Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ở Nông Trại

Tên ebook: Chuyện ở nông trại (full prc, pdf, epub) Tên gốc: Animal Farm Tác giả: George Orwell Thể loại: 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Người dịch: An Lý Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Kích thước: 14 x 20.5 cm Số trang: 161 Ngày xuất bản: 01-03-2013 Chụp pic: Thanh Levy Type: starrats, Linhlinh Tạo ebook: Dâu Lê Nguồn: luv-ebook.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Chuyện ở nông trại - George Orwell Giới thiệu: Câu chuyện bắt đầu ở Điền Trang của ông Jones. Vào một đêm trường sau khi ông chủ Jones đã ngủ mê mệt vì say rượu, các thú vật của Nông Trại Manor tụ họp trong nhà chứa cỏ để nghe con heo già Old Major kể về một giấc mộng kỳ lạ. Khởi đầu, bằng một giọng nói rõ ràng và đầy sức mạnh, Heo già Major kể lại sự hiểu biết của mình về bản chất của cuộc đời. Theo đó, các con vật được sinh ra phải làm việc cực nhọc, chịu đựng gian khổ, không được ăn no, tới khi không còn sức lao động nữa thì bị làm thịt. Chúng bị làm nô lệ cho loài người và đây là giới sinh vật chỉ tiêu thụ mà không sản xuất. Vì vậy chỉ còn một giải pháp: phải lật đổ loài người. Mọi con vật phải đoàn kết lại vì một mục đích chung: nổi dậy. Buổi họp bị gián đoạn một thời gian ngắn vì vài con chó chạy đi đuổi chuột, tiếp theo Heo già Major đề nghị bỏ phiếu quyết định loài chuột là đồng chí (comrades), kế tiếp mọi con vật đều tán thành một quyết định khác của Heo già Major như sau: Con người là Kẻ Thù. Các con vật vì vậy cần phải tránh xa các thói quen của con người: không xài nhà ở, giường nằm, quần áo, tiền bạc, mậu dịch, rượu. Và trên hết, Tất cả chúng ta đều là Bạn. Không con vật nào được giết một con vật khác. Mọi con vật đều bình đẳng. Heo già Major đã không thể mô tả hết giấc mộng tốt đẹp của nó cho các con vật khác nghe và nó cũng dạy cho các con vật kia hát bài ca Các thú vật của nước Anh mà nó học được trong giấc mộng. Nhờ hát đi hát lại bài ca cách mạng này, các con vật đều trở nên cuồng nhiệt. Không lâu sau đó, Heo già Major qua đời nhưng các con vật còn sống khác đều cần phải hiểu rõ nền Triết học Súc vật chủ nghĩa (Animalism), đều phải nổi dậy chống lại ông chủ Jones. Công tác giảng dạy và tổ chức quần chúng được giao phó cho các con heo bởi vì loài heo được coi là những con vật tinh khôn, khéo léo. Trong số các con vật này, có hai con tài giỏi nhất là Heo Snowball và Heo Napoleon. Ngoài ra còn có Heo Squealer, một kẻ ăn nói xuất sắc. Ngày tháng trôi dần qua, ông chủ trại Jones càng uống nhiều rượu mạnh và càng trễ nải việc chăm sóc nông trại. Rồi vào một buổi chiều kia, khi ông Jones quên cho súc vật ăn uống sau một ngày dài, các con vật phá cửa, xông vào máng ăn và giành ăn uống. Ông Jones và các người làm công bèn dùng roi, gậy, đánh đập các con vật. Các con vật đói ăn này không thể chịu đựng hơn được nữa. Chúng bèn tấn công các kẻ đàn áp. Vừa ngạc nhiên, vừa hoảng sợ, cả chủ lẫn tớ đều bị đuổi khỏi nông trại. Thật là bất ngờ. Cuộc nổi dậy đã thành công. Ông chủ Jones không còn nữa, Nông trại Manor từ nay thuộc về các súc vật. Niềm vui của tất cả súc vật thật là vô kể, chúng là chủ nhân và sẽ làm việc hòa thuận với nhau suốt đời... *** Review Trại Súc Vật: Câu chuyện không dành cho thiếu nhi Không dễ thương như tên gọi, đây là cuốn sách chắc chắn sẽ khiến bạn nổi da gà trong suốt quá trình đọc nó. Cảm nhận chung: Trước khi đọc Trại Súc Vật, tôi không biết gì về chế độ Xô Viết và Thế chiến thứ 2, càng không biết Stalin và Trotsky là ai. Dĩ nhiên, bạn cũng hoàn toàn có thể không cần biết gì về những cái tên kể trên để có thể “thấm” được tác phẩm, bởi Trại Súc Vật (Tên gốc Animal Farm) thật sự là một câu chuyện rất ngắn, rất dễ đọc, đúng như Orwell mong muốn là kể lại câu chuyện Liên Xô dưới thời Stalin một cách đơn giản nhất để bất cứ ai cũng có thể hiểu. Không cần biết bối cảnh ra đời của tác phẩm, bạn vẫn có thể hình dung ra một chế độ xã hội khởi đầu bằng những mộng tưởng tốt đẹp nhưng dần dần lại dẫm chân vào chính vũng lầy của chế độ cũ khi kẻ cầm quyền bắt đầu biến chất, kéo theo bạo lực, sự dối trá đáng ghê tởm, và sự đổi trắng thay đen hoàn hảo đến mức bóp méo hoàn toàn lịch sử (Tôi chợt nghĩ đến một chế độ XHCN với hàng trăm thứ thuế chồng chéo nhau thì có khác gì thời Pháp thuộc “sưu cao thuế nặng” nhỉ? Tinh vi hơn, chắc vậy.) Tuy nhiên, nó không phải là một cuốn sách lịch sử nặng nề, dày cộp và chán ngắt như thường thấy, mọi thứ dễ chịu nhưng mỉa mai hơn rất nhiều dưới hình bóng lợn, gà, dê, và ngựa. Animal Farm là một tác phẩm trào phúng chính trị kinh điển trong suốt thể kỷ 20, và cùng với tượng đài 1984, đã đưa tên tuổi nhà văn Geogre Orwell lên một tầm cao mới và trở thành một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng nhất lúc bấy giờ. Tóm tắt nội dung Câu chuyện kể về cuộc nổi dậy của bầy gia súc ở Điền Trang của lão Jones sau lời tiên tri của Thủ Lĩnh về một giấc mơ kỳ lạ. Đó là giấc mơ về một thế giới tự do nơi lũ súc vật được tận hưởng những thành quả lao động của mình, không phải chịu sự khổ sai áp bức của loài người. Điều này đã dẫn tới một “cuộc Khởi Nghĩa” tại Điền Trang và lũ súc vật đã giành thắng lợi. Điền Trang được đổi tên thành Trại Súc Vật. Chúng bắt đầu tự tổ chức ra một xã hội của riêng mình với hai giai cấp cơ bản nhất là người lao động- lũ gia súc và kẻ cầm quyền- những con lợn thịt, trong đó nổi bật nhất là Napoleon và Tuyết Tròn. Bảy Điều Răn đúc kết từ Súc Sinh Kinh (Animalism) được sơn hẳn lên tường như những quy tắc chung của xã hội mới mà tất cả các loài phải tuân theo để đảm bảo một cuộc sống bình đẳng, phồn thịnh và đặc biệt là để tránh lặp lại những tật xấu của con người. Tuy nhiên, câu chuyện chỉ thật sự bắt đầu khi Napoleon đứng lên trục xuất Tuyết Tròn với sự trợ giúp của lũ chó con mà nó đã bí mật thuần dưỡng thành chó săn và thay thế Tuyết Tròn làm thủ lĩnh. Một trật tự xã hội mới được thiết lập dưới cự cai trị của Lãnh tụ Napoleon, sự phân hóa giai cấp bắt đầu nhen nhóm giữa bầy lợn và những loài động vật khác. Napoleon đã từng bước vi phạm cả 7 điều răn dạy một cách tinh vi và khéo léo cùng với các cuộc thanh trừng đẫm máu để bảo vệ và củng cố quyền lực tuyệt đối của mình. Mọi thứ càng ngày càng đi xa quỹ đạo ban đầu mà cuộc Khởi Nghĩa hướng tới, lũ gia súc càng ngày càng nhận ra có điều gì đó không ổn, tuy nhiên không một sự chống trả nào được thực hiện. Trại Súc Vật trở lại là Điền Trang, và lũ lợn đã học cách đi bằng hai chân. Mọi thứ dường như quay trở về với điểm xuất phát như thời lão Jones, cuộc Khởi Nghĩa trở thành dĩ vãng xa vời. Câu chuyện kết thúc bằng bữa tiệc giữa loài người và loài lợn trong chính ngôi nhà của lão Jones, và lũ súc vật đáng thương đang nhòm vào từ bên ngoài khung cửa sổ không thể nào phân biệt nổi đâu là người và đâu là lợn. Cảm nhận về tác phẩm: Trước hết phải thừa nhận rằng đây là một tác phẩm chính trị gây tranh cãi ẩn chứa sau hình ảnh về lũ súc vật quen thuộc. Orwell đã biến một đoạn lịch sử kéo dài trong mệt mỏi của cả một đất nước thành một tác phẩm trào phúng đơn giản, cô đọng nhưng phản ánh chân thực nhất những gì đã diễn ra tại Liên Xô cũ dưới thời Stalin với đầy đủ các nhân vật và sự kiện lịch sử. Có khá nhiều ý kiến trái chiều xung quanh việc bối cảnh thật sự của Animal Farm là gì. Trong phần Lời tựa, Orwell đã nói rằng ông viết tác phẩm này như một lời cảnh báo châu Âu nói chung và nước Anh nói riêng về bản chất thật sự của Chế độ Chủ nghĩa Xã hội đang diễn ra tại Liên Xô, rằng ông “đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô Viết viết dưới dạng một câu chuyện dễ hiểu và dễ dịch sang các ngôn ngữ khác”. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng chính Orwell khẳng định tác phẩm của ông không ám chỉ bất cứ quốc gia hoặc hệ thống chính trị nào, những gì tác phẩm mô tả có thể xảy ra ở mọi nơi tại mọi quốc gia, trong mọi giai đoạn lịch sử. Và nó đang thật sự xảy ra, ngay tại Việt Nam, Trung Quốc, đặc biệt là Bắc Triều Tiên. Mặc dù chỉ còn sót lại ở một vài quốc gia trên thế giới, chế độ cộng sản ngày nay vẫn đang được vận hành theo một mô típ cũ kỹ, với cách thức xây dựng xã hội và cai trị con người không hề khác biệt gì so với một thế kỷ trước. Đó là lý do vì sao tôi đã rợn gai người khi đọc tác phẩm bởi nó phản ánh chính xác đến đáng sợ những gì đang diễn ra ngay tại Việt Nam, hơn 70 năm sau khi tác phẩm ra đời. Quay lại với câu chuyện, từng nhân vật sống trong Trại Súc Vật là những tượng trưng điển hình cho mỗi một lớp người hiện nay. Vai trò cầm quyền được giao cho lũ lợn- những động vật được xem là thông minh nhất trong nông trại. Đây là một hình mẫu vừa châm biếm vừa chính xác đến kinh ngạc. Không phải Chiến Sĩ- kẻ tượng trưng cho sức mạnh, hay con lừa già- tượng trưng cho sự uyên bác, mà chính sự thông minh, tham lam và tính dục của loài lợn mới là biểu tượng của quyền lực trong tác phẩm (cũng như ngoài đời thực). Không chỉ vậy, khi miêu tả những “kẻ cầm quyền” có thân hình béo ú, mặt mũi hồng hào, tôi e rằng không hình mẫu nào thích hợp hơn lũ lợn, sẽ thật miễn cưỡng để chấp nhận đếu đổi lại là chó, lừa hay bất kỳ con vật nào khác. Trong bầy lợn đó, có 4 con vật đáng để chú ý nhất là Thủ Lĩnh, Tuyết Tròn, Napoleon và Chỉ Điểm. Thủ Lĩnh là một con lợn già được cả nông trang trọng vọng vì tuổi đời và sự hiểu biết của mình. Chính nó đã đưa ra lời tiên tri về một cuộc cách mạng và đời sống sung túc, ấm no cho lũ súc vật. Đó là biểu tượng của những bậc học giả uyên bác ngày xưa, và nếu như áp dụng trong bối cảnh Liên Xô lúc bấy giờ, ta có thể hiểu rằng Thủ Lĩnh là hiện thân của Karl Marx và cũng có thể là lãnh tụ Lenin. Sau khi Lenin qua đời, người kế nhiệm tiếp theo đáng lẽ ra là Trotsky chứ không phải Stalin, nhưng Trotsky đã bị Stalin trục xuất khỏi Liên Xô và cuối cùng bị ám sát vào năm 1940, y hệt cách Napoleon đứng lên giành giật quyền lực từ Tuyết Tròn sau khi Thủ Lĩnh qua đời. Nếu như Tuyết Tròn ( Trotsky) là một nhà lãnh đạo có tài luôn lo nghĩ cho tập thể nhưng lại thiếu cảnh giác thì Napoleon (Stalin) chính là kẻ bất chấp tất cả để có được quyền lực và sẵn sàng dùng máu tươi để củng cố quyền lực đó. Điều này càng trở nên đúng đắn khi so sánh với thực trạng chính trị ngày nay, khi những kẻ lãnh đạo không chỉ cần có tài năng thực lực mà còn cần phải có quyền lực để củng cố vị trí của mình. Càng tìm hiểu kỹ về chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Trotsky, tôi càng nhận ra hai con lợn Tuyết Tròn và Napoleon đã đại diện xuất sắc đến kinh ngạc từ quan điểm chính trị đến số phận cho hai chính trị gia tên tuổi này, tuy nhiên sẽ là quá dài để nói về tất cả những điều đó trong một bài review sách, có lẽ tôi sẽ viết một bài riêng về những con lợn đặc biệt này vào một ngày khác, nếu các bạn mong muốn. Về các tuyến nhân vật khác trong chuyện, tôi không thể nào không thán phục sự tài tình của Orwell khi xây dựng Chỉ Điểm- cũng lại là một con lợn- thành một kẻ mồm loa, có khả năng lấp liếm và che dấu tất cả tội lỗi của Napoleon bằng thứ ngôn từ xảo trá và huyễn hoặc của mình. Đó là biểu tượng cho những nhân vật thêu dệt chính trị (Spin doctor) trong lịch sử, là những tờ báo lá cải đang hàng ngày che dấu sự thật chính trị sau những ngôn từ xa hoa và bóng bẩy. Những kẻ trung thành mù quáng như con ngựa Chiến Sĩ sẽ bị bóc lột, lợi dụng đến tận cùng và bị thải bỏ không thương tiếc ngay khi vừa hết giá trị lợi dụng. Hình ảnh lũ súc vật vừa gào thét vừa đuổi theo chiếc “xe cứu thương” đang đưa Chiến Sĩ đến bệnh viện nhưng thực chất lại là chiếc xe dẫn đến lò mổ là một trong những hình ảnh đắt giá của tác phẩm. Nó thể hiện sự độc tàn của “chế độ Napoleon” và sự ngờ nghệch đến đáng thương của lũ súc vật-những con vật yếu đuối, không biết quá vần A trong bảng chữ cái, luôn dễ dàng bị những lời dụ dỗ về một tương lai sung túc, tươi đẹp của Chỉ Điểm che mắt và cam chịu áp bức, khổ sai. Trong đám đông đó, con lừa già Benjamin hiện lên như tầng lớp trí thức từng trải và am hiểu sự đời. Trong lúc đám súc vật vẫn đang hân hoan trong niềm vui chiến thắng thì chỉ mình nó là dường như đã nhìn thấy một kết cục hoàn toàn khác, nó nhìn thấu từng lời dối trá của đám lợn, hiểu quá rõ bản chất xã hội nó đang sống, nhưng lại chọn cách im lặng và phó mặc mọi thứ diễn ra. Có lẽ nó đã sống đủ lâu và cam chịu đủ nhiều để hiểu rằng về bản chất, dù là người hay là lợn thì chế độ thống trị vẫn không khác là bao, và kẻ yếu thế vẫn muôn đời chịu áp bức và bóc lột, bằng cách này hay cách khác. Trại Súc Vật kết thúc lơ lửng trong hoang mang, không ai biết số phận của những con vật đó sẽ như thế nào sau cái ngày chúng kinh hoàng nhìn thấy đàn lợn đi bằng hai chân và tụ tập với bọn chủ điền trang trong căn nhà chính. Sự mỉa mai được đẩy lên tận cùng đến ám ảnh là hình ảnh lũ súc vật không thể phân biệt được đâu là lợn và đâu là người. Người, hay là lợn, về bản chất không có gì khác nhau một khi chúng trở thành những kẻ cai trị: “Nếu các bạn phải xử lý những loài vật hạ đẳng, thì chúng tôi phải xử lý những giai cấp hạ đẳng” (Lời Pilkington nói với Napoleon). Kết luận: Đây là tác phẩm chính trị suất sắc dành cho tất cả mọi người. Không có gì ngạc nhiên khi bản dịch Chuyện ở nông trại của Nhã Nam đã bị thu hồi một cách lặng lẽ sau khi xuất bản. Càng đọc bạn sẽ càng nhận ra những điểm tương đồng đang xảy ra ngay chính tại Việt Nam. Và hãy nhìn quanh đi, bạn có nhìn thấy con lợn nào không? Mời các bạn đón đọc Chuyện ở Nông trại của tác giả  George Orwell.  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Nửa Đại Đội - Đỗ Kim Cuông
Sở chỉ huy tác chiến của tiểu đoàn đặt trong một vạt mả rộng nằm chếch về phía bắc thôn Văn Xá chừng hai cây số. Có đến hàng chục ngôi mộ to có thành gạch xây bao chung quanh tạo thành một thứ công sự vững chãi, tránh được đạn thẳng và mảnh pháo. Tiểu đội trinh sát chiếm lĩnh từ chập tối. Bây giờ, từng tổ quay trở lại đón các bộ phận vào vị trí. Cách khu mộ chưa đầy hai trăm mét đã là hàng rào ngoài cùng của khu căn cứ quân sự Tứ Hạ. Ở đây có sân bay, có trận địa pháo và khu kho tàng, tiếp vận quân cụ, súng đạn cho các đơn vị tiền phương thuộc vùng I chiến thuật, tuyến phía Bắc sông Bồ kéo dài ra thấu Đông Hà, Quảng Trị. Một tiểu đoàn xe tăng M113 nằm thường trực chi viện cho các đơn vị lính của sư đoàn 1 khi đi càn quét các làng vùng Phong - Quảng Điền. Số lượng trực thăng chiến đấu nằm trong các hầm chứa máy bay và tại đường băng có khi lên tới ba chục chiếc. Trước Mậu Thân 1968, căn cứ Tứ Hạ nhỏ, nó chỉ được phình to mở rộng sau Mậu Thân. Hàng chục ấp chung quanh Tứ Hạ bị quét sạch xuống phía đông đường quốc lộ, để lấy chỗ lập hàng rào, vọng gác phòng thủ. Bảy lớp hàng rào bùng nhùng, hàng rào mái nhà xen kẽ với các bãi mìn gài chết. Tứ Hạ trở thành một căn cứ hỏa lực mạnh: chi viện tích cực cho các trung đoàn, sư đoàn ngụy, Mỹ phối hợp lên càn miền Tây. Pháo Tứ Hạ có thể bắn lên được tới bờ nam sông Bồ. Chưa một lần Tứ Hạ bị trầy vi tróc vảy. Với khả năng tấn công của Việt cộng ở đồng bằng, hai năm trở lại đây theo dõi trực tiếp những trận đánh xảy ra ở các thôn ấp, vùng ven giáp ranh, những tên phái viên trong ban tham mưu tác chiến của Bộ chỉ huy tiền phương ngụy vùng I chiến thuật rút ra kết luận: Việt cộng không đủ sức để chạm vào hàng rào lông nhím Tứ Hạ. *** Nhà văn Đỗ Kim Cuông sinh ngày 25 tháng 4 năm 1951, quê quán phường Hồng Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông gia nhập quân đội, tham gia từ cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tại chiến trường Trị Thiên Huế với tư cách là một người lính bộ binh, trực tiếp chiến đấu cho đến Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất.  Năm 1976, Đỗ Kim Cuông được trở lại giảng đường Đại học tại Khoa Ngữ văn Viện đại học Huế. Sau khi tốt nghiệp, ông về giảng dạy tại Trường cao đẳng sư phạm Nha Trang - Khánh Hoà. Ông nguyên là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Khánh Hoà, kiêm Tổng Biên tập tạp chí Văn Nghệ Nha Trang, đại diện tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) tại Nam Trung Bộ.  Đỗ Kim Cuông đã từng giữ chức Vụ trưởng Vụ Văn hoá văn nghệ Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2010 - 2021), sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.  Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1990), Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.  Tác phẩm đã xuất bản: - Người đàn bà đi trong mưa (tiểu thuyết, 1987); - Một nửa đại đội (tiểu thuyết, 1989); - Hai người còn lại (tiểu thuyết, 1989); - Thung lũng tử thần (tiểu thuyết, 1990); - Miền hoang dã (tiểu thuyết, 1991); - Mảnh sân sau u ám (tiểu thuyết, 1993); - Vùng trời ảo mộng (tiểu thuyết, 1993); - Tự thú của người gác rừng (tập truyện ngắn, 1996); - Đêm ngâu (tập truyện ngắn, 1999); - Cát trắng (tiểu thuyết, 1997); - Người dị hình (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, 2000); - Thủ lĩnh vùng sông Tô (tiểu thuyết, NXB Công an Nhân dân, 2001); - Phòng tuyến Sông Bồ (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2009); - Lỗi hẹn với Sê pôn (tiểu thuyết, 2011); - Chớp biển (tập truyện ngắn, 2010); - Lời hẹn với Sê pôn (tập truyện ngắn, 2012); - Gió rừng (tập truyện ngắn, 2012); - Trang trại Hoa Hồng (tiểu thuyết, 2014). Mời các bạn đón đọc Một Nửa Đại Đội của tác giả Đỗ Kim Cuông.
Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác - Trần Huy Quang
 Cuốn "Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác" của Trần Quang Huy do nhà xuất bản Văn Học phát hành, được in từ nhiều chuyện ngắn hay khác nhau như: nước mắt đỏ, em là hoa thủy tiên... Cuốn sách "Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác" giới thiệu những nội dung: Tiểu thuyết: Nước mắt đỏ. Truyện ngắn: Em là hoa thủy tiên. Đạo của tình yêu. Giấc mơ. Cuộc chia ly trong chiến tranh. Giọt mưa trên lá. *** Trần Huy Quang, Sinh ở Nghệ An, nguyên là chiến sỹ pháo binh, , đã tốt nghiệp khoa Sử trường đại học Tổng hợp Hà nội ; anh nổi lên trên văn đàn bằng một loạt bài ký mà tiêu biểu là bài Câu chuyện về ông vua Lốp(I985),tác phẩm này đã đoạt giải nhất cuộc thi của báo Văn Nghê..  Anh đã có những cuốn tiểu thuyết : Ngọn khói (NXB Nghệ Tĩnh) ; Ngày mai (NXB Quân đội nhân dân) ; Nước mắt đỏ (NXB Lao động) ; Mối tình hoang dã (NXB Lao động) và tập truyện ngắn Người làm chứng (NXB Lao động).    Mời các bạn đón đọc Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác của tác giả Trần Huy Quang.
Hồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng Xuân - Khái Hưng & Nhất Linh
Quyển Hồn bướm mơ tiên là quyển truyện thứ nhất của Tự lực văn đoàn và là quyển truyện thứ nhất của ông Khái Hưng.  Lối viết truyện này có hai đặc sắc, khác với những lối viết truyện xưa nay.  Tác giả không tả cảnh rườm rà, chỉ một vài nét chấm phá thanh đạm như những bức thủy họa của Tàu; cảnh trong truyện nhiễm vẻ nào là tùy theo tâm hồn của người trong truyện; cảnh đối với người có liên lạc nhịp nhàng và linh động.  Tác giả không bàn luận lôi thôi, ông khéo đem một vài nhận xét tinh vi một vài việc xảy ra thích đáng để phô diễn tâm lý những nhân vật trong truyện. Vì hai lẽ đó nên truyện Hồn bướm mơ tiên có vẻ hoạt động, xem ham mê từ đầu tới cuối: độc giả tưởng như được cùng với người trong truyện cùng sống quãng đời diễn ra trong truyện.  Hồn bướm mơ tiên là một truyện tình dưới bóng Từ bi, một truyện tình cao thượng và trong sạch của đôi thanh niên yêu nhau, "yêu nhau trong linh hồn, trong lý tưởng" như lời tác giả nói. Tác giả đặt câu chuyện vào trong một cảnh chùa ở miền trung du Bắc Việt và khéo phô diễn những vẻ đẹp thiên nhiên của miền ấy khiến ta đem lòng yêu những cảnh đồi núi non khác hẳn cái cảnh "bùn lầy nước đọng" miền hạ du phẳng lỳ và buồn tẻ. Lại thêm được lối văn giản dị, nhanh nhẹn, tuy vui vẻ mà làm cho người ta cảm động vô ngần. Cái cảm ấy là một cái cảm nhẹ nhàng, phảng phất vui buồn tựa như những ngày thu nắng nhạt điểm mưa thưa. *** Hồn bướm mơ tiên – Nửa chừng xuân hai cuốn tiểu thuyết của Khái Hưng với hai truyện tình. Một truyện tình được miêu tả trong sự đối lập giữa tình yêu tự do và khoái cảm hạnh phúc đời thường với sự gò bó và hà khắc giáo lý tôn giáo. Một truyện tình có sự xung đột giữa cái cũ và cái mới và nhân vật chính trong truyện là nạn nhân của sự xung đột này. Tuy nhiên họ đã tìm ra lối thoát nhờ đủ nghị lực hướng tới xây dựng tương lai và “vì người khác mà hi sinh ái tình cùng hạnh phúc”  Hồn bướm mơ tiên - Câu chuyện giản dị, không có gì ly kỳ gay cấn. Tác giả củng không diễn tả, phân tích tình yêu phức tạp, éo le như ta thường thấy trong các tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn và các tiểu thuyết đương thời. Cả cái mô-tip: xung đột ái tình - tôn giáo cũng không được khai thác triệt để nhằm thu hút hứng thú của độc giả. Đọc tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, ta cảm nhận rõ ràng Khái Hưng mượn câu chuyện để nói về đạo Phật, để trình bày cái nhìn của ông đối với đạo Phật.  Nửa chừng xuân -  Với một kết thúc lý. Ở đó, tình yêu được thăng hoa, nhân vật chính biến thành thánh thiện. Khái Hưng đã dùng những chi tiết hy sinh, thủ tiết, nhan sắc lộng lẫy… để mô tả Mai. Mai là phụ nữ hiếm có trong buổi giao thời, giàu tấm lòng vị tha, với khuôn mẫu đủ cả công, dung, ngôn, hạnh, với nghị lực chấp nhận khó khăn và vượt trở lực trên đường đời. Cả đời nàng chỉ biết thờ hai chữ hy sinh, hy sinh cho em, cho con và cho cả mối tình đầu trước mọi cám dỗ và thử thách mặc dù hạnh phúc lứa đôi đã chấm dứt ở tuổi nửa chừng xuân.  Giới thiệu hai tiểu thuyết của tác giả Khái Hưng, Trí Việt Books mang đến cho độc giả một cuốn sách đầy thi vị ngọt ngào, dễ đọc, dễ thấm, dễ hiểu cùng khung bìa bắt mắt. *** *** Khái Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư. Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.[1]. Cha ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu. Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh. Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo. Tác phẩm Tiểu thuyết: Hồn bướm mơ tiên (1933) Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933) Nửa chừng xuân (1934) Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934) Trống mái (1936) Gia đình (1936) Tiêu Sơn tráng sĩ (1937) Thoát ly (1938) Hạnh (1938) Đẹp (1940) Thanh Đức (1942) Băn khoăn Tập truyện ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất Linh, 1934) Tiếng suối reo (1935) Đợi chờ (1940) Cái ve (1944) Mời các bạn đón đọc Hồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng Xuân của tác giả Khái Hưng
Gia Đình Má Bảy - Phan Tứ
Trong Gia Đình Má Bảy, cốt chuyện rộng rãi, tác giả đặt những vấn đề lớn, ví dụ như vấn đề công bằng xã hội trong lịch sử dân tộc: “Bởi sống nửa đời trong bung lầy như bị vùi đến nửa thân, má hiểu lắm  cái phận tá điền sinh ra để cày ruộng người, kiếp trước truyền cho kiếp sau chỉ một túp lều rách. Người xưa đã dẹp hết các thứ giặc từ ngoài đến mà không trị nổi bọn giặc trong làng. Con trâu đủ sức giết cọp mà không tự tháo gỡ được con đỉa hút máu ở cổ, đành chịu vậy đến khi ngã quỵ” Những trang cảm động nhất của Gia Đình Má Bảy có thể là những trang đẹp nhất trong văn nghệ Miền Nam, là những trang mô tả những hy sinh thầm lặng của người phụ nữ Miền Nam trong hai cuộc kháng chiến. *** Phan Tứ tên thật là Lê Khâm, ông sinh ngày 20-12-1930 tại thị xã Quy Nhơn; nguyên quán xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình trí thức yêu nước. Phan Tứ tham gia cách mạng từ năm mười lăm tuổi, làm liên lạc chuyển tài liệu, báo chí bí mật. Năm 1950, ông nhập ngũ tại Hà Tĩnh, tốt nghiệp Trường Lục quân ở Thanh Hóa rồi sang Lào chiến đấu trong quân tình nguyện Việt Nam. Năm 1954, Phan Tứ tập kết ra Bắc rồi theo học khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1958, ông cho xuất bản tiểu thuyết Bên kia biên giới. Năm 1960, ông cho xuất bản tập truyện ngắn Trở về Hà Nội và tiểu thuyết Trước giờ nổ súng. Năm 1961, ông trở về công tác tại chiến trường miền Nam, làm phái viên ban Tuyên huấn Khu ủy Liên khu V, lấy bút danh là Phan Tứ. Năm 1966, Phan Tứ trở ra Bắc, công tác tại Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, làm quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Năm 1968, ông xuất bản tiểu thuyết Gia đình má Bảy, tập truyện ngắn Trong đám nứa. Năm 1970 ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ ủy viên Ban chấp hành, ủy viên Ban thư ký của Hội và lần lượt cho xuất bản: bút ký Măng mọc trong lửa; tiểu thuyết Mẫn và tôi năm 1972, tiểu thuyết Trại S.T.18 vào năm 1974. Năm 1975, Phan Tứ được nhận Giải thưởng ba mươi năm (1945-1975) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau kháng chiến chống Mỹ, Phan Tứ giữ chức vụ Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, rồi Đại biểu Quốc hội khóa VIII, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba. Thời gian này ông cho xuất bản hồi ký Trong mưa núi và ba tập tiểu thuyết Người cùng quê (1985). Ông mất ngày 17 tháng 4 năm 1995 do hậu quả chất độc màu da cam. Năm 1995, Phan Tứ được nhận Giải thưởng Văn học loại A mười năm (1985-1995) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông còn được nhận Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu. Năm 2000, Phan Tứ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm: Trước giờ nổ súng, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi, Về làng. Năm 2002, Toàn tập Phan Tứ (4 tập) được Nhà xuất bản Văn học xuất bản. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Má Bảy của tác giả Phan Tứ.