira - Kira, tiểu thuyết đoạt giải thưởng đóng góp xuất sắc cho Văn học thiếu nhi Mỹ 2005 của nhà văn Cynthia Kadohata. Kira - Kira mở đầu với cuộc sống tuổi thơ yên ả của hai chị em người Nhật sống cùng cha mẹ tại tiểu bang Iowa (Mỹ), nơi có những ruộng bắp trải dài ngút ngàn, nơi hằng đêm, khi hai chị em nằm chơi ngắm nhìn bầu trời đầy sao ở con đường vắng trước nhà. Và chị Lynn của Katie Takeshima đã dạy cô bé từ đầu tiên mà theo chị Lynn là tuyệt diệu nhất thế gian Kira - Kira. Trong tiếng Nhật, Kira - Kira nghĩa là sáng lấp lánh:...Tôi dùng từ Kira - Kira để miêu tả tất cả những thứ mà tôi thích: bầu trời xanh trong trẻo, lũ chó con, mèo con, lũ bướm, những tấm khăn giấy nhiều màu sắc. Và chị Lynn cũng nói với em gái mình: Màu xanh của bầu trời cũng là màu xanh đặc biệt nhất trên thế gian, bởi vì nó vừa xanh thẳm lại vừa trong vắt... biển cũng vậy và mắt con người cũng vậy. Trên cái nền chủ đạo là thứ ánh sáng lấp lánh ấy, bằng giọng văn trong sáng, chứa chan tình cảm, Kira - Kira dẫn người đọc vào chuỗi hồi ức thơ mộng, nghịch ngợm và buồn bã đến nao lòng của cô bé người Nhật Katie về tuổi thơ nghèo khó của gia đình, về người chị thông minh, xinh đẹp, giỏi giang nhưng vắn số. Do nghèo khó, mất việc làm, cha mẹ cô bé Katie dắt díu gia đình dời nhà từ bang Iowa đến sống tại một thị trấn nhỏ ở Georgia. Nơi đây, họ sống trong một căn hộ xập xệ, cũ kỹ. Khi người lớn bán sức lao động, cật lực làm việc ở các nhà máy hòng trang trải cuộc sống, thì trẻ con, với tâm hồn và cái nhìn ngây thơ, vẫn có cuộc sống thú vị của riêng chúng. Nhưng rồi một ngày, sự bạc bẽo của cuộc đời vén bức màn tuổi thơ lên: bệnh tật, nghèo đói, sự đàn áp về chính trị, tệ kỳ thị sắc tộc... Cô chị Lynn đã làm một phép tính: Chỉ có mỗi 31 người Nhật trong toàn thị trấn này, mà thị trấn này lại có hơn 4.000 người lận, và 4.000 chia cho 31 là... họ đông hơn mình quá trời. Từ phép tính đơn giản đó là tiếng kêu phản kháng thảng thốt của đứa bé: Em có để ý là bạn bè của ba mẹ chỉ toàn là người Nhật thôi không? Đó là vì đám người kia coi mình như không. Họ khinh mình - họ coi bọn mình giống như giẻ rách - hoặc như sâu như kiến gì đó. Nước Mỹ trong câu chuyện là nước Mỹ những năm 1950, đời sống của những gia đình người Nhật trên đất Mỹ hậu kỳ Đại chiến thế giới lần 2 được miêu tả rất trung thực: những xưởng làm việc với guồng máy công nghiệp xem con người chỉ là những công cụ sản xuất. Sự vùng dậy của những người công nhân như thành lập công đoàn, đấu tranh đòi giảm giờ làm... được khéo léo lồng vào câu chuyện với liều lượng vừa phải, qua cái nhìn của một cô bé đã giúp độc giả nhí dù thuộc quốc gia nào cũng đều có thể cảm và hiểu được sự bất công, phi lý đến lạnh lùng, tàn nhẫn của một xã hội ích kỷ. Sáng sớm 17/1/2005, nhà văn Cynthia Kadohata nhận được điện thoại từ Ủy ban trao giải thưởng Newbery (lấy theo tên của John Newbery, một người bán sách nổi tiếng ở Anh thế kỷ 18 - giải thưởng được trao tặng từ năm 1922 cho đến nay) thông báo cuốn Kira - Kira của cô được trao tặng giải thưởng Newbery. Trong bối cảnh xã hội nước Mỹ luôn có những xung đột về sắc tộc, sự chia cách giàu nghèo, nạn khủng bố, bạo động, tội ác... thì Kira - Kira chính là bài ca đẹp về niềm hy vọng, tin tưởng vào cuộc sống, tình yêu thương, quý trọng, san sẻ giúp đỡ lẫn nhau giữa những người trong cùng một gia đình và giữa con người với con người trong cùng nhau một xã hội. Và trên tất cả, thông điệp đằng sau Kira - Kira là: cuộc sống này rất phức tạp nhưng kỳ diệu biết bao. Bạn không nên đánh mất khả năng cảm nhận điều kỳ diệu đó dù là ở những điều nhỏ bé nhất trên đời. Tôi muốn những đứa trẻ biết rằng thế giới này tràn ngập niềm hy vọng và cái đẹp, Cynthia Kadohata đã nói như thế. Tìm mua: Kira Kira TiKi Lazada Shopee Sau khi được dịch và phát hành thành công ở Nhật, Trung Quốc, Đức, Italy, Phần Lan, Đức, Serbia và Montenegro, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ. Tháng 12 này, quyển Kira - Kira, vừa đến Việt Nam với tên gốc là Kira - Kira do dịch giả Lưu Anh chuyển ngữ, NXB Trẻ phát hành. Nhìn lại dòng văn học thiếu nhi ở Việt Nam và trên thế giới, có một điều thú vị phải thừa nhận: một tác phẩm văn học thiếu nhi thành công và nổi tiếng không giới hạn độ tuổi độc giả. Bạn đọc Việt Nam thuộc mọi lứa tuổi từng say mê và háo hức thưởng thức những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi (hay nói về thiếu nhi) của tác giả nước ngoài, điển hình như: Hoàng tử bé của St.Exuypéry, truyện cổ Andersen, truyện cổ Grim và gần đây là loạt truyện Harry Potter của J.K. Rowling, Nhật ký Mã Yến của cô bé Trung Quốc Mã Yến... Vì thế, sự xuất hiện của Kira - Kira tại Việt Nam hứa hẹn sẽ gây ấn tượng mạnh với độc giả Việt và góp phần làm phong phú những góc nhìn về dòng văn học thiếu nhi trong nước. Đọc Kira - Kira lại nhớ đến Mắt biếc - tác phẩm đem lại giải Nobel Văn học 1992 cho nhà văn Toni Morisson, Vừa nhắm vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc Thuần, Harry Potter của J.K. Rowling. Tất cả các cuốn sách đó đều viết về nội tâm cũng như thế giới của những đứa trẻ, về cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác, cái bất công trong cuộc sống. Điểm độc đáo của Kira - Kira còn là sự kết hợp hài hòa giữa chất phương Đông và phương Tây trong câu truyện. Nét hóm hỉnh, tinh nghịch, hài hước tình huống kiểu Mỹ lẫn cái nhẹ nhàng, thâm trầm, sâu kín của Nhật; sự lãng mạn, mơ mộng đứng bên cạnh hiện thực nghiệt ngã; niềm hạnh phúc dâng tràn bên cạnh sự chia ly, mất mát; cái ngô nghê, trong trẻo trẻ thơ bên cạnh sự trưởng thành, già dặn của những tâm hồn bé con đang dần lớn lên theo từng ngày. Tôi giấu những giọt nước mắt của mình không cho ba mẹ thấy. Nhưng mặt biển bắt đầu làm tôi thấy hạnh phúc trở lại. Ở nơi đây từ mặt biển - đặc biệt là từ mặt biển - tôi có thể nghe thấy giọng nói của chị mình trong tiếng những làn sóng vỗ: Kira - Kira! Kira - Kira. Cái kết thúc đẹp này chẳng khác nào một khúc đồng dao bất tận lấp lánh niềm tin trẻ thơ. ***CHỊ TÔI, LYNN, đã dạy cho tôi nói cái từ đầu tiên: kira-kira. Tôi đã phát âm nó thành ra ka a-a, nhưng chị chẳng hiểu nổi tôi muốn nói gì. Trong tiếng Nhật, kira-kira có nghĩa là “sáng lấp lánh”. Lynn kể là khi còn nhỏ, chị thường dắt tôi đi trên con đường trống vắng của bọn tôi vào ban đêm, rồi hai đứa tôi nằm ngửa xuống, nhìn lên những ngôi sao trên trời và chị cứ nhắc, “Katie, nói kira-kira, kira-kira xem nào.” Tôi rất thích từ này! Khi tôi lớn thêm, tôi dùng từ kira-kira để miêu tả tất cả những gì mà tôi thích: bầu trời trong trẻo, lũ chó con, mèo con, lũ bướm, những tấm khăn giấy nhiều màu sắc. Mẹ bảo chúng tôi đã lạm dụng từ đó nhiều quá, người ta không thể gọi một tấm khăn giấy là kira-kira được. Mẹ rất rầu về việc hai đứa tôi không giống người Nhật một chút nào và thề là sẽ đưa chúng tôi về Nhật một ngày nào đó. Tôi không quan tâm mẹ sẽ đưa chúng tôi tới đâu, một khi tôi có chị Lynn bên cạnh. Tôi sinh ra ở Iowa năm 1951. Tôi biết khá nhiều chuyện về mình hồi nhỏ, bởi vì chị Lynn có ghi nhật kí. Bây giờ tôi vẫn giữ cuốn nhật kí đó trong ngăn kéo cạnh giường. Tôi rất thích cái việc những kí ức của chị vừa giống y hệt tôi, nhưng cũng lại vừa khác. Ví dụ như một trong những kỉ niệm đầu tiên của tôi là cái ngày chị Lynn cứu tôi. Tôi gần lên năm, và chị gần lên chín. Bọn tôi đang chơi trên con đường vắng gần nhà. Những cánh đồng bắp cao tít trải dài ngút tầm mắt, nhìn đâu cũng thấy bắp. Một con chó lông xám, dơ dáy từ cánh đồng gần bọn tôi chạy ra, rồi lại chạy vào. Lynn vốn yêu thích những con vật. Và mái tóc dài đen mượt của chị cứ mất hút sau đám lá xanh sau khi chị đuổi theo con chó. Bầu trời mùa hè xanh biếc và trong vắt. Tôi thoáng thấy sợ khi Lynn biến mất vào trong mấy bụi bắp. Lynn luôn ở bên cạnh tôi mỗi khi chị không đi học. Cả ba mẹ tôi đều đi làm. Trên lý thuyết thì tôi được gởi suốt ngày ở nhà một người phụ nữ ở cuối đường, nhưng trên thực tế thì Lynn mới là người trông nom tôi. Sau khi Lynn chạy vào trong cánh đồng, tôi chẳng còn thấy gì khác ngoài bắp.Tôi kêu to “Lynnie!.” Bọn tôi chơi không xa nhà lắm, nhưng tôi cảm thấy sợ. Tôi khóc òa lên.Rồi thì Lynn bỗng ló ra sau lưng tôi và “Hù!” một cái, và tôi lại khóc to dữ hơn nữa. Chị bật cười, rồi ôm lấy tôi và nói “Em là đứa em dễ thương nhất thế giới!.” Tôi rất thích nghe chị nói như vậy, và tôi nín khóc. Con chó chạy đi mất. Bọn tôi ngả lưng xuống nằm ngay giữa mặt đường, nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Có những ngày mà chẳng có ai chạy xe qua con đường nhỏ của chúng tôi. Bọn tôi có thể nằm ngửa suốt cả ngày mà chẳng hề bị xe cán.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kira Kira PDF của tác giả Cynthia Kadohata nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kino (Haruki Murakami)
Truyện ngắn Kino này, cùng với Scheherazade, được in trong tuyển tập truyện ngắn của Haruki Murakami có nhan đề 女のいない男たち (Những người đàn ông không có đàn bà), xuất bản tại Nhật tháng 4 năm 2014. Nguyễn Huy Hoàng dịch từ bản tiếng Anh (do Philip Gabriel dịch từ nguyên tác tiếng Nhật), đăng trên The New Yorker, Feb 23, 2015 issue (số kỷ niệm 90 năm phát hành tạp chí, 1925-2015).Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Haruki Murakami":Những Người Đàn Ông Không Có Đàn BàTôi Nói Gì Khi Nói Về Chạy Bộ1Q84 - Trọn Bộ 3 TậpKinoNgày Đẹp Trời Để Xem KangarooSau Cơn Động ĐấtTazaki Tsukuru Không Màu Và Những Năm Tháng Hành HươngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kino PDF của tác giả Haruki Murakami nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kim Các Tự ( Kinkakuji ) - Yukio (Mishima)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kim Các Tự ( Kinkakuji ) - Yukio PDF của tác giả Mishima nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kiêu Hãnh Và Thành Kiến (Jane Austen)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kiêu Hãnh Và Thành Kiến PDF của tác giả Jane Austen nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.