Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Miếng Da Lừa - Honore de Balzac

Tiểu thuyết Miếng da lừa (1831) là một trong những tác phẩm xuất sắc đầu tiên của Honoré de Balzac, tiếp sau cuốn tiểu thuyết lịch sử Những người Suăng (1829), chấm dứt giai đoạn những tiểu thuyết ly kỳ, kỳ quặc mà sau này tác giả tự mình gọi là thứ "Văn chương con lợn", và mở đầu bước phát triển mới trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn sau mười năm tìm tòi, mò mẫm, gian khổ, lâu dài. Từ nay Balzac đi hẳn vào con đường lớn của chủ nghĩa hiện thực mà Miếng da lừa là một trong những mốc đầu tiên. Khi viết Miếng da lừa, Balzac chưa nghĩ tới việc xây dựng cả pho Tấn trò đời vĩ đại của ông, nhưng ông đã có ý kiến phải đi sát hiện thực xã hội đương thời, mô tả toàn diện xã hội và tính quy luật trong sự phát triển của nó, nâng sáng tác của ông lên trình độ khái quát hóa rộng rãi. Cũng vì vậy, Miếng da lừa nghiễm nhiên trở thành một bước mở đầu, mà đã già dặn, cho cả công trình lớn lao sáng tạo pho Tấn trò đời tương lai. Tiểu thuyết Miếng da lừa mà Balzac sẽ xếp vào phần Khảo cứu triết học của Tấn trò đời, đã đặt ra cả một loạt vấn đề triết lý và xã hội, nêu lên cả một loạt chủ đề mà sau này nhà văn sẽ đề cập tới cụ thể và đầy đủ hơn trong nhiều tác phẩm khác của Tấn trò đời. o O o Tóm tắt nội dung tiểu thuyết Miếng da lừa như sau: Raphaël de Valentin là một thanh niên quý tộc phá sản, có tài năng và chí hướng. Ban đầu anh cam chịu sống cảnh nghèo nàn trong một gian gác xép để cần cù học tập nghiên cứu và viết sách. Nhưng anh lại khao khát tình yêu và mơ ước một cảnh yêu đương trong nhung lụa, cho nên anh không quan tâm đến mối tình của Pauline, con gái bà chủ nhà nơi anh trọ, mặc dầu họ ân cần chăm sóc anh rất chu đáo. Rồi một bữa, không kiên trì được, anh nghe theo bạn là de Rastignac từ bỏ cuộc đời lao động nghèo khổ để chạy theo cuộc sống phóng đãng, phù hoa của xã hội thượng lưu. Anh yêu say mê nữ bá tước Foedora, người đàn bà thời thượng có sắc đẹp và tiền của nhưng lại vô tình, thiếu thốn trái tim để hưởng ứng mối tình chân thành và nồng nhiệt của Raphaël. Cuối cùng anh bị Foedora cự tuyệt và anh lăn mình vào những cuộc hành lạc cho tới khi hết nhẵn tiền, anh định ra sông tự tử. Nhưng vừa lúc đó, Raphaël được một lão già bán đồ cổ cho một miếng da lừa có phép màu làm thỏa mãn mọi ước nguyện của anh, nhưng mỗi lần được toại nguyện thì miếng da lừa co lại và tuổi đời anh lại giảm đi. Nhờ tấm bùa thiêng, Raphaël trở nên triệu phú và khi gặp lại Pauline cũng trở nên giàu có, anh định kết hôn với nàng. Song, được toại nguyện thì miếng da lừa cứ co lại mãi mà bản thân anh thì mang bệnh nặng. Lo sợ trước cái chết và không làm sao phá được phép thiêng của tấm bùa, anh định hoàn toàn lánh xa xã hội, sống một cuộc đời như cây cỏ, không ước vọng, nhưng uổng công. Cuối cùng, bệnh càng ngày càng trầm trọng, trong một cơn điên, anh ước mơ ân ái với Pauline và chết trong tay nàng. o O o Balzac bắt đầu viết Miếng da lừa vào mùa thu năm 1830, nghĩa là khi cuộc Cách mạng tháng Bảy vừa nổ ra, đánh gục hẳn giai cấp quý tộc ngóc đầu dậy dưới thời Trùng hưng (1815 - 1830), và đưa tầng lớp tư sản tài chính, ngân hàng Pháp lên nắm chính quyền. Nền Quân chủ tháng Bảy được thiết lập (1830 - 1848) thực chất là "triều đại của bọn chủ nhà băng" với khẩu hiệu nổi tiếng mà một viên thủ tướng đương thời là Ghozau đã vạch ra: "Hãy làm giàu". Làm giàu, chạy theo đồng tiền, tôn thờ con Bê vàng, đó là lý tưởng duy nhất ngự trị xã hội đương thời, nó chà đạp lên tất cả mọi thứ, từ danh dự, đạo đức cho đến tư tưởng, tình cảm... và cả đời sống con người nói chung. Xuất hiện trong hoàn cảnh xã hội đó, tiểu thuyết của Balzac, cả pho Tấn trò đời của ông nói lên cái số phận bi thảm của con người trong xã hội đương thời, xã hội tư sản ở đó đồng tiền thống trị, ở đó diễn tiến "cuộc đấu tranh khốc liệt của tất thảy chống lại tất thảy", ở đó con người bị biến chất, con người trở thành thù địch với con người. Tiểu thuyết Miếng da lừa chính là tác phẩm đầu tiên trong đó, Honoré de Balzac bày tỏ thái độ phủ nhận của ông, đối với cái thực tại tư sản đó, đối với giai cấp tư sản, cụ thể là bọn tư sản tài chính, ngân hàng vừa nhảy lên nắm chính quyền. Nhân vật trung tâm số một của Miếng da lừa là Raphaël de Valentin. Anh xuất thân từ một gia đình quý tộc bị phá sản, và là một thanh niên có tài năng, có thiện ý và mang một lý tưởng cao cả. Anh say mê khoa học, nghệ thuật và có hoài bão sáng tạo những tác phẩm phục vụ nhân loại. Để thực hiện ý đồ đó, Raphaël sẵn sàng cam chịu một cuộc đời nghèo khổ, thiếu thốn, hy sinh cả những thứ tối thiểu cẩn thiết. Và náu mình trong một gian gác xép trơ trụi, anh mê mải viết tác phẩm Luận về ý chí, trong đó, với tuổi trẻ nồng nhiệt, anh tỏ lòng tin tưởng ở con người. Ở quyền năng của lý chí và ý chí. Nhưng rồi, chẳng bao lâu, Raphaël cay đắng nhận thấy sự lãnh đạm ghê gớm, tàn nhẫn của xã hội đối với công việc của anh cũng như đối với bản thân anh. Anh mau chóng nhận thức được rằng trong xã hội quý tộc - tư sản, trí tuệ, nghị lực tài năng chẳng đáng giá là bao, những thứ đó dường như chẳng cần thiết vì không lợi ích cho ai, chẳng ai trục lợi được tác phẩm của anh cho nên chẳng ai quan tâm đến anh. Sống giữa kinh thành Paris náo nhiệt mà anh cảm thấy trơ trọi như sống giữa bãi sa mạc kinh khủng nhất, nghĩa là giữa sự lạnh nhạt của mọi người! Raphaël chỉ gặp một ít người tốt có thiện cảm với anh trong đám những người nghèo như anh, nhưng họ lại chẳng giúp đỡ anh nhiều. Và, thế là bao nhiêu hy vọng và mơ tưởng tan vỡ ở người thanh niên ban đầu có thiện chí đó. Số phận của Raphaël cũng như của bao nhiêu thanh niên khác như anh, quả thật là bi đát: họ hoàn toàn không có khả năng thi thố tài năng trong cái xã hội đầy những tham lam, ích kỷ, tính toán quyền lợi, tiền bạc. Quả thật trong cái xã hội đó, con đường nghiên cứu khoa học, nghệ thuật không vụ lợi vì một mục đích cao cả, là một con đường đầy gian nan, trở ngại. Thế mà, chàng thanh niên Raphaël lại không có đầy đủ nghị lực và quyết tâm để theo đuổi đến cùng chí hướng của mình. Chẳng bao lâu, anh chán ngán với cuộc sống nghèo nàn, trơ trọi trên gác xép của anh, anh muốn tìm một con đường thành công dễ dàng và một cuộc sống đầy đủ hưởng lạc trong xã hội thượng lưu. Và một bữa, gặp tay bạn cũ là de Rastignac rủ rê lôi kéo, anh từ bỏ mọi ước vọng cao cả để lăn mình vào cuộc sống ăn chơi phóng đãng; anh tìm cách len lỏi vào xã hội thượng lưu hào nhoáng; chạy theo những thú vui trụy lạc: anh say mê cô gái Foedora kiều diễm nhưng phù phiếm, đỏm dáng mà vị kỷ, không tâm hồn, thiếu một trái tim. Nếu giữa Raphaël de Valentin và xã hội đương thời có mâu thuẫn tạo nên tấn bi kịch về số phận của người thanh niên thì trái lại, những nhân vật như de Rastignac, Foedora hay như gã tư sản Taillefer... lại chính là hiện thân của cái xã hội đó... Thật ra, de Rastignac cũng là một thanh niên quý tộc nghèo như Raphaël, và trước kia, khi còn là sinh viên mới ở tỉnh nhỏ lên Paris trọ học, anh ta cũng từng mang trong đầu một lý tưởng cao cả và có một tâm hồn trong trắng thanh cao[1]. Nhưng rồi, do ảnh hưởng của xã hội quý tộc tư sản Paris, hắn đã trở thành một công tử Paris ăn chơi sành sỏi mất hết tư cách đạo đức với "chủ nghĩa phóng đãng" mà hắn muốn truyền thụ cho Raphaël. Rastignac thật sự là con đẻ của xã hội tư sản, là "nhân vật anh hùng" của nó. Hắn trắng trợn, tính toán, mưu thành công và địa vị trong xã hội bằng cái giá khá đắt là sự sa đọa hoàn toàn về đạo đức và tâm hồn. Ở một cuốn tiểu thuyết khác về sau của Balzac[2], hắn đã leo lên tới ghế thượng thư trong chính quyền tư sản và qua cả pho Tấn trò đời mà hắn là một nhân vật trung tâm và xuất hiện nhiều lần, trong hình tượng de Rastignac, Balzac đã khái quát rõ ràng và đầy đủ cái chủ nghĩa vị kỷ và hãnh tiến tư sản. Đi đôi với Rastignac là nữ bá tước Foedora, người đàn bà thời thượng của xã hội thượng lưu quý tộc - tư sản Paris. Nàng có sắc đẹp và có tiền của, nhưng lại không có một trái tim. Ở con người kiều diễm mà vô tình đó không thể có những xúc động hồn nhiên, cao thượng khả dĩ đáp lại mối tình nồng thắm chân thành của Raphaël. Nàng phối hợp trong mình nàng cái lịch sự phù hoa của kẻ phong lưu quý tộc và cái tính toán vị kỷ của tay doanh thương tư sản, cho nên Balzac nói rất đúng: "Foedora, chính là cái xã hội này". Đến như lão tư sản Taillefer, tay chủ nhà băng giàu sụ, thì rõ ràng hắn là hiện thân số một của trật tự đương thời. Tất cả mọi quyền hành, thế lực trong xã hội đó đều tập trung trong tay bọn chủ nhà băng, bọn người có vàng như Taillefer. Xưa kia bọn chúng làm giàu bằng tội ác và ngày nay bọn chúng là chủ nhân thật sự của xã hội, bọn chúng đứng trên cả pháp luật và quyền lực quốc gia. Hãy nghe Taillefer trắng trợn tuyên bố trong một bữa tiệc đế vương mà hẳn là chủ nhân: "Thưa các ngài, xin nâng cốc chúc cho quyền lực của vàng. Ông de Valentin trở thành sáu lần triệu phú là nắm được quyền hành. Từ nay, đối với ông lời ghi trên đầu Pháp điển: "Mọi người Pháp đều bình đẳng trước pháp luật" là một lời nói láo. Ông ấy sẽ không tuân theo pháp luật, pháp luật sẽ tuân theo ông ấy. Đối với bậc triệu phú thì không có đoạn đầu đài không có đao phủ". Thật không còn lời nói nào điển hình hơn để khái quát bản chất của xã hội tư sản do đồng tiền ngự trị! Cái xã hội quý tộc tư sản đó còn được thể hiện ở một khía cạnh khác trong hình tượng đám người thượng lưu sống nhàn hạ bên suối nước nóng, nơi mà Raphaël tới để dưỡng bệnh. Cuộc xung đột giữa Raphaël và bọn người đó nói lên một cách sắc nhọn cái luật thú rừng man rợ chi phối mọi quan hệ giữa người với người, Balzac viết: "Cái xã hội hào hoa trục xuất ra khỏi nó những kẻ đau khổ, như một người tráng kiện tống ra khỏi thân thể mình một nguyên tố bệnh tật. Xã hội thượng lưu kinh hãi những đau thương và bất hạnh, nó sợ chúng như bệnh lây, nó không bao giờ do dự giữa chúng và thói hư, thói hư là một xa xỉ phẩm..., nó không bao giờ buông tha kẻ đấu sĩ bị ngã gục: nó sống trên tiền bạc và sự nhạo báng... Yếu thì chết! Đó là lời nguyền của cái thứ giai cấp kỵ sĩ được thiết lập ở hết thảy các dân tộc trên quả đất vì ở đâu đâu kẻ giàu có cũng ngoi lên và câu châm ngôn đó được ghi trong đáy những quả tim do giàu có nhào nặn, hay do giai cấp quý tộc nuôi dưỡng... Trung thành với bản hiến chương của chủ nghĩa vị kỷ đó, xã hội rất mực khắc nghiệt đối với những kẻ nghèo khổ dám táo bạo đến làm ngăn trở những hội hè của nó, làm phiền nhiễu những lạc thú của nó. Kẻ nào đau khổ về thể xác hay tâm hồn, không tiền của hay quyền hành là một tên cùng đinh...". o O o Đối lập với bọn thượng lưu ích kỷ và đồi bại của xã hội quý tộc - tư sản, Balzac, với cảm tình rõ rệt, vẽ lên hình ảnh trong sáng, thanh cao của những người nghèo khổ, những người yếu thế như mẹ con Pauline, như người lão bộc Jonathas, giáo sư Porriquet hay như những người nông dân ở miền suối nước. Không phải ngẫu nhiên mà những con người hiền lành, chất phác, đôn hậu lại có thiện cảm với Raphaël de Valentin và giúp đỡ anh một cách vô tư. Nhưng trước mối tham vọng cá nhân vô hạn của Raphaël, sự giúp đỡ có hạn của họ trở thành bất lực cả khi anh còn sống nghèo khổ trong gian gác xép, cho tới lúc anh đã trở thành giàu có nhưng lại mang bệnh tật hiểm nghèo. Nổi bật lên trên đám người nghèo mà có tấm lòng vàng đó là hình ảnh cô gái Pauline ngây thơ, chân thật, khiêm tốn, cần cù, và cũng trung hậu, nồng thắm. Pauline, tương phản với Foedora, là tượng trưng cho mối tình chân chính thắm thiết và lòng xả kỷ cao quý. Nhưng trong xã hội tư sản đồi bại, hình tượng nàng mang tính chất một ước mơ lý tưởng đối với Raphaël, và trên thực tế, sự giúp đỡ hy sinh của nàng cho Raphaël đã không có hiệu quả cả khi nàng còn nghèo khổ lẫn khi nàng đã trở thành giàu có. Không phải không có lý do mà ở phần kết thúc tác phẩm, Balzac trình bày hình tượng Pauline như một chiếc bóng, một nàng tiên, một thiên thần khi ẩn, khi hiện, vô hình, trái lại, Foedora kia, Foedora phù hoa và tính toán, vị kỷ và vô tình, mới là sự thật trăm phần trăm, cái sự thật sờ sờ mà người ta bắt gặp ở bất cứ nơi nào trong xã hội đương thời. o O o Raphaël de Valentin với lòng đầy tham vọng nhưng tinh thần yếu đuối không đủ can đảm kiên trì một cuộc sống trong sạch nhưng nghèo nàn thiếu thốn. Cố nhiên anh không đáp lại mối tình ngây thơ, chân thật, thắm thiết của một nàng Pauline nghèo khổ. Bị cám dỗ bởi lối sống phóng đãng của Rastignac, và khát khao chia sẻ với Foedora mối tình trong nhung lụa, anh hăm hở lăn mình vào xã hội thượng lưu để rồi hứng lấy biết bao nỗi đau khổ, đắng cay mà một kẻ nghèo như anh tất nhiên phải chịu đựng, kể từ việc thiếu vài hào đi xe để tới nhà tình nhân cho đến việc xoay tiền mua vé lô đi xem hát với người yêu. Rút cục, khi hết đường xoay tiền mà tình yêu thì bị cự tuyệt, anh quyết định trẫm mình để kết liễu đời. Nhưng ở đây, Honoré de Balzac mượn một yếu tố quái dị để nhấn mạnh và làm nổi bật hơn nữa chủ đề tiểu thuyết của ông: đó là sự xuất hiện của lão già bán đồ cổ và miếng da lừa thần bí. Cần chú ý rằng việc sử dụng yếu tố quái dị, thần bí ở đây không hề làm giảm sút tính hiện thực của tác phẩm, vì tựu trung cái đó không phải là cái quyết định sự phát triển của chủ đề, mà nó cũng không tách rời nhân vật chính ra khỏi hoàn cảnh xã hội thực tại với tính quy luật trong sự phát triển của nó. Xét cho kỹ, những gì xảy ra cho Raphaël sau khi anh thăm cửa hàng đồ cổ và chiếm hữu miếng da lừa vẫn có thể giải thích được một cách rất tự nhiên: từ việc anh được các bạn giới thiệu để tham dự bữa tiệc đế vương của tay tư bản Taillefer đến việc anh được hưởng một món gia tài kếch xù của người họ ngoại, cho tới cái chết của anh vì bệnh lao, hậu quả của cuộc đời trác táng theo sau một thời gian sống thiếu thốn kham khổ. Trái lại, yếu tố kỳ ảo ở đây chính là một phương tiện nghệ thuật được nhà văn xử lý một cách tài tình để phóng đại, để khái quát hóa, chỉ rõ đầy đủ và sâu xa hơn bản chất của xã hội, của cuộc sống đương thời, do đó mà cuốn tiểu thuyết càng có sức thuyết phục mạnh hơn. Lão già bán đồ cổ tập trung trong tay hắn bao nhiêu của báu thế gian là tượng trưng hùng hồn cho cái thế lực vạn năng, cái quyền hành phi thường của đồng tiền, còn miếng da lừa là hình ảnh cụ thể, là sự khái quát hóa triết lý cái số phận bi thảm của con người bị hủy hoại, phá phách, bị xén cắt về nhân phẩm, tư cách cũng như về thể xác, tuổi đời trong cuộc sống cá nhân vị kỷ chạy theo đồng tiền, chạy theo làm giàu và hưởng lạc nó là lý tưởng duy nhất của xã hội tư sản. Điều đáng chú ý là tính cách nhân vật Raphaël de Valentin vẫn tiếp tục phát triển một cách logic, theo quy luật, sau khi trở nên giàu có cũng như trước kia. Con người đầy tham vọng cá nhân đó sau khi tiếp xúc với Rastignac, Foedora, với xã hội thượng lưu nói chung, không tránh khỏi tiêm nhiễm phải cái nọc độc, bệnh hủi của chủ nghĩa vị kỷ tư sản. Và giàu có không làm cho anh sống cởi mở, khoáng đạt, rộng rãi hơn, trái lại, với tính vị kỷ làm khô héo, cằn cỗi tâm hồn con người, anh lại càng co mình thêm vào cái vỏ cứng của chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa vị kỷ lên đến tuyệt đỉnh khi Raphaël trở nên giàu có mà lại biết mình mang bệnh tật hiểm nghèo không tránh khỏi cái chết. Anh chỉ còn biết bằng bất cứ giá nào cứu sống cái tính mạng của anh, đến mức anh chỉ còn nhìn thấy duy nhất bản thân mình, và tự coi mình, là tất cả vũ trụ: "Đối với anh không còn vũ trụ nữa, cả vũ trụ nằm trong con người anh". Và Raphaël, trên thực tế, đã chết về tâm hồn từ trước khi anh chết về thể xác! o O o Tiểu thuyết Miếng da lừa cùng với một loạt tác phẩm khác xuất hiện khoảng những năm 1830 - 1831 thật sự đã đánh dấu một giai đoạn phát triển mới trong phương pháp sáng tác của Honoré de Balzac. Ở Miếng da lừa, người ta thấy rõ ràng hơn hết những dấu hiệu chuyển biến của nhà văn từ phong cách lãng mạn ban đầu sang bước trưởng thành, già dặn của một nhà hiện thực chủ nghĩa lớn. Yếu tố kỳ ảo còn giữ một vị trí quan trọng ở đây sẽ ít dùng đến trong những tác phẩm sau này. Nhưng đối với độc giả Pháp vào năm 1831, ngay trong Miếng da lừa cái căn bản nổi bật, vẫn là bức tranh toàn diện xã hội Pháp dưới thời Louis - Philippe được khái quát hóa với những tính cách điển hình của xã hội quý tộc - tư sản Pháp đương thời và do bao nhiêu chi tiết chân thực sinh động, sắc nhọn tạo nên. Từ quang cảnh sòng bạc ảm đạm bi đát ngay trong những trang đầu tiên đến quang cảnh gian hàng đồ cổ đồ sộ uy nghiêm, huyền ảo tiếp theo sau, từ không khí náo nhiệt, phức tạp và hỗn độn của phòng tiệc nhà Taillefer, hết sức huy hoàng mà cũng nhơ nhớp đến cực độ, với bao nhiêu khách ăn đủ hạng, mỗi người nói một thứ ngôn ngữ riêng thể hiện rõ rệt tính cách và cá tính của từng người, cho đến những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa Raphaël với các nhà bác học, các thầy thuốc, mỗi người tiêu biểu cho một xu hướng tư tưởng khác nhau, có khi đối lập, của nền khoa học và học thuật đương thời... tất cả là những chi tiết hết sức phong phú tạo nên cái môi trường xã hội hiện thực một cách sắc nét để hình thành và phát triển có quy luật tính cách của những nhân vật chủ yếu kể trên, đặc biệt là của Raphaël de Valentin. Cho nên không lấy làm lạ rằng tiểu thuyết Miếng da lừa là tác phẩm đầu tiên làm cho Balzac nổi tiếng bước lên địa vị một nhà văn lớn. Cũng không lạ rằng nó đã được các văn hào thế giới cỡ lớn hết sức hâm mộ kể từ Goëthe cho đến M. Gorki. Và cho tới nay, nó vẫn là một tác phẩm được rất nhiều độc giả khắp các nước hoan nghênh. TRỌNG ĐỨC *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. Cuộc đời Honoré de Balzac sinh ngày 20 tháng 5 năm 1799 ở Tours. Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828): Hai lần ứng cử vào Hàn lâm viện Pháp đều thất bại. Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao. Thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Sự nghiệp Giai đoạn 1829-1841 Sau tiểu thuyết lịch sử Les Chouans (Những người Chouans, 1829), Balzac cho ra đời liên tiếp nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong nhiều cảm hứng và chủ đề khác nhau: La Peau de chagrin (Miếng da lừa, 1831), Le Médecin de campagne (Người thầy thuốc nông thôn, 1833), La Recherche de l'absolu (Đi tìm tuyệt đối, 1833), Eugénie Grandet (1833), Le Père Goriot (Lão Goriot, 1834). Trong sự nghiệp sáng tác Balzac đã viết về nhiều đề tài và mỗi vấn đề đều có một số tác phẩm, tạo nên sự đa dạng trong tư tưởng cũng như trong nghệ thuật của ông. Balzac đã lần lượt đi qua nhiều phong cách trữ tình, châm biếm, triết lý và dần dần thiết lập một hệ thống cho các sáng tác của mình, bao gồm các chủ đề: nghiên cứu triết học (như các tác phẩm Miếng da lừa, Đi tìm tuyệt đối, Kiệt tác vô danh...), cảm hứng thần bí (như: Louis Lambert, Séraphita), nghiên cứu phong tục (trong đó ông thiết lập một hệ thống các đề tài mà ông gọi là các "cảnh đời" vì cuộc đời được ông ví như một tấn hài kịch lớn). Giai đoạn 1841-1850 Balzac đã bắt đầu công việc tập hợp lại các tác phẩm theo chủ đề và thống kê sắp đặt lại trong một hệ thống có tên chung là Tấn trò đời. Tư tưởng và tài năng nghệ thuật Balzac là nhà văn sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô".[1] Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Phê phán hay chất phủ định cao là khía cạnh được chú ý khi nói về tiểu thuyết Balzac: qua sự nghiệp sáng tác của Balzac cả một xã hội và con người dưới thể chế tư sản bị phơi bày với tất cả xấu xa tiêu cực, cũng từ đây những nỗi khổ đau, những tấn bi kịch xảy ra cho nhiều người, ở nhiều hoàn cảnh trong một xã hội mà đồng tiền là chân lý. Vì sở trường của Balzac là việc miêu tả cái xấu, cái ác trong xã hội tư sản một cách thấu đáo và sắc sảo qua hệ thống ngôn từ và phong cách thích hợp, và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra mối ác cảm của giới phê bình đương thời đối với Balzac. Nên những nhân vật gây ấn tượng mạnh nhất và thành công nhất của Balzac là những nhân vật phản diện, thường được tác giả cho xuất hiện nhiều lần trong nhiều tác phẩm để người đọc theo dõi chặng đường phát triển tính cách, số phận, những bước thăng trầm trong cuộc chen chân trong thế giới đồng tiền, âm mưu và tội ác (Rastignac xuất hiện trong ba quyển: Lão Goriot, Bước thăng trầm của kỹ nữ, Miếng da lừa, hay Lucien Chardon xuất hiện trong Vỡ mộng, Bước thăng trầm của kỹ nữ, và Vautrin trong Lão Goriot. Ngược lại, khía cạnh khẳng định cái đẹp trong các tác phẩm của Balzac bị cho là yếu: "Những nhân vật đức hạnh trong tiểu thuyết Balzac khá mờ nhạt..."[2]. hoặc: "Những nhân vật trong tiểu thuyết Balzac đều có cử chỉ tình cảm và phong cách thông tục. Khi muốn diễn tả sự thanh lịch quý phái, hào hiệp thì Balzac thường khoa trương một cách cầu kỳ: người phụ nữ đức hạnh và các cô thiếu nữ được khắc họa một cách ngượng nghịu..."[3]. Vd: Trong tác phẩm "Những quý bà cầu kỳ rởm", thì một số nhân vật đã bảo gia nhân mang ra "một thứ chất lỏng cần thiết cho cuộc sống" (nước) để mời khách. Tiểu thuyết của Balzac phản ánh hiện thực xã hội không mấy tốt đẹp, nhưng chính Balzac lại từng khẳng định:" Xã hội đã tự tách ra hoặc xích lại gần hơn với những quy tắc vĩnh cửu, với cái chân thực, cái đẹp, tiểu thuyết phải là một thế giới tốt lành hơn..." (Lời tựa Tấn trò đời) Như vậy, thế giới nghệ thuật của Tấn trò đời không đơn thuần là phản ánh cái thiện, cái ác trong xã hội, mà điều Balzac mong mỏi chính là cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Nghệ thuật của Balzac cũng là vấn đề đã từng gây tranh cãi, khi vẫn có ý kiến cho rằng "ông có một bút pháp thiếu thoải mái, thiếu sự thuần chất, nhưng vững vàng cụ thể đầy cá tính thể hiện một khí chất mạnh mẽ", "lối văn tối tăm hỗn độn" (confus), "sự thông tục" (vulgaire)... Đứng trước những biểu hiện đó nhiều nhà phê bình thời trước như: nhà lý luận lãng mạn Sainte Beuve không thích lối thể hiện (văn phong) của Balzac, nhà hiện thực duy mỹ - nhà văn Gustave Flaubert đã "cau mày" nhận xét "giá như Balzac biết viết văn". Và đến thế kỷ XX nhà văn André Gide cho rằng Balzac đã làm cho tác phẩm của ông trở nên cồng kềnh bằng "những yếu tố hỗn tạp, hoàn toàn không thể đồng hóa được bằng tiểu thuyết". Còn Marcel Proust lưỡng lự trước câu hỏi "nghệ thuật của Balzac có hay không?". Đồng thời André Gide và Marcel Proust cũng thừa nhận rằng "có những nhược điểm không thể tách rời khỏi những tác phẩm của ông". ... Mời các bạn đón đọc Miếng Da Lừa của tác giả Honore de Balzac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghe Mùi Kết Thúc - Julian Barnes
Hội đồng chỉ mất đúng 31 phút để quyết định Julian Barnes sẽ là người thắng giải, với một tác phẩm được tuyên bố là viết đẹp, dễ đọc, có chất lượng cao và phản ánh được con người của thế kỉ 21. Hãy lưu ý rằng Julian Barnes viết cuốn sách này khi ông đã ở ngoài ngưỡng 60 tuổi (năm 2011). Trước đó, qua mỗi thập kỉ, nhà văn đương đại nổi tiếng người Anh này đều có tác phẩm từng lọt vào chung khảo Man Booker. Đó là "Flaubert's Parrot" năm 1984, "England, England" năm 1998 và "Arthur & George" năm 2005. Có nghĩa là liên tiếp qua 4 thập kỉ, hội đồng giám khảo của Man Booker đều đã chú ý đến Julian Barnes - tác gia từng hoạt động rất nhiều trong các tổ chức đấu tranh vì quyền con người. Đến năm 2011, họ chỉ mất đúng 31 phút để quyết định ông sẽ là người thắng giải năm nay, với một tác phẩm được tuyên bố là viết đẹp, dễ đọc,  có chất lượng cao và phản ánh được con người của thế kỉ 21. Không chỉ thành công với Man Booker, trước đó Julian Barnes từng sở hữu gần 10 giải thưởng khác, trong đó có giải  Shakespeare, giải Prix Femina Étranger hay giải David Cohen.  Nói vậy để biết rằng, "Nghe mùi kết thúc" đã được viết với tất cả kinh nghiệm và trí tuệ sâu sắc, đo bằng chiều dài của thời gian. Nó cũng là một cái nhìn ngược chiều có tính suy nghiệm về tuổi trẻ của một nhà văn thông tuệ.  "Khi bạn còn trẻ, bạn nghĩ bạn có thể đoán trước được ít nhiều những đau đớn và trống vắng tuổi tác sẽ mang lại... Nhưng tất cả những cái ấy đều là nhìn về phía trước. Điều bạn không làm nổi ấy chính là nhìn về phía trước, rồi thì tưởng tượng mình đang nhìn lại đằng sau từ cái điểm tương lai đó. Học những cảm xúc mới mà thời gian đem lại. Những nhân chứng cuộc đời bạn giảm dần, có ít thuyết chứng hơn, và thế là bớt đi tính chắc chắn việc bạn là ai hay đã từng là ai." - nhân vật chính Tony Webster tự ngẫm.  Ý tưởng của cuốn tiểu thuyết rất có thể bắt nguồn từ một câu chuyện gia đình giữa Julian Barnes và anh trai ông - một nhà triết học. Julian Barnes thừa nhận ông và anh của mình từng bất đồng ý kiến khá nhiều về những sự kiện xảy ra trong thời thơ ấu. Người anh tuyên bố những kí ức rất có thể sai lầm nếu ta không có những chứng cứ độc lập để xác minh. "Tôi thì tin hơn vào kí ức, hoặc đang tự đánh lừa bản thân mình" - Julian nói.  Có lối viết chiêm nghiệm và mở ra nhiều suy nghĩ nhưng "Nghe mùi kết thúc" lại rất dễ đọc, rất thanh lịch, tao nhã, đậm chất Anh. Nó cũng là một câu chuyện tình thời tuổi trẻ khi bản năng và lý trí nằm ở những tầng khác nhau. Ở giữa Tony Webster và Adrian là Veronica - một cô gái vô cùng thông minh, lý trí, người đã chuyển từ vị trí người yêu của Tony sang yêu Adrian.  "Nghe mùi kết thúc" thực sự là một cuộc phiêu lưu đáng giá của suy nghĩ và kí ức. Dù kí ức của mỗi người hiện đang có là ngắn hay dài.  *** “Một viên ngọc của sự hàm súc và chính xác… Nghe mùi kết thúc gói gọn chỉ trong ngần ấy trang nhiều thứ đến nỗi khi đọc xong ta thấy thỏa mãn hơn so với đọc nhiều cuốn tiểu thuyết dày gấp mấy lần như vậy.” – THE LOS ANGELES TIMES “Bi đát nhưng mạnh mẽ, Nghe mùi kết thúc dấn sâu vào những bí ẩn của ký ức chúng ta, nói thôi thúc khiến chúng ta muốn chỉnh sửa, viết lại và đôi khi xóa bỏ hoàn toàn quá khứ của chúng ta.” – VOGUE “Với sự tinh tế và khéo léo đặc trưng, Barnes chuyển trò chơi mèo-bắt-chuột này thành một câu chuyện thực sự căng thẳng và hấp dẫn.” – THE WASHINGTON POST “Ngắn gọn, đẹp… Cái câu hỏi lạnh xương sống ấy – Tôi có đúng là người mà lâu nay tôi vẫn đinh ninh là mình không? – hóa thành một câu hỏi ẩn chứa nhiều bất ngờ đến đáng ngạc nhiên. Như Barnes đã làm phơi lộ ra một cách vừa cao nhã vừa đau đớn, chúng ta thẩy đều là những người kể chuyện không đáng tin, những kẻ được cứu chuộc không phải nhờ sự chính xác của ký ức chúng ta mà nhờ chúng ta sẵn sàng đặt nghi vấn về ký ức đó.” – THE BOSTON GLOBE Tony đã già, Tony cảm nhận rõ đoạn kết cuộc đời mình. Một cuộc đời dường như ổn thỏa, tuy có thất vọng, có ly dị và nhiều mất mát – như mọi cuộc đời. Thế nhưng Tony sẽ rất bất ổn ở chính cái đoạn kết này. Julian Barnes, nhà văn danh tiếng của nước Anh, đã vô cùng lạnh lùng và tỉ mỉ - nhưng chỉ cần sử dụng rất ít trang giấy – miêu tả cái nhà tù mà con người bị giam hãm bên trong, như một điều không thể khác; nhà tù ấy ác nghiệt vì là tổng thể của hiện tại, tương lai và quá khứ. Những mảnh vụn li ti của quá vãng, cộng dồn thêm bao nhiêu thời gian và sự nham hiểm của số phận, khi đuổi kịp Tony đã mang sức nặng khủng khiếp, sức nặng của kết cục. Văn chương bậc thầy thường xuyên có một sắc thái quỷ quyệt, điều này thể hiện trong cuốn tiểu thuyết này dưới dạng một lời nhắn nhủ vô thanh của tác giả: Đừng quá tự tin, vì cuộc đời này vốn dĩ rất nhiều bất ổn. “Dày đặc những ý tưởng triết lý… Cuốn sách tạo ra sự căng thẳng đích thực chẳng khác gì một loại truyện trinh thám về tâm lý con người.” – Michiko Kakutani, THE NEW YORK TIMES   Mời các bạn đón đọc Nghe Mùi Kết Thúc của tác giả Julian Barnes.
Sững Sờ và Run Rẩy - Amélie Nothomb
Một cô gái trẻ phương Tây làm việc cho một công ty của Nhật, do sự khác biệt văn hóa, nên đã chu du một vòng công sở với những công việc ít ai ngờ tới nhất. Điểm hấp dẫn đầu tiên trong cuốn sách nhỏ nhắn này: đây là một câu chuyện có thật, từng xảy ra với Amélie Nothomb. Với điểm xuất phát chân thực đó, một câu chuyện phiêu lưu hài hước đã mở ra với cả tá tình huống dở cười dở mếu. Thay vì có một vị trí ổn định trong công ty, đổi chỗ cho cái nhìn trân trọng đối với một đồng nghiệp nước ngoài, Amélie loay hoay hết chỗ nọ tới chỗ kia, thậm chí, có lúc cô thấy mình thậm chí chưa phải là con số không. Cuốn sách được trải ra giữa hai thế giới đối lập. Ước muốn trở thành một phiên dịch, song Amélie giống một kẻ vô công rồi nghề ở công ty; đổi lại cho bao công sức thi đầu vào, Amélie lượn lờ khắp các ngóc ngách như một hình ảnh lố bịch khi đi bóc lịch hoặc tranh việc phân phát thư của người đưa thư; lẽ ra phải đau khổ, vật vã lắm, nhưng Amélie lại cảm thấy nhẹ nhõm và rất đỗi bằng lòng trước những công việc vớ vẩn nhất mà cô tự xin hoặc bị giao phải làm. Sự khôi hài của hoàn cảnh và lối kể chuyện bình dị, chân thực, tao nhã đã tạo nên sự quyến rũ thú vị cho Sững sờ và run rẩy, lôi kéo độc giả trong một khám phá mới mẻ: hiện đại hóa mâu thuẫn lâu đời giữa phương Đông và phương Tây. Nó khiến người ta đón nhận những điều vô lý nhất đang dồn ép Amélie theo chiều hướng tích cực: lo lắng nhưng không sợ hãi, thất vọng nhưng không sụp đổ. Không mô tả nhiều song thế giới nhân vật trong Sững sờ và run rẩy hiển hiện thật đậm nét với phát hiện tinh tế của Amélie Nothomb, từ nét tính cách của mỗi cá nhân tới hình ảnh chung về những người trong hệ thống công sở ở Nhật. Tất tật chỉ có bốn người: ông Haneda là chủ tịch hội đồng quản trị, ông Omochi là cấp phó, sau đó là ông Saito và cô Mori. Mọi va chạm, mâu thuẫn, xung đột đều liên quan tới chừng ấy người. Nhưng họ là sức mạnh không gì phá vỡ nổi khi xếp đặt cạnh nhau và được kết nối bằng thứ keo dính đặc biệt có tên là “nguyên tắc”. Amélie bị đẩy thành bà “Nước Tiểu” trong cơ quan cũng chỉ vì cô không sao hiểu nổi hệ thống ấy, và điều này như một thứ gia vị hài hước, tạo cho cuốn tiểu thuyết góc nhìn sắc sảo mà đậm chất hài hước. *** Amélie Nothomb sinh ngày 13/8/1967 tại Kobe, Nhật Bản và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa đất nước mặt trời mọc. Năm 1992, cô xuất bản tiểu thuyết đầu tay, Hygiène de l’assassin (Hồi ức kẻ sát nhân), cuốn sách đánh dấu thành công đầu tiên của cô. Đến nay, Amélie đã xuất bản 17 tiểu thuyết và trở thành một hiện tượng văn học không chỉ của nước Pháp. Các tác phẩm của cô được dịch ra gần 40 thứ tiếng khác nhau, trong đó Sững sờ và run rẩy ra mắt năm 1999, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp của nữ nhà văn trẻ. Đây chính là cuốn sách thành công nhất của Amélie Nothomb, giành Giải thưởng Lớn của Viện hàn lâm Pháp cho thể loại tiểu thuyết. Tờ Le Soir nhận xét: “Amélie Nothomb là một trong những nhà văn nổi bật nhất trong thời đại cô. Với sự đều đặn của máy đếm nhịp, cây bút này cho ra đời những tiểu thuyết thường được ca ngợi bởi sự độc đáo, tính nhân văn và chất dữ dội của chúng”. *** Ông Haneda là cấp trên của ông Omochi. Ông Omochi là cấp trên của ông Saito. Ông Saito là cấp trên của cô Mori. Và cô Mori là cấp trên của tôi. Còn tôi không là cấp trên của ai hết. Hoặc có thể nói theo cách khác. Tôi làm theo lệnh của cô Mori, cô Mori làm theo lệnh của ông Saito, và cứ tiếp tục như thế, các mệnh lệnh được truyền từ trên xuống dưới qua các cấp thứ bậc với sự chính xác này. Vậy là, trong công ty Yumimoto, tôi y theo lệnh của tất cả mọi người. Ngày mùng 8 tháng Giêng năm 1990, chiếc thang máy nhả tôi lên tầng cuối cùng trong tòa nhà của công ty Yumimoto. Ô cửa sổ cuối sảnh thu hút tôi, giống như người ta bị hút về phía cửa sổ máy bay bị vỡ. Ở phía xa, rất xa là thành phố xa tới mức tôi cứ ngỡ như chưa bao giờ đặt chân tới đó. Thậm chí tôi không nghĩ tới việc phải trình diện ở lễ tân. Thực ra, lúc đó trong đầu tôi chẳng có ý nghĩ gì khác ngoài cái khoảng không hấp dẫn kia, ngoài cái khuông cửa mênh mông toàn kính kia. Cuối cùng, một giọng khàn khàn gọi tên tôi từ đằng sau. Tôi quay lại. Một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, dáng người nhỏ thó, gầy và xấu xí, nhìn tôi vẻ khó chịu. - Sao cô đến mà không báo cho lễ tân? - ông ta hỏi tôi. Tôi chẳng biết trả lời sao nên im lặng. Tôi cúi gập người và nhận thấy là trong vòng mười phút, dù chưa nói lời nào, tôi đã gây ấn tượng không hay vào ngày đầu tiên đến nhận việc ở công ty Yumimoto. Người đàn ông nói ông ta là Saito. Ông dẫn tôi qua vô số những căn phòng rộng thênh thang và giới thiệu tôi với nhiều nhóm người có mặt trong đó, nhưng ông ta nêu tên họ tới đâu thì tôi cũng quên dần tới đó. Sau đó, ông dẫn tôi vào phòng làm việc của cấp trên của ông ta, đó là ông Omochi, dáng người đồ sộ và đáng sợ, chứng tỏ ông ta chính là phó chủ tịch. ... Mời các bạn đón đọc Sững Sờ và Run Rẩy của tác giả Amélie Nothomb.
Chúng Ta Sẽ Bên Nhau Bao Lâu - CaDe & Hạc Xanh
CaDe và Hạc Xanh là hai cây bút quen thuộc của đối với cộng đồng yêu văn học. Tuyển tập truyện ngắn "Chúng ta sẽ bên nhau bao lâu?" gồm những câu chuyện về tình yêu nhẹ nhàng, lãng mạn, như những lát cắt nhỏ của nhịp sống xô bồ giữa những trái tim yêu son trẻ đầy nhiệt huyết. Khi cầm trên tay tập truyện ngắn này, bạn sẽ thấy sự kết hợp độc đáo giữa hai cá tính khác biệt. Một nàng Ma Kết với giọng văn sắc sảo và sâu sắc, cùng một nàng Kim Ngưu với văn phong mềm mại. Hai cô gái như muốn bộc bạch cùng bạn đọc những suy tư của mình trên chặng đường yêu vốn quanh co khúc khủy. Là sự lãng mạn nên thơ của những mối tình đầu, là những mong manh dễ vỡ giữa những cảm xúc riêng chung. Là đau đấy, là đắng chát đấy, nhưng vẫn chờ mong, vẫn cần mẫn và kiên trì nuôi dưỡng tim yêu thành thật để chạm được vào đích hạnh phúc của cuộc đời mình. Cũng là vì tuổi trẻ cần yêu, nên yêu, sau bao lần vấp ngã vẫn muốn trao tim mình cho kẻ khác. Nên bất cứ lúc nào chữ "yêu" trong tuyển tập truyện cũng rung lên khe khẽ, hòa nhịp đập tim yêu son trẻ cùng độc giả. Vậy nên, giữa những yêu thương còn chưa tròn vẹn, giữa những nút thắt cho câu chuyện tình khi tuổi trẻ đang trôi qua, cũng chỉ mong chúng ta sẽ mở lòng đón nhận nhau giữa cuộc đời này bình ổn. Và khi nhắc nhớ về nhau, sẽ không quá xót xa cho câu hỏi: Chúng ta sẽ bên nhau bao lâu? *** Nếu thế giới này không có yêu thương liệu sẽ ra sao? Sẽ hoàn toàn là những khoảng trống nối tiếp nhau đi trên đường, sẽ hoàn toàn là những gương mặt lạnh, những trái tim lạnh, thờ ơ sống mãi cho đến hết cuộc đời? Nếu như thế, không biết mọi người có cảm thấy cô đơn không? Cuộc đời tuy ngắn ngủi so với vũ trụ, nhưng xét ra cũng dài đằng đẵng, cho đi yêu thương đôi khi cũng là điều hạnh phúc, không chỉ để dừng chân mỗi khi biết mỏi mệt, mà còn để lưu giữ phần tình cảm đáng quý nhất trong suốt cuộc đời. Đi đến tận cùng vạch đích mới có thể biết ai là người đồng hành kiên nhẫn, bền bỉ ở bên cạnh chúng ta cho đến phút cuối cùng. Những lần hợp tan, những người ghé qua trạm dừng chân rồi vội vàng ra đi, cũng chỉ là đóng góp vào cuốn sách cuộc đời của chúng ta thêm phần ý nghĩa. Phải cảm ơn tuổi trẻ, đã cho chúng ta yêu thương và được yêu thương, đã cho chúng ta những lần vấp ngã rồi trưởng thành, để biết trân trọng quá khứ đã đi qua … Mời các bạn đón đọc Chúng Ta Sẽ Bên Nhau Bao Lâu của hai tác giả CaDe & Hạc Xanh.
Nhiều Cách Sống - Nguyễn Quỳnh Trang
28 tuổi, Nguyễn Quỳnh Trang sống chưa nhiều và viết cũng còn ít. Nhưng với những gì đã thể hiện trong hai cuốn tiểu thuyết "1981" và "Nhiều cách sống", buổi tọa đàm về tác phẩm của chị đã xới lên nhiều vấn đề, không của riêng Trang, mà liên quan cả đến các nhà văn trẻ. Cũng như nhiều tác giả lứa 8X khác, Nguyễn Quỳnh Trang trước hết là nhà văn hợp thời, từ cách chọn đề tài, lối dùng câu chữ, cách kể chuyện cho đến việc chọn khuôn khổ, độ dày cuốn tiểu thuyết. Với 1981 và Nhiều cách sống - mỗi cuốn chừng 300 trang - Nguyễn Quỳnh Trang trình bày trong đó, dường như đủ cả, muôn chuyện đương thời, va đập hàng ngày với giới trẻ hôm nay: sex bình thường, sex đồng tính, hội họa đương đại, chuyện án mạng… Tác giả Đỗ Hải Ninh nhận định: "Tiểu thuyết Nguyễn Quỳnh Trang cho thấy sự táo bạo của cây bút trẻ này, táo bạo vì dám đụng chạm đến tất cả những cái hot nhất trong đời sống hôm nay". "Táo bạo" cũng như một mỹ từ khác là "thể nghiệm" là những cách diễn đạt mà các cây bút phê bình trẻ thường hay dùng để định danh, đánh giá sáng tác của các nhà văn trẻ. Thực tế, nếu Quỳnh Trang viết lồ lộ về sex, về đồng tính trong những năm 1980, 1990, trang viết của chị đáng được xem là "táo bạo". Còn đến đầu thế kỷ 21, chỉ tính riêng trong văn học Việt Nam thôi, sex hay đồng tính đã không còn lạ, không còn gây sốc, dù ít nhiều, đó vẫn là những đề tài "hot", đơn giản vì đó là chuyện bản năng (sex), chuyện ngược với tự nhiên (đồng tính). Vậy nên, về mặt đề tài, Nguyễn Quỳnh Trang, cũng như nhiều tác giả trẻ khác, chỉ bám sát những gì đang diễn ra quanh đời sống của giới trẻ, hẹp hơn là một bộ phận giới trẻ thành thị. Mà như trong đoạn mở đầu 1981, người đọc đã thấy, hễ 8X, 9X nghĩa là phải đi bar, phải lên sàn, phải uống Ken, phải triết lý Tôi là ai, phải băn khoăn đi tìm chính mình… Nhưng dễ nhận thấy, Nhiều cách sống non hơn nhiều so với 1981. Nhiều cách sống đã nỗ lực sống nhiều, nghĩ nhiều nhưng kết quả dường như vẫn chỉ dừng lại ở nghĩ chưa sâu và sống chưa chín. Nhà phê bình Văn Giá nhận định, cuốn sách chưa gây được nhiều ám ảnh cho người đọc. Hơn thế nữa, khác với lối kể giàu cảm xúc trong 1981, Nguyễn Quỳnh Trang ở tác phẩm thứ hai này đã "làm văn" nhiều hơn "viết văn". Chị rông dài nên cuốn sách trở nên nhạt; chị cầu kỳ câu chữ quá nên bị thừa cảm giác giả tạo. Nguyễn Quỳnh Trang so sánh sáo mòn, rỗng nghĩa: "Từng tiếng còi xe tan loãng vào đêm, như một niềm cô đơn bí ẩn muốn kêu gào mà chợt tắc ngang chừng vòm họng"…; dài dòng: "Ngày cô bước sang tuổi 12. Sinh nhật cô. Ừ. Ngày sinh nhật. Thì cứ cho rằng đó là ngày sinh nhật. Thì có sao"…; hay điệu đà một cách khó hiểu: "Lạnh một cách đoạn tuyệt"… Cây bút Nguyễn Minh nói: "Đó là lối miêu tả ấn tượng, mà miêu tả ấn tượng thì không có gì lạ với văn học trẻ". Nhưng đó chỉ là cách bào chữa, cách cùng mỹ từ vốn cũng không có gì lạ với văn học trẻ. *** Cuộc sống mãi chỉ là một và nhiều cuốn tiểu thuyết ngắn, dài bất tận. Cô nói, cô là một cô gái. Đơn thuần là một cô gái. Cô gái này có đôi mắt trong, ai nhìn cũng có thiện cảm. Nhưng ánh nhìn thì nhiều nỗi nghi ngại. Chẳng dễ tin người. Cô như con bướm lang thang tìm đêm. Lang thang nhiều đến rã rời cánh mỏi. Lang thang trong góc tối chật hẹp, khoảng không thì mịt mờ, không thể đậu lại ở đâu, cũng không biết tựa nương chốn nào. Cả tuổi trẻ là tháng ngày tìm đêm, tìm người, tìm bản ngã… Tìm để không thể thấy. Tìm rồi thất vọng. Tìm và đau. Giữa thiên hà bất tận nở ra một nỗi buồn truyền kiếp. Nỗi buồn chứa mọi sinh linh đang cần hít thở. Cô nằm bình yên trong vạn sinh linh ấy. Tên cô là Lâm Lâm. Lâm Lâm là người Việt Nam. Sinh ra, lớn lên, trưởng thành ở Việt Nam. Tên Lâm Lâm do cha mẹ đặt. Họ có cô trong một lần đi cùng nhau du hành chốn rừng sâu. Cô được tượng hình từ sự non nớt của mẹ và nỗi thiếu kinh nghiệm của cha. Khi mẹ cô có cô được sáu tháng, hai người mới hối hả làm đám cưới. Cưới chạy. Cũng thật may là cô sinh ra có mẹ, có cha, có ông bà hai bên nội ngoại. Có cả một đại gia đình. Cô là một đứa trẻ được thừa nhận. Cứ cho là bố mẹ không có tình yêu với nhau, thì họ có cô làm sợi xích giằng nối. Cô là sợi xích. Đơn giản thế thôi. ... Mời các bạn đón đọc Nhiều Cách Sống của tác giả Nguyễn Quỳnh Trang.