Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Võ Sĩ Lên Đài - Ma Văn Kháng

Võ sĩ lên đài là tiểu thuyết với những câu chuyện và chi tiết có thật, hấp dẫn... ít ai biết về tuổi trẻ của một thời hào hùng. Chuyện xảy ra tại Hà Nội những năm chống thực dân Pháp sau ngày toàn quốc kháng chiến. Cuộc đấu tranh của các thanh thiếu niên Việt Nam yêu nước chống bọn thực dân cùng những kẻ cơ hội thông qua môn thể thao quyền Anh, âm thầm và quyết liệt. Các thiếu niên, theo năm tháng dần trở thành thanh niên, giàu tình cảm và sâu sắc, một mặt chăm chỉ học hành, mặt khác bí mật tham gia các hoạt động yêu nước, chống xâm lược và việt gian ngay trong thành phố. Trong cuộc chiến vì cái đẹp của môn quyền Anh, một biểu trưng của tinh thần thượng võ, lòng can đảm, tinh thần bất khuất của ông cha đã được thấm nhuần và thể hiện qua các cuộc giao đấu của Nhân và Tùng, có cả thắng và thua, nhưng họ đã tìm thấy bài học lớn: có thể thất bại để tìm lại sức mạnh nội lực của mình. Tiểu thuyết dựa trên những chi tiết có thật về cuộc đời của Phạm Xuân Nhàn, võ sĩ quyền Anh nổi tiếng những năm 50 của thế kỷ trước (ông đã từng là võ sĩ vô địch quốc gia, tham dự Á vận hội năm 1954 tại Manila, Philipinnes). Một giai đoạn kháng chiến với cách thể hiện sinh động cuộc sống học đường của thiếu niên học sinh Hà Nội đô thành trong thời kỳ Pháp tạm chiếm, các hoạt động thể thao, thi đấu, những câu chuyện và chi tiết có thật ít ai biết vì chưa có tài liệu sách báo nào nói tới…, tất cả đã làm nên giá trị đặc biệt cho cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Ma Văn Kháng. *** Cuốn sách đã được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt thành, đặc biệt về mặt cung cấp và hiệu đính các tư liệu chuyên môn, kỹ thuật của bác sĩ y học thể dục thể thao Phạm Xuân Nhàn, cựu võ sĩ quyền Anh, vô địch Quốc Gia, tham dự Á Vận Hội năm 1954 tại Manila-Philippin. Được xuất bản lần này, cuốn sách một lần nữa là lời tri ân của tác giả với bác sĩ - võ sĩ Phạm Xuân Nhàn. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Võ Sĩ Lên Đài của tác giả Ma Văn Kháng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nàng Lika - Ivan Bunin
“Nàng Lika” là phần cuối (phần V) của bộ tự truyện Cuộc đời Arxênhép, tác phẩm chủ yếu mà nhờ đó Bunhin đã được tặng giải thưởng Nôben (1933). Sinh thời Bunhin cũng như sau này ở Liên Xô nhiều lần phần này của bộ tự truyện đã được in riêng như một tác phẩm độc lập bởi sự hoàn chỉnh về hình thức cũng như chủ đề. Gọi là “tự truyện” cũng chỉ là tương đối, vì ở đây cái thật cái hư xen lẫn nhau. Địa danh, tên người phần lớn đều được thay đổi. Hình mẫu của nàng Lika Vácvara Pasencô, người mà Bunhin đã cùng chung sống suốt mấy năm, khi ông mới bước vào đời. Trong truyện của Bunhin, so với Vácvara, Lika đẹp lên rất nhiều cả về nội tâm cũng như ngoại hình. Lika mất ngay sau khi chia tay, còn ngoài đời thật thì Vácvara đã kịp đi lấy Bibicốp, con một nhà buôn giàu có và sống với y hơn 20 năm. Lika của Bunhin là hiện thân của vẻ đẹp cổ điển Nga, – yếu đuối, chân thành, cả tin, hồn hậu mà cũng rất bạo liệt vào những khúc rẽ ngoặt của cuộc đời. Còn nhân vật “tôi” thì đã phải trả giá cho cách sống quá phóng đãng của mình. Anh yêu Lika, yêu tận cuối lòng, nhưng lại nhân danh “chất nghệ sĩ” tự cho mình cái quyền đón nhận mọi cảm giác mới lạ của những chuyến phiêu du. Lika không chấp nhận được bất cứ sự san xẻ tình cảm nào, nàng đã tự chọn con đường ra đi… Nhưng có lẽ cái kết thúc ấy đã giữ cho tình yêu của nàng trọn vẹn…” *** Ivan Bunin sinh ngày 22/10/1870 tại Voronezh, tốt nghiệp trường Đại học Moskva. Sau đó ông là một nhà báo, và thư ký. Ông xuất bản tập thơ đầu tiên của mình vào năm 1891. Đến năm 1903, ông được nhận giải thưởng Pushkin của học viện Nga về các tác phẩm thơ dịch của Anh và Mỹ. Sau khi cuộc cách mạng bolshevik nổ ra vào năm 1917, ông sang Paris sinh sống. Các tác phẩm chính của ông bao gồm, các tuyển tập truyện ngắn Gospodin iz San Frantsisko – Quý ngài đến từ San Francisco và Tyomnye Alley – Con đường u ám, các tiểu thuyết Derevnya – Ngôi làng và Mitina lyubov – Tình yêu của Mitia. Truyện ngắn của I.Bunin phần lớn thuộc loại truyện không có cốt truyện. Các truyện viết chủ yếu là thông qua sự hoài niệm, nhớ lại của tác giả về những gì đã qua. Vì thế, tính chất tự truyện cũng là một đặc điểm nghệ thuật của văn xuôi Bunin. Có thể là ký ức của chính tác giả, hoặc của nhân vật “tôi” trong truyện. Chính hình thức nhớ lại này đã giúp cho tác giả bộc lộ cảm xúc trữ tình của mình đối với con người và cảnh vật được mô tả. Trong các truyện ngắn của ông, chúng ta thường thấy các cụm từ "ngày ấy", “vào thời gian đó” hay "hình như ngày đó"... diễn tả khoảng thời gian xảy ra chuyện nhưng cũng chính là hoài niệm của tác giả. Với lối kết cấu này, mặc dù đang sống thời hiện tại nhưng nhà văn có thể trở lại với quá khứ một cách dễ dàng thông qua những hồi ức, kỷ niệm. Chính sự đam mê hội hoạ và âm nhạc từ nhỏ của nhà văn là yếu tố quan trọng tạo nên chất tạo hình và khắc họa chân dung trong sáng tác của ông. Nhân vật hầu như không có sự xung đột hoặc cãi cọ nhau ồn ã. Sự thất vọng được thể hiện thông qua tiếng thở dài (Lần gặp gỡ cuối cùng); cái lắc đầu và nhắm mắt thay cho sự day dứt, luyến tiếc (Những lối đi dưới hàng cây tăm tối). Nhà văn dành những năm cuối đời để viết quyển sách về Chekhov, nhưng không kịp hoàn thành. Đêm 8/11/1953, Ivan Bunin qua đời trong tay người vợ của mình. Ông được mai táng tại Sainte-Geneviève-des-Bois, nghĩa trang "người Nga" ở Paris. *** Về chiều nắng nực giảm đi. Mặt trời đã khuất phía sau nhà. Chúng tôi ngồi uống trà trong phòng kính, bên cạnh cửa sổ mở ra sân. Lúc này nàng đọc rất nhiề những giờ ấy nàng hay đặt nhiều câu hỏi với anh tôi, và anh tôi thích thú chỉ dẫn cho nàng cặn kẽ. Chiều thật yên ắng, lặng gió, – chỉ có mấy chú nhạn thoáng bay qua sân rồi bỗng vút lên cao, mất hút trong thinh không xa thẳm. Họ nói chuyện với nhau, còn tôi thì lắng nghe tiếng ai đang hát. Bài ca hát về mấy người dân quê đang gặt lúa trên mấy cánh đồng cao cao. Âm điệu bài ca phẳng lặng, ngân dài, thấm đượm nỗi buồn ly biệt, tiếp đó là những âm thanh rắn rỏi, hùng dũng về những đoàn quân.   Bài ca như buồn bã dõi theo đoàn quân kazắc đang chầm chậm tiến qua thung lũng, dẫn đầu là vị tướng Đôrôsencô vinh quang…   Tôi lắng nghe tiếng bài hát, trong lòng cảm thấy buồn buồn pha chút ghen tỵ ngọt ngào.  Vào lúc hoàng hôn chúng tôi di dạo chơi, thỉnh thoảng đi lên phố, có lúc tới vườn hoa nhỏ trên bờ đất thoai thoải gần nhà thờ, có khi ra cánh đồng ngoài thành phố. Trong thành phố có vài đường phố lát đá, – đó là khu buôn bán của người Do Thái với một số lượng nhiều đến khó hiểu những hiệu đồng hồ, thuốc tân dược và hiệu thuốc lá. Những đường phố này còn giữ nguyên cái nóng sau một ngày mặt trời thiêu đốt, trên những ngã tư có quầy giải khát, ở đó khách bộ hành có thể uống những cốc xirô đủ màu sắc. Điều này nhắc tôi nhớ tới niềm Nam, thúc giục tôi đi xa hơn về phía Nam, – tôi vẫn còn nhớ dạo ấy không hiểu sao tôi rất hay nghĩ tới miền Kerơsơ. Nhìn từ trên nhà thờ xuống thung lũng, tôi mường tượng ra mình đang đi đến Krêmemtrúc, đến Nhicôlép. Ra cánh đồng ngoài thành phố chúng tôi thường đi qua vùng đầu ô phía tây trông hệt như thôn quê. Những ngôi nhà, vườn cây, ruộng dưa hấu nằm sát bên con đường thẳng tắp dẫn đến Mirơgôrốt. Tít tận đằng xa trên con đường dọc theo hàng cột dây thép có chiếc xe do hai con bò kéo đang chầm chậm lăn bánh rồi dần dần mất hút đi trên biển thảo nguyên như hàng cột điện cũng dần dần trở nên bé như cái que rồi không còn thấy nữa. Đó là đường tới Ianốpsina, Iarexca, Sisaki…   Nhiều khi chúng tôi dạo chơi buổi tối trong công viên thành phố. Ở đấy có dàn nhạc chơi, hàng hiên sáng ánh đèn của nhà hàng nổi bật lên từ xa như một cái sân khấu. Anh tôi đi thẳng vào nhà hàng, còn tôi và nàng thỉnh thoảng đi về phía vườn giáp với bờ sông cao cao. Đêm tối đen, ấm áp. Trong bóng đêm phía dưới, đây đó thấp thoáng ánh đèn, những bài ca khi bổng khi trầm nghiêm trang vọng lại – đó là những đám thanh niên vùng ngoại ô đang hát. Bài ca như hoà lẫn vào bóng đêm yên tĩnh. Đoàn tàu với những ô cửa sáng rầm rập chạy qua, tiếng động của nó nhỏ dần, nhỏ dần – lúc đó tôi cảm thấy thật rõ cái thung lũng này xa, sâu đến thế nào, vệt sáng đoàn tàu dần mất hút trong đó như thể nó chui sâu xuống đất. Tiếng hát lại nghe rõ, cả vòng cung chân trời bên thung lũng như chìm trong tiếng ếch kêu mơ hồ không dứt.   Khi chúng tôi bước lên hàng hiên đông đúc người ở nhà hàng, ánh sáng ở đấy khiến chúng tôi ngỡ ngàng lóa mắt. Anh tôi lúc này đã ngà ngà say, vẻ mặt hiền hoà, ngay lập tức vẫy tay gọi chúng tôi lại bàn, nơi anh ngồi cùng Vaghin, Lêôntêvích, Xulima. Mọi người hồ hởi xếp chỗ ngồi cho chúng tôi, cho gọi thêm rượu vang trắng, đưa thêm cốc và đá. Lát sau tiếng nhạc đã ngừng, vườn cây quanh hiên đã vắng vẻ chìm trong bóng tối, thỉnh thoảng có làn gió nhẹ từ đâu thổi tới, mấy ngọn nến đặt trong chụp thủy tinh bám đầy côn trùng bé lấm tấm; nhưng mọi người vẫn tiếp tục nói chuyện, thời gian còn sớm sủa. Cuối cùng thì mọi người đều thấy rằng đã đến lúc phải ra về. Tuy nhiên chúng tôi cũng không chia tay ngay – chúng tôi kéo cả đoàn đi về nhà, vừa đi vừa nói to, nện gót giầy cồm cộp. Vườn cây đã yên lặng như tờ, che phủ một màn đen bí ẩn, trăng muộn màng nhô lên trên đường chân trời tỏa ánh sáng vàng mờ nhạt, ấm áp. Khi chỉ còn anh em tôi cùng nàng đi vào sân nhà mình, ánh trăng đã rọi xuống đấy, soi sáng gian nhà kính; có tiếng con chim chích chốn nào kêu khe khẽ; mỗi một cái lá cây dạ hợp mọc gần ngôi nhà nhỏ, mỗi cành cây đều in bóng rõ ràng mềm mại lên bức tường màu trắng. ... Mời các bạn đón đọc Nàng Lika của tác giả Ivan Bunin.
Một Phút Một Đời - Pearl S. Buck
Từ hai thế giới khác biệt nhau, William và Ruth đã đến với nhau. Chàng tốt nghiệp đại học Mỹ thuật, là một thanh niên nhạy cảm con một gia đình giàu sang nhưng ích kỷ, chủ một hệ thống hỏa xa tại Hoa Kỳ. Nàng là cô gái nông thôn ít học, khỏe mạnh, đầy sức sống, con của một trại chủ ở Pennsylvavia. Trong một buổi đi du họa ở cùng quê, William đã gặp Ruth. Và ngay khi nhìn thấy nàng, chàng biết rằng đó là người đàn bà của mình, mặc dầu chàng đã có bạn gái là Elise - người mà gia đình chàng đinh ninh sẽ là con dâu tương lai của mình. Bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình, William đã mạnh dạn bỏ nhà đi theo Ruth, một cô gái ăn nói dịu dàng và đầy hấp dẫn, một cô gái quê chẳng biết gì về nghệ thuật và cuộc sống sang giàu, nhưng là một cô gái hoàn toàn biết cách tận hiến cho tình yêu. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi Mời các bạn đón đọc Một Phút Một Đời của tác giả Pearl S. Buck.
Khúc Quanh Của Dòng Sông - V. S. Naipaul
Cuốn sách miêu tả những vết thương lâu năm, khó lành lẫn vết thương mới của một châu Phi ngây thơ và già cỗi, có độc lập rồi vẫn còn nguyên mặc cảm tự ti. Ở một khúc quanh mới trong kỷ nguyên tự trị, cay đắng thay, châu Phi ngơ ngác tìm kiếm những hình bóng cũ châu Âu, nơi đã giam hãm mình trong nhiều thế kỷ nô lệ thuộc địa. Salim từ vùng biển phía Đông châu Phi đi sâu vào lục địa, đến một thành phố nằm bên khúc quanh của một dòng sông lớn, để tìm cách kinh doanh, để tìm kiếm chỗ đứng cho mình trong thế giới và để tìm hiểu bản thân mình. Ở thành phố đó, Salim phải sống trong bầu không khí ngột ngạt của một chế độ hậu thực dân, bàng hoàng trước nền độc lập lạ lẫm, loay hoay không biết phải bắt đầu từ đâu, chủ động hay thụ động trước những biến chuyển, và bạo loạn chắc chắn sẽ xảy ra. Anh tiếp xúc với người dân bản địa, như cô Zabeth và đứa con trai Ferdinand, như cặp vợ chồng Mahesh và Shoba… Anh tìm hiểu thành phố, từ Quảng trường đến trường Trung học, từ khách sạn Van der Wyeden đến bến tàu…Rồi không gian được mở rộng ra với việc xây dựng Khu mới bên ngoài thành phố, sự xuất hiện trở lại của người da trắng, sự thay da đổi thịt của giới trẻ châu Phi, sự biến động chính trị của vị Tổng thống vĩ đại. Không gian được tiếp tục mở rộng khi Indra, người bạn thời thơ ấu của Salim xuất hiện, thoạt tiên trong hào quang của một người học ở Oxford về, sau đó dưới hình dạng thảm hại của một kẻ hoang mang trước tất cả, không chắc chắn về điều gì hết. Không gian còn mở rộng tới châu Âu, nhưng đến đó thì Salim đã hiểu ra mình không thể chạy thoát những ràng buộc vô hình. Thế giới dù rộng lớn vẫn không có chỗ cho anh, anh vẫn phải đóng đinh vào cái thành phố bên khúc quanh của dòng sông. *** Vidiadhar Surajprasad Naipaul mang quốc tịch Anh, sinh năm 1932 ở Chaguanas gần Port of Spain thuộc Trinidad, trong một gia đình di cư từ miền Bắc Ân Độ, song không ít tác phẩm của ông lại lấy bối cảnh Châu Phi. Con người V.S. Nailpaul bao gồm nhiều nền văn hóa, cuộc đời ông trải rộng trên cả bốn châu lục lớn - ông từng du lịch khắp Châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Sự đa dạng đó khiến Naipaul luôn băn khoăn về vị trí, gốc gác của mình. Khi còn trẻ ông đã từng chán nản với sự nghèo nàn về tinh thần ở Trinidad, bỏ sang Anh học đại học, nhưng khi đã định cư tại đó ông lại thấy mình không thể hòa đồng được với lối sống bản địa, trong khi đó dòng máu Án Độ vẫn chảy mạnh trong huyết quản. V.S. Naipaul, với tư cách nhà văn, thường đặt ra những câu hỏi về đa dạng văn hóa, đặc tính tâm lý phức tạp của các nhóm và tộc người, sự hòa trộn và đặc điểm tiêu biểu không thể nhầm lẫn, cả đến những mặc cảm mang tính bộ tộc, dân tộc… tất cả đều được miêu tả kỹ lưỡng và tinh tế trong Khúc quanh của dòng sông. V.S.Naipaul bắt đầu cầm bút từ rất sớm, sau khi học xong Universtity College of Oxford. Cả đời ông gần như không làm công việc nào khác ngoài viết văn. Sau tiểu thuyết đầu tay, The Mystic Masseur (Người thợ mát xa bí ẩn - 1957), Naipaul trở nên nổi tiếng với cuốn A House for Mr. Biswas (ngôi nhà của ngài Biswas - 1961), tiểu thuyết thứ nhất của ông. Những tác phẩm đầu tay này thường lấy bối cảnh vùng Tây Ấn, sau đó Naipaul mở rộng địa lý văn chương của mình, hướng tới chủ đề hậu thuộc địa nóng bỏng, nhất là tại châu Phi. Hai tiểu thuyết của ông về đề tài này là Guerillas và nhất là A bend in the River, một phẫu thuật tài tình trưng bày những ung nhọt, từ các vết thương lâu năm khó lành lẫn các vết thương mới của châu Phi già nua mà ngây thơ, đã giành được độc lập nhưng vẫn còn nguyên vẹn mặc cảm nô lệ - tự ti và thấp kém. Lẫn trong sự miêu tả tinh vi, thấu đáo là một niềm thương cảm kín đáo, một day dứt cho số phận một châu lục đang trong giai đoạn bế tắc. Việc ông giành được giải Nobel văn chương năm 2001 (chưa kể trước đó 30 năm, ông đã đoạt giải Booker 1971) không nằm ngoài dự đoán của các nhà nghiên cứu văn học thế giới. Naipaul đã đóng góp to lớn cho một dòng văn học đau đớn nhưng có ích, dòng văn học nhìn trực diện vào các xã hội lạc lõng giữa thế giới, đứng bên lề sự phát triển chung và còn lâu năm nữa mới thoát được vũng lầy đó. *** Công dân Théotime đến vào buổi sáng, mắt đỏ mọng và trông như bị tra tấn, lơ lửng với ly bia uống vào bữa sáng, với vài quyển truyện cười hoặc tiểu thuyết minh hoạ bằng ảnh để giết thời gian ở văn phòng. Có một hệ thống trao đổi tạp chí không chính thức ở thị trấn. Théo luôn luôn có cái gì mới để xem. Và thật lạ, những truyện cười hoặc tiểu thuyết – ảnh của ông ta, lăn lóc, đã khiến ông ta có cái vẻ bận rộn, giống như những thương gia khi ông ta đến cửa hiệu. Ông ta đi thẳng vào phòng kho, và có thể ở lại đó không hề đi ra suốt cả buổi sáng. Thoạt tiên tôi nghĩ bởi vì ông ta muốn không bị quấy rầy. Nhưng rồi tôi hiểu không phải vậy. Ông ta thích ở trong phòng kho tối tăm chẳng làm việc gì cụ thể, chỉ nhìn vào những quyển tạp chi của mình trong khi tâm trạng say sưa lan toả con người ông ta. Sau đó khi ông ta đã thoải mái và bớt rụt rè hơn với tôi , cuộc sống trong căn phòng kho trở nên phong phú hơn. Ông bắt đầu có đàn bà đến viếng thăm. Ông thích họ nhìn thấy ông thực sự là một directeur – giám đốc – với một nhân viên và một văn phòng, và điều đó cũng làm những người đàn bà thích thú. Một chuyến viếng thăm có thể mất cả một buổi chiều, mà chỉ là Théotime và người đàn bà chuyện gẫu theo cách người ta vẫn chuyện gẫu khi đang trú mưa – với những lần dừng lại rằng lâu và những cái nhìn thôi miên dài theo những hướng khác nhau. Đó là một cuộc sống dễ dàng với Théotime, dễ dàng hơn bất cứ gì ông ta có thể tưởng tượng khi còn là một thợ máy ở sở y tế. Nhưng khi ông ta có được sự tự tin, và không còn sợ hãi việc Tổng thống lại sẽ tước mất cửa hiệu từ tay ông ta, ông ta trở nên khó tính. Ông ta bắt đầu nghĩ rằng là một directeur ( Giám đốc )mà không có xe thì không thể được. Có lẽ một người đàn bà nào đó đã khiến ông ta nghĩ vậy, hoặc có thể là tấm gương từ những người chủ Nhà nước khác, hoặc có thể là điều gì đó ông ta rút được từ những cuốn truyện cười. Tôi có một chiếc xe, ông ta bắt đầu hỏi mượn tôi, và rồi đòi tôi chở ông ta đi đây đó khỏi nhà và về nhà. Tôi có thể từ chối. Nhưng tôi tự nhủ đó là một việc nhỏ để làm ông ta trật tự. Những lần đầu tiên ông ta ngồi hàng ghế trên, rồi ông ta chuỷên xuống ngồi hàng ghế sau. Đó là công việc bốn-lần-một-ngày. Ông ta không im lặng được lâu. Có thể là do tôi tỏ ra thoải mái, chỉ mong muốn không bị làm nhục. Théotime tìm thấy những cách mới để tự thể hiện mình. Giờ đây điều rắc rối là ông ta không biết phải làm gì. Ông ta có thể thích sống bên ngoài vai trò thực của mình – chiếm đoạt sự điều hành của cửa hiệu, hoặc cảm thấy (trong khi vẫn vui thú với cuộc sống trong nhà kho) rằng ông ta đang điều hành cửa hiệu. Dù vậy ông ta cũng biết rằng ông ta chẳng biết gì cả, ông ta biết rằng tôi biết ông ta không biết gì cả, và ông ta giống như một người giận dữ với sự không biết gì của mình. Ông ta lặp đi lặp lại một vài trò. Ông ta say sưa, tức tối và đe doa, và là một kiểu tức tối có tính toán như là một quan chức đã quyết định phải malin. Thật là lạ. Ông ta muốn tôi công nhận ông ta là chủ. Và cùng lúc ông ta lại muốn tôi phải đoái hoài đến ông ta, một người đàn ông không được giáo dục. Ông ta muốn có cả sự kính trọng lẫn sự bao dung của tôi, thậm chí cả lòng thương xót của tôi. Nhất là khi ông ta muốn tôi cư xử như một thuộc hạ và ủng hộ ông ta. Nếu như đáp lại, tôi làm vậy, nếu tôi mang một thứ giấy tờ đơn giản nào đó của cửa hiệu đến cho ông ta, quyền lực của ông ta hẳn là sẽ có thật lắm. Ông ta thêm điều đó vào ý tưởng về vai trò của mình, và ông ta có thể sử dụng quyền lực đó sau này để nặn ra một sự nhượng bộ. Như là ông ta đã làm với chiếc xe. Còn tệ hơn là làm việc với một quan chức malin. Vị quan chức vờ như bị xúc phạm – và gào vào bạn, chẳng hạn, rụt tay khỏi bàn ông ta – chỉ đơn giản là đòi tiền mà thôi. Théotime, nhanh chóng chuỷên từ một sự tự tin đơn giản vào vai trò của mình đến chỗ hiểu ra sự vô dụng của mình, muốn bạn phải vờ coi ông ta là một kiểu người khác. Điều này không có gì đáng buồn cười. Tôi đã giải quyết nó để được yên tĩnh với việc riêng của mình, để đặt đầu óc vào mục tiêu riêng của mình. Nhưng thật không dễ để có thể được yên ổn. Cửa hiệu trở thành một nơi thật đáng ghét với tôi. Còn tệ hơn với Metty. Những công việc nhỏ nhặt nó làm cho Théotime thoạt tiên đã trở thành những việc nó bị đòi hỏi phải làm và bị nhân lên rất nhiều. Théotime bắt đầu bắt Metty đi làm những công việc lặt vặt rất đáng ngán. Buổi tối muộn, khi nó trở về nhà sau khi ở chỗ gia đình nó, Metty vào phòng tôi và nói "Cháu không chịu được nữa rồi, patron. Rồi một ngày cháu sẽ làm điều gì đó khủng khiếp. nếu Théo không chịu dừng lại, cháu sẽ giết lão. Cháu thà cày cuốc ở ngoài đồng còn hơn là làm người hầu cho lão". ... Mời các bạn đón đọc Khúc Quanh Của Dòng Sông của tác giả V. S. Naipaul.
Khi Người Con Gái Lên Núi - Pearl S. Buck
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Viên phi công bay lượn vòng chầm chậm để tìm kiếm, vì bây giờ họ ở ngay trên đỉnh núi. Ðó là một dãy núi trơ trụi, chỉ có một vài bụi cây xanh. Viên phi công gật đầu, và nàng nhìn xuống. Kìa, ở giữa hai mỏm núi là một thung lũng thấp, và trong thung lũng có nhiều căn nhà thấp xây bằng đá. Một bức tường bao quanh những căn nhà này. Ðây đúng là trại của đảng cướp Sói Xanh. Quanh gần đấy chẳng có gì cả. Hơn nữa, viên phi công đã tới văn phòng của tòa án và hỏi địa điểm chính xác của ngọn núi. Họ đã cho viên phi công một bản đồ. Mọi người đều biết nơi những tên cướp sống, vì các thương gia đã được cảnh cáo không được đi qua cái đèo của ngọn núi. Viên phi công bắt đầu bay thấp xuống. Gió bắt đầu giảm và bây giờ nàng có thể hét to vào tai viên phi công: “Anh phải chờ tại đây và để máy nổ sẵn sàng. Ngay lúc chúng tôi ra, anh phải sẵn sàng cất cánh ngay! Chúng tôi có lẽ phải chạy ra thật nhanh mới thoát chết.” Viên phi công gật đầu. Bên dưới họ, những hình dáng người nhỏ bé đang tụ tập bên ngoài những căn nhà đá. Nàng có thể trông thấy mặt họ ngẩng lên, những cánh tay giơ lên chỉ trỏ. Chiếc phi cơ bỗng nhiên hạ xuống, và những người đang tụ tập bên dưới hoảng hốt tản mát ra. Nàng bảo viên phi công, “Họ sợ đấy. Họ chưa bao giờ trông thấy phi cơ. Nhớ để máy lúc nào cũng sẵn sàng!” Viên phi công lại gật đầu, và nàng cảm thấy phi cơ đụng vào mặt đất một hai lần rồi dừng lại và tiếp tục rung chuyển. Những người đàn ông nhìn ra cửa và bước lại phía họ, nửa tò mò nửa sợ sệt. Nàng nhảy xuống đất một cách nhẹ nhàng, bước lại phía họ, và mạnh dạn hỏi họ. “Chủ tướng của các ngươi đâu? Ta tới gặp ông ta.” Nàng định không nói gì tới tên Thiếu Hổ, sợ có thể bị bắt làm tù binh. Không, hãy để mặc họ đoán xem nàng là ai.     Không một người nào trả lời. Họ nhìn lẫn nhau. Nếu nàng chưa bao giờ trông thấy loại người như họ thì nàng đã sợ hãi họ rồi. Nhưng nàng biết họ - họ cùng là một loại người thô lỗ, những người hung dữ bất mãn, sẵn sàng đi theo bất cứ tướng cướp nào. Nàng nhắc lại, nhỏ nhẹ, “Các người nên nói đi. Ta tới đây với tin tức quan trọng cho ông ta. Các ngươi thấy đó, ta tới đây một cách vội vàng, bằng một con tầu, bay trong không khí.” Một tên tò mò hỏi, “Cái đó là gì thế? Khi tôi trông thấy nó, tôi tưởng nó là một con chim đại bàng.” Một tên khác nói, “Chúng tôi từng nghe nói đến tầu bay, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy.” Cả bọn giống như những đứa trẻ lớn con, chỉ muốn sờ vào cái vật lạ mà chúng sợ hãi. ... Mời các bạn đón đọc Khi Người Con Gái Lên Núi của tác giả Pearl S. Buck.